MỞ ĐẦU
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, sự giao lưu của
trí tuệ và tư tưởng thì nhân tố tri thức đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó thúc đẩy sự
phát triển năng động và nhanh chóng của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế
giới. Đồng thời góp phần vào việc chiếm lĩnh nhiều vị trí tiên tiến nhất trong phát
triển khoa học công nghệ. Do đó chiến lược đầu tư vào phát triển giáo dục và đào tạo
rất được chú trọng , nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực, nâng cao dân trí và đào luyện
nhân tài. Chúng ta đã thấy rất rõ chiến lược phát triển giáo dục của các nước phát triển
đã đem lại những thành tựu hết sức to lớn. Chẳng hạn: Mỹ đã coi phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu. “Các trường đại học Mỹ là nơi quyết định sự thắng lợi của
công cuộc cạnh tranh kinh tế”. Nhật Bản đã coi giáo dục, khoa học và chính sách mở
cửa là 3 mũi nhọn chiến lược quyết định sự phát triển nhảy vọt của quốc gia này trong
mấy thập kỷ qua. Nam Triều Tiên, Malaisia, Thái Lan... cũng đã làm như vậy.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế phát triển còn thấp đang cần đổi mới để vươn
lên thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Đại hội lần thứ VII của Đảng CSVN đã đưa ra
những định hướng mới, quan trọng cho quá trình đổi mới đất nước. Trong đó, giáo
dục và đào tạo cũng được coi là một trong những quốc sách hàng đầu. Vì vậy, việc
nghiên cứu, học tập những kinh nghiệm của các nước trong khu vực về vấn đề này là
một nhiệm vụ bức thiết góp phần hoạch định những chính sách, những bước đi, những
cách làm giáo dục phù hợp với điều kiện, khả năng và nhu cầu phát triển đất nước,
nhằm nhanh chóng đưa nền giáo dục của ta phát triển hòa đồng với những xu thế
chung của khu vực và thế giới, phục vụ hữu hiệu nhất cho công cuộc đổi mới và phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Là người giáo viên, chúng ta cũng cần tiếp cận
những cải cách giáo dục của các nước, nắm được những đổi mới trong giáo dục phổ
thông ở Việt Nam . Trên cơ sở đó có những biện pháp đổi mới trong công tác giảng
dạy phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng, bắt kịp với xu thế phát triển của xã
hội.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Những cải cách giáo dục ở một số quốc gia
1.1. Phần Lan
1.
Vào năm 1963, chính phủ Phần Lan quyết định thực hiện kế hoạch táo bạo khi chọn
lĩnh vực cải cách giáo dục công lập trong nỗ lực phục hồi kinh tế. “Tôi gọi nó là Giấc
Mơ Lớn của giáo dục Phần Lan”, Pasi Sahlberg - một nhà sư phạm làm việc cho Bộ
Giáo dục và Văn hóa Phần Lan kể lại. “Đó đơn giản là ý tưởng rằng mọi trẻ em đều
được theo học tại một ngôi trường công chất lượng. Nếu chúng tôi muốn trở nên cạnh
tranh, chúng tôi cần phải phổ cập giáo dục cho tất cả mọi người. Điều này xuất phát từ
nhu cầu tồn tại của con người.”
Một quyết sách quan trọng được công bố vào năm 1979 khi các nhà cải cách giáo dục
yêu cầu mọi giáo viên phải có bằng thạc sĩ (chương trình đào tạo giáo viên dài 5 năm
gồm 3 năm cử nhân và 2 năm thạc sĩ) tại 1 trong số 8 trường đại học công. Toàn bộ
học phí được chi trả bằng ngân sách nhà nước. Kể từ đó, vị thế của nghề giáo ở Phần
Lan được đứng ngang bằng với hai nghề khác là bác sĩ và luật sư. Thí sinh dồn dập
đăng ký các chương trình sư phạm, không phải bởi vì lương cao mà bởi nghề giáo trở
nên hấp dẫn khi các giáo viên có quyền tự chủ và được tôn trọng. (Theo ông Sahlberg,
lương giáo viên Phần Lan chỉ tương đương mức lương trung bình của cả nước. Theo
số liệu năm 2014 của tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), giáo viên Phần
Lan kiếm được 42.810 USD mỗi năm).
