Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

bài giảng tai mũi họng : CHONG MAT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.45 KB, 12 trang )

CHÓNG MẶT
Bài giảng cho chuyên khoa định hướng TMH
PGS.TS. Phạm Trần Anh

I. Đại cương
Chóng mặt (dizziness) là một triệu chứng rất thường gặp, và th ường khó
diễn tả, chóng mặt có nhiều kiểu: chóng mặt kiểu xoay tròn(vertigo), chóng mặt
kiểu sắp xỉu(presyncope),chóng mặt kiểu mất thăng bằng và chóng mặt không điển
hình (chóng mặt do nguyên nhân tâm lý). Chóng mặt do nhiều nguyên nhân, 40%
rối loạn tiền đình ngoại biên, 10% tổn thương tiền đình trung ương ở thân não,
15% do rối loạn tâm thần và 25% do các nguyên nhân khác như sắp xỉu và mất
thăng bằng khi đi lại. Chẩn đoán chưa rõ chiếm tỷ lệ 10%. Căn nguyên chóng mặt
thay đổi tùy theo tuổi, ở người cao tuổi thường do tổn thương tiền đình trung ương,
phần lớn do đột quỵ (tương ứng 20%), chóng mặt không điển hình và sắp xỉu gặp ở
người trẻ nhiều hơn.
II. Giải phẫu
Cơ quan tiền đình gồm có:
-Mê đạo màng: nằm trong mê đạo xương ở tai trong, chúa nội dịch. Bao gồm: ốc
tai, soan nang, cầu nang và các ống bán khuyên.
- Ống bán khuyên: mỗi tai có 3 ống bán khuyên: bên, trước và sau, nằm thẳng góc
với nhau, phần phình ra mỗi ống đổ vào soan nang gọi là bóng (ampulla) chứa các
thụ thể kích thích khi xoay đầu. Ví dụ khi xoay đầu sang trái thì ống bán khuyên
báo cho biết đầu quay theo hướng nào và nhanh như thế nào.
-Soan nang, cầu nang: có các thụ thể cho các cảm giác về trọng lực và gia tốc
thẳng. Ví dụ: nếu đầu nghiêng về một bên, các thụ thể sẽ báo góc nghiêng, đầu có


nghiêng ra trước hoặc ra sau klhông; Khi chạy xe gia tăng tốc độ, ngừng lại đen đỏ
các thụ thể sẽ cho cảm tưởng gia tăng tốc độ.
-Cơ quan nhận cảm:
+ Mào: nằm trong bóng, được cấu tạo bởi các tế bào lông, phía trên các tế


bào phủ một lớp gelatin gọi là đài (cupula), lông của tế bào nằm trong đài gồm có
lông rung (kinocilium) và lông lập thể (stereocilia), còn đáy tế bào tiếp xúc với nơrôn của nhánh tiền đình.
+ Vết: ở trên soang nang và cầu nang được cấu tạo bởi các tế bào lông, phủ
lên trên tế bào lông là sỏi tai (otoliths).
Nhân tiền đình:
Các bộ phận nhận cảm của tiền đình ngoại biên nằm ở mê đạo màng, thân tế
bào ở hạch tiền đình, nhánh tiền đình của dây tiền đình ốc tai (dây VIII) đi đến
nhân tiền đình nẵm giữa cầu não và hành não.
Chức năng nhân tiền đình: (1) đồng nhất các thông tin đến từ mỗi bên của
đầu (2) nhận các tín hiệu và tiếp tục truyền tới tiểu não (3) nhận các tín hiệu và tiếp
tục truyền tới vỏ não cho nhận thức về giác quan vị trí và vận động (4) gởi mệnh
lệnh đến các nhân vận động nằm ở thân não và tủy sống, các lệnh được đưa đến
dây sọ (III, IV, VI, XI), bó tiền đình tủy sống chi phối
trương lực cơ ngoại biên và bổ sung vận động đầu và cổ.
Đường dẫn truyền: thân tế bào của khoảng 19.000 neuron tiền đình ngoại
biên xuất phát từ mào và vết mỗi bên tập trung ở hạch tiền đình và chấm dứt ở
nhân tiền đình (ranh giới hành-cầu não) và thùy nhung nút của tiểu não. Các
neuron tiền đình trung ương (từ nhân tiền đình) đi xuống tủy sống theo bó tiền đình
sống và đi lên thân não theo bó dọc giữa đến các nhân dây thần kinh sọ điều khiển
cử động mắt.