Đến giữa những năm 1980, một loạt các sáng kiến giúp lớp học thoát khỏi những vết
tích cuối cùng của những quy định từ trên xuống, việc kiểm tra và quản lý các chính
sách giáo dục được bàn giao cho các chính quyền địa phương. Theo đó, chương trình
giảng dạy quốc gia được tinh giản thành những chỉ dẫn chung. Ví dụ, sách giáo khoa
môn Toán từ lớp 1 đến lớp 9 giảm xuống còn 10 trang. (Trước đó, bộ sách giáo khoa
đầu tiên của Phần Lan được đưa vào giảng dạy trong thập niên 70 của thế kỷ trước
dày tới 700 trang. Timo Heikkinen, người bắt đầu giảng dạy trong các trường công lập
ở Phần Lan từ những năm 1980 nhớ lại rằng hồi đó, đa số giáo viên ở ngôi trường
trung học nơi ông dạy chỉ ngồi bàn thuyết giảng cho học sinh chép bài răm rắp.)
Việc phân loại học sinh thành những nhóm có khả năng khác nhau được bãi bỏ. Tất cả
học sinh dù giỏi hay kém đều được theo học cùng một lớp. Các lớp học được bố trí
nhiều giáo viên đặc biệt có nhiệm vụ hỗ trợ các em và đảm bảo rằng không có học
sinh nào bị tụt lại. Kể từ đầu những năm 1990, bộ phận thanh tra giáo dục bị đóng cửa
hoàn toàn, chuyển trách nhiệm giải trình và kiểm tra cho các giáo viên và hiệu trưởng.
Hiện nay, ở bậc giáo dục cơ bản, Phần Lan không có bất kỳ một kỳ thi chuẩn hóa bắt
buộc nào, trừ một kỳ thi cuối năm lớp 9. Không hề có xếp hạng, so sánh hoặc cạnh
tranh giữa các học sinh, trường học hay khu vực. Các trường học tại Phần Lan được
tài trợ bởi chính phủ và được vận hành bởi các quan chức trong chính quyền, từ quan
chức cấp nhà nước đến viên chức địa phương, chứ không phải các doanh nhân, tướng
lĩnh quân đội hay chính trị gia. Mọi trường học đều có các mục tiêu quốc gia như
nhau và các mục tiêu này đều được xây dựng từ các chuyên gia giáo dục có chứng chỉ
ở các trường đại học.
Kết quả là, một học sinh Phần Lan dù đến từ thành thị hay nông thôn đều được hưởng
nền giáo dục như nhau. Khoảng cách giữa các học sinh giỏi nhất và yếu nhất ở nước
này là nhỏ nhất thế giới, theo một kết quả cuộc thăm dò của tổ chức OECD. “Bình
đẳng là từ quan trọng nhất trong nền giáo dục Phần Lan”, Chủ tịch Hiệp hội Giáo viên
Phần Lan Olli Luukkainen cho biết.
Ở Phần Lan, chính phủ cho phép các bà mẹ được nghỉ phép 3 năm sau khi sinh và trợ
cấp dịch vụ trông trẻ ban ngày cho các bậc cha mẹ. Khi những đứa trẻ lên 5 tuổi, các
em sẽ được đến trường mẫu giáo mà không phải đóng góp bất kỳ khoản tiền nào, ở
đây, trẻ em được tập trung vào việc vui chơi và tương tác xã hội. Các trường học cung
cấp đồ ăn, chăm sóc sức khỏe, tư vấn và dịch vụ taxi nếu học sinh cần. Chương trình
chăm sóc sức khỏe cũng được miễn phí với toàn bộ học sinh. Đối với các bậc phụ
huynh, trong một tháng họ sẽ nhận được khoảng 150 euro từ nguồn ngân sách nhà
nước để chăm sóc và nuôi nấng mỗi một người con cho đến khi chúng bước sang tuổi
17. Sau gần 40 năm kể từ khi chính phủ Phần Lan quyết định thực hiện kế hoạch táo
bạo khi chọn lĩnh vực cải cách giáo dục công lập để phục hồi kinh tế, vào năm 2000,
cộng đồng giáo dục quốc tế mới bất ngờ với những thành quả của giáo dục Phần Lan
khi biết kết quả xếp hạng PISA của học sinh Phần Lan.
Đối với Phần Lan, điểm số của học sinh nước này trong các bài đánh giá quốc tế
như PISA chỉ là kết quả phụ của hệ thống giáo dục chứ không phải mục tiêu chính.
“Chúng tôi chuẩn bị cho trẻ em học cách học như thế nào, chứ không phải cách để
thi”, nhà sư phạm Pasi Sahlberg lý giải.