III. Triệu chứng lâm sàng
III.1. Triệu chứng chủ quan
Chóng mặt là triệu chứng chủ yếu. Bệnh nhân có cảm giác bị dịch chuyển,
mọi vật xung quanh xoay tròn, hoặc chính bản thân bệnh nhân xoay tròn so với
những vật xung quanh. Trong những trường hợp rõ ràng, cảm giác bị dịch chuyển
rất rõ, có thể xảy ra trên mặt phẳng đứng dọc hoặc mặt phẳng đứng ngang. Tuy
nhiên, trong một vài trường hợp chóng mặt không rõ ràng, BN chỉ có cảm giác dịch
chuyển hoặc lắc lư thân mình, hoặc cảm giác bay lên, rớt xuống hoặc cảm giác mất

thăng bằng.
Các dấu hiệu đi kèm thường hằng định: Bệnh nhân thường có cảm giác khó
chịu, thường là sợ hãi, mất thăng bằng. Té ngã có thể xảy ra lúc chóng mặt, lúc này
bệnh nhân không thể đứng được. Ngoài ra, bệnh nhân có thể có rối loạn dáng đi.
Buồn nôn, ói mửa xuất hiện khi làm những cử động nhẹ nhàng và thường đi kèm
các rối loạn vận mạch như da tái xanh, vã mồ hôi, giảm nhịp tim.
* Chúng ta cần lưu ý tất cả những đặc điểm của chóng mặt:

-

Kiểu xuất hiện của chóng mặt: có thể xuất hiện đột ngột và có tính

chất xoay tròn, hoặc có thể xuất hiện từ từ với những cơn chóng mặt nhỏ nối tiếp
nhau hoặc chỉ mất thăng bằng nhẹ lúc đi lại và sau đó triệu chứng này trở thành
mãn tính.

-

Chóng mặt xảy ra lúc thay đổi tư thế từ nằm sang ngồi không, chóng

mặt có lệch về một bên nào không?

-

Các dấu hiệu đi kèm: quan trọng nhất là các dấu hiệu về thính lực

(giảm thính lực, ù tai, cảm giác tai bị đầy, điếc đặc), kế đến là các dấu hiệu về thần
kinh thực vật (buồn nôn, nôn ói, lo lắng). Lưu ý là bệnh nhân hoàn toàn không mất
ý thức.



-

Tiền sử của bệnh nhân về tai mũi họng (viêm tai kéo dài), về thần

kinh, chấn thương (chấn thương sọ não), về ngộ độc (ngộ độc thuốc, đặc biệt là các
khgáng sinh độc với tai), về mạch máu, về dị ứng.

-

Đặc điểm diễn tiến và tần số cơn chóng mặt.

III.2. Triệu chứng khách quan
a) Rung giật nhãn cầu (nystagmus): là triệu chứng chủ yếu.
Rung giật nhãn cầu nhãn cầu do nguyên nhân tiền đình thường đánh theo
nhịp. Đó là cử động của nhãn cầu theo nhịp gồm sự nối tiếp nhau giữa hai pha: pha
chậm đưa nhãn cầu sang một phía (do tác động của hệ tiền đình), kế đến là pha
nhanh đưa nhãn cầu theo chiều ngược lại, đưa mắt về vị trí nghỉ ngơi (do tác động
của chất lưới cầu não).
Khi có triệu chứng rung giật nhãn cầu, chúng ta cần xác định hướng, chiều
và mức độ của nó.