1.2. Nhật Bản
Trong hai cuộc cải cách giáo dục lớn ở Nhật Bản có vai trò của các chuyên gia giáo
dục nước ngoài đã có một vai trò không thể phủ nhận.
Cải cách giáo dục thời Minh Trị
Sau khi chính quyền Minh Trị được thiết lập năm 1868, trong vòng 10 năm đầu, quá
trình cận đại hóa theo hướng “khai hóa văn minh” được xúc tiến mạnh mẽ. Cải cách
giáo dục đã đi từ các thay đổi lẻ tẻ ở địa phương trở thành chính sách quốc gia.
Phương châm của chính phủ Minh Trị lúc đó là đẩy mạnh cải cách giáo dục để cận đại
hóa đất nước, du nhập nhanh và rộng các giá trị văn minh phương Tây. Để “nhập
khẩu” văn minh, chính phủ Minh Trị đã cử học sinh ra nước ngoài du học và tích cực
sử dụng người phương Tây trong vai trò là các chuyên gia, cố vấn. Chi phí dùng để trả
lương cho các chuyên gia nước ngoài khi đó cực lớn nhưng chính quyền Minh Trị
không do dự cho dù đang ở trong tình thế tài chính khó khăn. Theo ước tính của tiến
sĩ Ozaki Mugen, vào thời đó ngân sách dành trả lương cho người lao động nước ngoài
chiếm đến 4-5% ngân sách các tỉnh, bộ. Cá biệt như Bộ Công nghiệp, cơ quan đảm
nhận nhiệm vụ hiện đại hóa đất nước, ngân sách trả lương cho người nước ngoài lên
đến 50% ngân sách của Bộ.
Để thiết lập nền giáo dục cận đại, chính phủ Minh Trị coi trọng các trường sư phạm.
Chính phủ đã bỏ một khoản tiền lớn thuê chuyên gia người Mỹ tên là M.Scott đến dạy
ở trường sư phạm trung ương. Scott cũng là người tham gia chỉ đạo việc vận dụng
khóa trình giáo dục mới trên toàn quốc từ tháng 8 năm 1872. Chính phủ cũng tuyển
dụng nhiều người nước ngoài làm giáo viên, giảng viên tại các trường trung học và
đại học từ rất sớm. Các chuyên gia người Mỹ, Anh, Pháp và Đức này đã có đóng góp
quan trọng trong việc du nhập các lý luận giáo dục mới. Những chuyên gia người
nước ngoài này về sau dần được thay thế bằng các du học sinh Nhật Bản trở về từ Mỹ
và châu Âu.
Cải cách giáo dục thời hậu chiến (1945-1950)
Sau khi Thiên hoàng tuyên bố đầu hàng (15/8/1945), Nhật Bản bị quân Đồng minh
chiếm đóng. Dưới sự giám sát và tư vấn của Bộ tư lệnh tối cao quân đồng minh, Nhật
Bản đã tiến hành cải cách chính trị-xã hội-giáo dục toàn diện nhằm dân chủ hóa đất
nước.
Công cuộc cải cách giáo dục thời hậu chiến ở Nhật Bản có sự đóng góp to lớn của Sứ
đoàn giáo dục Mỹ đến Nhật vào tháng 3 năm 1946 (Sứ đoàn lần 1) và tháng 8 năm
1950 (Sứ đoàn lần 2).Trong đó Sứ đoàn giáo dục lần 1 do J.D.Stoddard làm trưởng
đoàn có vai trò lớn hơn cả. Bản báo cáo do Sứ đoàn giáo dục này đề ra đã có ảnh
hưởng lớn tới phương châm, đường lối cũng như cách thức thực hiện cải cách giáo
dục của Nhật Bản, góp phần tạo nên nước Nhật “hòa bình, dân chủ và tôn trọng con
người”. Trong bối cảnh phức tạp đương thời, sứ đoàn giáo dục đã tuyên bố rộng rãi sứ
mệnh của mình không phải là tiến hành cải cách ở Nhật Bản với tư cách là đại biểu
của nước chiến thắng mà chỉ đưa ra sự tư vấn cần thiết về cải cách giáo dục trong tư
cách là các nhà chuyên môn. Bản báo cáo được trình lên tướng Douglas MacArthur và
công bố ngày 30 tháng 3 năm 1946 gồm hai nội dung chủ yếu:
Nội dung thứ nhất là chỉ ra và phân tích những điểm yếu của nền giáo dục Nhật Bản
trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nội dung thứ hai là vạch ra triết lý,
phương châm của nền giáo dục mới. Về nền giáo dục hiện hành, bản báo cáo chỉ rõ 5
hạn chế lớn: hệ thống giáo dục bị trung ương tập quyền hóa một cách cao độ, hệ thống
trường học phức tạp, giáo dục nhồi nhét một chiều, hành chính quan liêu độc tài, quốc
ngữ-quốc tự không hiệu quả. Trên cơ sở chỉ ra và phân tích những điểm yếu nói trên,
bản báo cáo nêu ra các nguyên tắc giáo dục phù hợp với xã hội dân chủ. Ở đó, “Tôn
trọng giá trị cá nhân” và giáo dục người công dân dân chủ trở thành nền tảng triết lý
cơ bản.