-

Hướng (direction): Rung giật nhãn cầu tiền đình được gọi tên theo

hướng đánh nhanh vì chiều này được thấy rõ nhất khi khám lâm sàng. Có thể là
rung giật nhãn cầu ngang, dọc hoặc xoay tròn (cùng chiều kim đồng hồ hoặc ngược
chiều kim đồng hồ), hoặc rung giật nhãn cầu hỗn hợp (ngang – xoay tròn).
Hướng của rung giật nhãn cầu phụ thuộc vào vòng bán khuyên bị kích thích,

tức là phụ thuộc vào vị trí của đầu trong lúc khám bệnh. Rung giật nhãn cầu được
tạo ra lúc đầu là do sự di chuyển của nội dịch: pha chậm của rung giật nhãn cầu
đánh theo hướng của dòng nội dịch.
Chóng mặt là hiện tượng bù trừà theo hướng ngược lại: hướng pha nhanh
của rung giật nhãn cầu

-

Chiều (sens): sang (P), sang (T) đối với nystagmus ngang, lên trên,

xuống dưới đối với nystagmus dọc, cùng chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim
đồng hồ đối với nystagmus xoay tròn.


-

Mức độ:

+ Độ I: xuất hiện nystagmus có chiều đánh cùng chiều với phía mà mắt liêc
sang bên đó. Ví dụ nystagmus đánh sang (P) khi mắt liếc sang (P).
+ Độ II: nystagmus xuất hiện cả khi mắt ở đường giữa.
+ Độ III: nystagmus đánh sang chiều ngược lại với phía mà mắt liếc sang. Ví
dụ nystagmus đánh sang (T) khi mắt liếc sang (P).
b) Rối loạn thăng bằng

*

Các rối loạn tĩnh trạng: chú ý đến sự di lệch của thân, trục cơ thể: sự

di lệch này đi theo hướng của dòng nội dịch.

Dấu Romberg: khi bệnh nhân đứng, hai chân khép lại, ta sẽ thấy thân mình
BN nghiêng về một bên, hiếm hơn là nghiêng ra phía trước hoặc phía sau nhưng
thuờng là cùng một phía đối với một bệnh nhân. Rối loạn này tăng lên khi bệnh
nhân nhắm mắt (dấu Romberg tiền đình). Nếu nặng hơn, bệnh nhân có thể bị té
ngã, đôi khi xảy ra đột ngột, lúc này đứng và đi không thể thực hiện được.
Nghiệm pháp đi bộ (Unterberger test): bệnh nhân đi bộ trên một điểm trong
một phút, hai tay đưa thẳng ra trước mặt, đầu gối chân co lên phải đưa lên cao, nếu
cần thiết cho bệnh nhân đếm cùng lúc để tránh tập trung, nếu có tổn thương tiền
đình bệnh nhân sẽ khởi đầu quay trục của mình theo một hướng đặc biệt, quay hơn
450 trong 50 bước là bệnh lý.
Nghiệm pháp giơ thẳng hai tay: Bệnh nhân ở tư thế đứng thẳng, hai mắt
nhắm, hai tay đua thẳng ra trước, hai ngón trỏ nhắm vào hai ngón trỏ tương ứng
của người khám, ta ghi nhận có sự di lệch chậm trên mặt p[hẳng ngang theo
hướpng bên tiền đình bị bệnh đối với bênh lý tiền đình ngoại biên.

*
dịch

Rối loạn động trạng: sự di lệch của các chi theo hướng của dòng nội


Nghiệm pháp bước đi hình sao (Test Babinski-Weil): yêu cầu bệnh nhân
nhắm mắt, bước tới 5 bước sau đó lùi lại 5 bước lập lại nhiều lần khoảng 30 giây.
Nêu giảm chức năng tiền đình một bên bệnh nhân có khuynh hướng lệch về một
bên (bên bệnh) khi tiến lên và lệch theo hướng ngược lại khi lùi ra sau vẽ nên hình
ngôi sao.
Nghiệm pháp past pointing: Bệnh nhân giơ thẳng hai tay ra trước, ngón trỏ
chạm vào ngón trỏ của người khám, sau đó yêu cầu bệnh nhân nhắm mắt, đưa tay
lên và hạ xuống chạm vào tay người khám lần nữa. Đối với người có rối loạn tiền
đình hai ngón trỏ không chạm tay người khám mà bị di lệch sang một bên, chúng

ta ghi nhận độ di lệch đó. Càng làm nhiều lần, góc độ di lệch có thể càng tăng.
Trong khi khám luôn chú ý chiều của hướng đi lệch, hướng tay lệch và chiều
chậm của nystagmus xem có sự tương hợp, sự hài hòa hay không.

c

Nghiệm pháp nhiệt: đây là một nghiệm pháp dễ thực hiện, giúp

chúng ta đánh giá được hoạt động của từng cơ quan tiền đình riêng biệt. Cho BN
nằm ngửa, đầu nâng cao ở góc 300 độ, giữ ống bán khuyên bên ở vị trí thẳng đứng,
bơm vào tai bệnh nhân nước lạnh 33độ hoặc nước nóng 44độ trong thời gian
khoảng 40 giây, thời gian tối thiểu giữa hai lần thử là 5 phút, nước ấm ít gây khó
chịu hơn nước lạnh. Chú ý khám xem màng nhĩ có bị tổn thương trước khi làm
nghiệm pháp nhiệt (thủng màng nhĩ là chống chỉ định).
Ở bệnh nhân tiền đình bình thường, kích thích nước lạnh xuất hiện rung giật
nhãn cầu với chiều chậm hướng về tai kích và chiều nhanh theo hướng ngược lại.
Ở bệnh nhân tổn thương tiền đình một bên: kích thích không có rung giật
nhãn cầu, hay xuất hiện rung giật nhãn cầu chậm, có biên độ yếu và thời gian ngắn
hơn so với bên lành.

d

Nghiệm pháp ghế quay (Bárány): cho bệnh nhân ngồi trên một ghế

quay, đầu cúi ra phía trước một góc 30 độ, cho ghế quay 10 vòng trong 20 giây, sau


đó ngưng lại, quan sát các phản ứng xuất hiện. Nếu chiều quay của ghế là sang bên
phải thì sau khi ngưng quay bệnh nhân có rung giật nhãn cầu đánh ngang sang trái,
khi đứng ngã về bên trái, ngón tay lệch về bên trái.

Thường nghiệm pháp này dùng để khảo sát chức năng tiền đình hai bên ở
những bệnh nhân bị điếc hoàn toàn.