Về hành chính giáo dục, bản báo cáo đề xướng chế độ trường học 6-3-3 (6 năm tiểu
học, 3 năm trung học cơ sở và 3 năm trung học phổ thông), trong đó giáo dục nghĩa
vụ kéo dài 9 năm.
Chủ trương hạn chế quyền lực của bộ giáo dục, giới hạn nó trong vai trò là cơ quan
chỉ đạo, tư vấn chuyên môn; phân quyền hành chính giáo dục cho các địa phương
thông qua thành lập các Ủy ban giáo dục.
Đối với giáo dục bậc cao bản báo cáo gợi ý thực hiện mở rộng cánh cửa đại học và
thực thi nam nữ bình đẳng.
Về khóa trình giáo dục, bản báo cáo phủ định môn Tu thân, môn học được coi là trụ
đỡ của chủ nghĩa quân phiệt trước đó và chủ trương lấy cá nhân làm xuất phát điểm để
biên soạn nội dung giáo dục nhằm phát triển những năng lực tiềm tàng sẵn có trong
từng cá nhân.
Bản báo cáo cũng nhấn mạnh cần dục đạo đức thông qua toàn thể khóa trình giáo dục
thay vì một môn giáo khoa cụ thể. Bản báo cáo cũng đưa ra gợi ý về đào tạo giáo
viên. Theo đó việc đào tạo giáo viên nên tiến hành theo hướng rộng mở. Đào tạo giáo
viên phải hướng tới giáo dục con người thay vì chỉ đào tạo nên những giáo viên thiên
về tri thức, kĩ thuật, chuyên môn hạn hẹp. Công việc đào tạo này không chỉ giới hạn
trong các trường sư phạm mà còn cần phải mở rộng ra tất cả các trường đại học nói
chung. Ngoài ra bản báo cáo cũng đưa ra những khuyến cáo về đơn giản hóa chữ viết
và các biện pháp chấn hưng, thúc đẩy giáo dục xã hội thông qua truyền thông, bảo
tàng, thư viện... để tái khai sáng quốc dân. Tư tưởng, phương châm cơ bản cùng
những gợi ý của Sứ đoàn giáo dục Mĩ trình bày trong bản báo cáo nói trên về sau đã
được cụ thể hóa bằng các bộ luật và chính sách khi thực thi trong thực tiễn. Vì vậy
cũng có thể nói rằng tinh thần của bản báo cáo đã trở thành triết lý chỉ đạo cho cuộc
cải cách giáo dục Nhật Bản thời hậu chiến sau 1945.
Trong hai cuộc cải cách giáo dục lớn ở Nhật Bản có vai trò như là hai cuộc cách mạng
xã hội trong hòa bình nói trên, các chuyên gia giáo dục nước ngoài đã có một vai trò
không thể phủ nhận. Thực tế lịch sử đó là rất có thể sẽ là gợi ý hữu ích cho các nước
đang phát triển muốn tiến hành cải cách giáo dục trong thời đại toàn cầu hóa.
1.3. Singapore
Giáo dục Singapore đi từ thấp lên cao theo 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn có một nhiệm
vụ cụ thể. Trong giai đoạn đầu (1959-1978), mục tiêu của ngành giáo dục là đào tạo
“công dân hữu ích, người tốt”. Trong giai đoạn 2 (1979-1996),Singapore tiến hành cải
cách giáo dục, dùng sách giáo khoa chất lượng cao, đa dạng hóa bậc phổ thông trung
học hướng tới đào tạo lực lượng lao động có tay nghề, sinh viên kỹ thuật và khoa học.
Giai đoạn này đã mang lại nhiều kết quả khả quan: học sinh bỏ lớp giảm còn 6%, số
học sinh thi đậu chứng chỉ “O Level” tiếng Anh (điều kiện để đăng ký vào các trường
bách khoa học lấy bằng chuyên ngành điện, điện tử, xây dựng, cơ khí, quản trị kinh
doanh…) đạt 90% năm 1984 và năm 1995, sinh viên Singapore luôn ở tốp đầu các kỳ
thi toán và khoa học thế giới.