e

Nghiệm pháp Nylen-Bárány: khi bệnh nhân có chóng mặt tư thế lành

tính, nghiệm pháp này có mục đích làm tăng triệu chứng. Cho bệnh nhân ngồi quay
đầu sang phải, nhanh chóng cho bệnh nhân nằm ngửa đầu thấp hơn mặt phẳng
ngang một góc 300, quan sát có rung giật nhãn cầu và chóng mặt. Sau đó đưa bệnh
nhân ngồi dậy đầu vẫn tiếp tục dược giữ ở tư thế quay (P) quan sát xem bệnh nhân
có chóng mặt và rung giật nhãn cầu. Nghiệm pháp được lập lại với đầu và mắt
quay sang trái nằm xuống và nhìn thẳng nằm xuống.
Ngoài ra còn phải khám thêm về thần kinh xem bệnh nhân có tổn thương dây
VIII thính lực, dây VII, dây V, tổn thương tiểu não, và các tổn thương về vận động,
cảm giác.
IV. Các nguyên nhân gây chóng mặt
1/ Hội chứng tiền đình ngoại biên
1.1. Cơn chóng mặt dữ dội xuất hiện cấp tính.
Trong trường hợp này chẩn đoán tổn thương tiền đình không có gì khó khăn
cả: chóng mặt rất rõ, thường là xoay tròn và nặng lên khi cử động đầu.
Chóng mặt đi kèm với buồn nôn, ói mửa và rối loạn thăng bằng (chóng mặt thường
gây nên té ngã, bệnh nhân đi chệnh choạng hoặc không thể đi được).
Khám lâm sàng ghi nhận có rung giật nhãn cầu và ngón tay chỉ lệch.
a) Hội chứng tiền đình ngoại biên đi kèm với nghe kém
Bệnh Ménière hay hội chứng Menière là bệnh lý gồm những cơn chóng mặt
lập đi lập lại phối hợp với ù tai và nghe kém dần dần tai bên bệnh. Lúc đầu ù


và/hoặc nghe kém có thể không xuất hiện trong những cơn đầu của bệnh. Nhưng

khi bệnh tiến triển thì các triệu chứng này xuất hiện đều đặn và cường độ tăng dần
lên trong cơn chóng mặt.
Cơn chóng mặt thường xảy ra đột ngột, kéo dài nhiều phút hoặc cả giờ đồng
hồ. Chóng mặt thường theo kiểu xoay tròn và ở mức độ nặng làm bệnh nhân không
thể đứng hoặc đi lại được. Chóng mặt thường đi kèm với buồn nôn, nôn mửa, ù tai,
cảm giác đầy cả tai, và giảm thính lực (cường độ có thể tăng dần trong cơn).
Khám lâm sàng ghi nhận rung giật nhãn cầu có hướng ngang (có khi kèm
thêm xoay tròn). Pha chậm của rung giật nhãn cầu cũng như hướng ngón tay chỉ
lệch, hướng nghiêng người trong nghiệm pháp Romberg đều cùng phía với tai
bệnh. Bệnh nhân có khuynh hướng nằm nghiêng, tai bệnh hướng lên trên (nằm áp
tai lành xuống mặt giường) và không thích nhìn sang bên lành vì động tác này làm
nặng thêm tình trạng chóng mặt và rung giật nhãn cầu.
Các cơn thay đổi rất nhiều về mức độ nặng nhẹ và về tần số xuất hiện. Cơn
có thể xảy ra nhiều lần trong tuần và nhiều tuần liên tiếp, hoặc có khi chỉ tái phát
sau nhiều năm không có cơn.
Trong các thể nhẹ của bệnh, bệnh nhân thường có cảm giác nặng đầu, kém
tập trung chứ không phải chóng mặt đúng nghĩa, và có thể bị chẩn đoán lầm là lo
lắng hoặc trầm cảm.
Bệnh thường gặp ở lứa tuổi 20 đến 50, nam nữ đều mắc bệnh như nhau
Cơ chế bệnh sinh chưa rõ, có thể là do tăng thể tích trong hệ thống nội dịch
do giảm sự hấp thu hoặc tắc nghẽn trong ống dẫn.
* Điều trị:
Điều trị trong cơn cấp: nằm tại giường là phương pháp điều trị tốt nhất vì
bệnh nhân có thể tìm ra một tư thế thích hợp để chóng mặt ít xảy ra nhất.
Trong những cơn kéo dài có thể dùng dimenhydrinate, cyclizine, meclizine.


Chế độ ăn giảm muối cũng nên dùng dù rằng hiệu quả của chế độ ăn này khó
mà đánh giá được.
Có thể điều trị bằng phẫu thuật.


b) Hội chứng tiền đình ngoại biên không có điếc tai đi kèm
Khi không có điếc tai đi kèm chúng ta cần phân biệt giữa hội chứng tiền đình
ngoại biên và hội chứng tiền đình trung ương xảy ra đột ngột. Trong hội chứng tiền
đình ngoại biên sẽ không có các dấu hiệu tổn thương thân não hay tiểu não đi kèm.
* Viêm thần kinh tiền đình:
Cơn xảy ra kịch phát, thường chỉ có chóng mặt, không có ù tai, điếc tai đi
kèm.
Thường gặp ở tuổi trung niên, xảy ra ở cả hai phái.
Cơn chóng mặt xảy ra sau khi bị nhiễm trùng ở đường hô hấp trên, do đó
nghĩ nhiều đến có thể do nhiễm siêu vi.
Chóng mặt tự thuyên giảm trong vòng vài giờ, vài ngày. Việc điều trị chỉ là ủ
ấm. Nếu kéo dài có thể sử dụng các thuốc điều trị triệu chứng.
Cơn chóng mặt có thể chỉ là một đợt duy nhất hoặc có khi tái đi tái lại nhiều
lần (gọi là bệnh lý tiền đình mãn tính), nhưng luôn có tiên lượng tốt vì không ảnh
hưởng đến ốc tai.
1.2. Chóng mặt ngoại biên xuất hiện mãn tính
Trong trường hợp này chóng mặt thường không rõ, xảy ra trong thời gian
ngắn hoặc thường gặp là cảm giác chóng mặt, cảm giác mất thăng bằng và thường
khó phân biệt với cảm giác sợ té, cảm giác hoa mắt.


a) Chóng mặt tư thế
Tất cả các trường hợp chóng mặt đều nặng lên khi có cử động của đầu, tuy
nhiên gọi là chóng mặt tư thế chỉ khi mà chóng mặt xuất hiện ở một tư thế định sẵn
trong không gian.
Chóng mặt tư thế lành tính (Benign Positional Vertigo):
Bệnh có đặc điểm là cơn chóng mặt kịch phát và rung giật nhãn cầu xảy ra ở
những tư thế đặc biệt của đầu, nhất là khi nằm xuống, khi lật qua lật lại trên
giường, khi ngóc đầu lên và đứng dậy, khi ngửa đầu ra sau. Mỗi cơn kéo dài chưa

đầy một phút, nhưng có thể có nhiều cơn lập lại trong nhiều ngày, nhiều tháng hoặc
hiếm hơn nhiều năm. Khám lâm sàng hoàn toàn không phát hiện bất thường về
thính lực, về tổn thương trong tai, hoặc bất thường ở những nơi khác.
Chẩn đoán nhờ nghiệm pháp Nylen-Barany. Khi cho làm nghiệm pháp, bệnh
nhân xuất hiện cơn chóng mặt kịch phát (sau vài giây), bệnh nhân sợ hãi, nắm chặt
tay người khám hoặc thành giường và ngồi dậy. Chóng mặt thường kèm theo
những cử động đong đưa của mắt và rung giật nhãn cầu, chủ yếu theo kiểu ngangxoay tròn, hướng xuống nền nhà. Chóng mặt và rung giật nhãn cầu kéo dài không
quá 30-40 giây (thường không quá 15 giây). Khi chuyển từ tư thế nằm sang tư thế
ngồi thường bệnh nhân vẫn còn chóng mặt và vẫn còn rung giật nhãn cầu.
Lập lại nghiệm pháp này, chóng mặt và rung giật nhãn cầu sẽ ít rõ ràng hơn,
sau 3-4 lần chúng ta sẽ không thấy xuất hiện chóng mặt và rung giật nhãn cầu nữa.
Tuy nhiên, sau khi cho bệnh nhân nghỉ một thời gian, làm lại nghiệm pháp, chóng
mặt và rung giật nhãn cầu nhãn cầu có thể xuất hiện lại với mức độ trầm trọng như
lúc đầu.
Lưu ý rằng nghiệm pháp Nylen-Barany âm tính vẫn không thể loại trừ chẩn
đoán. Ở một số bệnh nhân không có chóng mặt và rung giật nhãn cầu khi làm


nghiệm pháp này, tuy nhiên dựa vào bệnh sử và những yếu tố khác chúng ta vẫn
phải nghĩ đến chóng mặt tư thế lành tính.
Một biến thể khác của chóng mặt tư thế lành tính là chóng mặt xuất hiện vài
giây khi đột ngột xoay đầu. Những cơn chóng mặt kịch phát như vật có thể đến rồi
đi xảy ra nhiều năm, nhất là ở người già mà không cần điều trị gì cả.
b) Chóng mặt không theo tư thế: do viêm tai, do u thần kinh thính giác
(neurinome).
2/ Hội chứng tiền đình trung ương
2.1. Cơn chóng mặt dữ dội cấp tính
Cơn chóng mặt kịch phát xảy ra mà không có tổn thương thính lực đi kèm,
giúp chúng ta có thể phân biệt được với hội chứng tiền đình ngoại biên.
Nguyên nhân mạch máu: nhồi máu thân não (hội chứng Wallenberg), nhồi

máu tiểu não biểu hiện bằng hội chứng tiền đình cấp tính như chóng mặt, buồn
nôn, ói mửa. Chẩn đoán dựa trên sự xuất hiện các dấu thần kinh khác (ví dụ như
trtiệu chứng tiểu não), tuy nhiên không phải lúc nào cũng có những dấu hiệu thần
kinh này.
Bệnh xơ cứng rải rác (Multiple sclerosis): cũng có thể có những cơn chóng
mặt cấp tính dữ dội. Tuy nhiên ít khi nghĩ đến chẩn đoán này khi bệnh nhân chỉ có
dơn thuần cơn chóng mặt mà không kèm những tổn thương thần kinh khác (kiểu đa
ổ) như triệu chứnt tiểu não, liệt giữa nhân, triệu chứng tháp.
2.2. Chóng mặt trung ương xuất hiện mãn tính

a

Chóng mặt tư thế có nguồn gốc trung ương: hiếm gặp hơn chóng mặt

tư thế ngoại biên. Khác với chóng mặt tư thế ngoại biên là chóng mặt ở đây xảy ra
ngay lập tức ở những tư thế khác nhau khi làm nghiệm pháp NylenBarany; không
có hiện tượng quen dần khi lập lkại nghiệm pháp này nhiều lần. Rung giật nhãn


cầu nhãn cầu đánh nhiều hướng. Thường do thiếu máu não động mạch cột sống
thân nền hoặc hiếm hơn do u hố sau.

b

Chóng mặt không theo tư thế: Ở bệnh nhân < 50 tuổi, thường có thể

do u não, hoặc hiếm hơn do bệnh xơ cứng rải rác.
VI. ĐIỀU TRỊ
Tùy vào nguyên nhân mà cách điều trị của chúng ta khác nhau.
VI.1. Điều trị nội khoa

- Antihistamine:
Meclizine (Antivert, Bonine): 25-50mg mỗi 4-6 giờ
Dimenhydrinate: 50mg uống, tiêm, bắp mỗi 4-6 giờ
-Anticholinergic:
Scopolamine: 0,6mg uống mỗi 4-6 giờ
Sympathomimetic: Amphetamine, Ephedrine.
-Manhê Sunphát
- Corticoid + acyclovir ( trong viêm dây thầnh kinh tiền đình )
VI.2. Phẫu thuật
VI.3. Luyện tập tiền đình

Tài liệu tham khảo:
1. Tai Mũi Họng ( cho BS đa khoa ) Phạm Khánh Hòa 2010
2. Bệnh Tiền đình- Chẩn đóan và điều trị - Phạm Khánh Hòa, Phạm Trần
Anh, Phạm Bích Đào – Nhà xuất bản Y Học 2009
3. Schwindel- Diagnose und Therapie Becker, Naumann Thieme 2015



×