Từ năm 1997 đến nay, giáo dục Singapore chuyển hướng mạnh, nhắm tới sáng tạo,
đổi mới và nghiên cứu. Hơn 1 triệu nhà khoa học, kỹ thuật và quản lý cao cấp người
nước ngoài được mời đến giảng dạy và nghiên cứu ở các trường đại học và viện
nghiên cứu Singapore.
Cũng trong giai đoạn này, Singapore thực thi tầm nhìn chiến lược “Thinking School,
Learning Nation” (Nhà trường tư duy, Quốc gia học tập) như một định hướng đổi mới
giáo dục. Vế đầu có nghĩa là nhà trường trở thành nơi phát huy tư duy sáng tạo, say
mê học tập cả đời và hun đúc tinh thần phục vụ đất nước. Trong vế thứ hai, học tập trở
thành văn hóa quốc gia, óc sáng tạo và đổi mới ăn sâu vào mọi tầng lớp xã hội. Khi
triển khai tầm nhìn mới này đầu năm 1997, Thủ tướng Goh Chok Tong tin rằng “sư
thịnh vượng của Singapore trong thế kỷ XXI tùy thuộc vào khả năng học tập của toàn
dân”.
Năm 2004, trong bài diễn văn chào mừng Quốc khánh Singapore, thủ tướng Lý Hiển
Long còn đưa ra thêm một định hướng mới cho nền giáo dục Singapore: “Phải dạy ít
hơn để học sinh học được nhiều hơn”. Để đạt hiệu quả cao, Singapore dành 1/5 GDP
đầu tư vào giáo dục. Con số này hiện nay vẫn được duy trì.
1.4. Đức
Thay đổi cấu trúc chương trình
Bà Miyako Ikeda, nhà phân tích cao cấp PISA của OECD, cho biết thay đổi quan
trọng nhất có thể đến từ cải cách cơ cấu các trường trung học.
Trong hệ thống cũ, học sinh trung học Đức buộc lựa chọn tham gia Hauptschule
(trường cơ bản: là loại trường trung học cơ sở ít hàn lâm nhất và thiên về chuẩn bị cho
dạy nghề) hoặc Realschule (trường thực hành: có phạm vi học thuật rộng hơn và bắt
đầu từ lớp 5 hoặc lớp 6 tùy từng bang đến hết lớp 10 hay lớp 11) hay Gynasium
(trường khoa học: dành cho học sinh chuẩn bị tham gia giáo dục đại học. Nếu được
tuyển, học sinh được học liền một mạch từ lớp 5 hoặc lớp 6 đến lớp 12, thậm chí có cả
lớp 13 tùy chính sách từng bang).
Cuối bậc tiểu học, giáo viên thường tổ chức các khóa định hướng cho học sinh của
mình tùy theo năng lực học tập của các em. Mục đích là để học sinh tiểu học có sự lựa
chọn trường trung học thích hợp cho mình.
Chính hệ thống các trường trung học định hướng này tạo sự phân tầng trong hệ thống
giáo dục của Đức. Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Giáo dục quyết định cần giãn độ
tuổi phân loại vào các trường trung học, kết hợp cả Realschule và Hauptschule hoặc
các trường kết hợp toàn diện hơn. Một số bang đóng cửa các trường trung học
Hauptschule, từng bị cho là nơi dành cho học sinh yếu kém để tạo môi trường học tập
công bằng và tích cực hơn.
Quan tâm đến học sinh di cư.
Kết quả thấp qua kiểm tra PISA của Đức một phần xuất phát từ học sinh trong các gia
đình dân di cư. Họ thường có thu nhập thấp, trẻ em có vốn ngôn ngữ hạn chế, học lực
toán và khoa học cũng bị đánh giá thấp. Do vậy Đức tiến hành tập trung các biện pháp
nhằm nâng cao năng lực cho bộ phận học sinh thuộc nhóm này. Nhiều biện pháp được
áp dụng, trong đó bao gồm khuyến khích gia đình di cư gửi con vào các nhà trẻ sớm
để tăng cường khả năng hòa nhập ngôn ngữ, từ đó nâng cao thành tích các môn học
tập khác.
Thống nhất hệ thống giáo dục không đồng bộ
Chính sách giáo dục của Đức không đồng bộ giữa các bang với nhau, mỗi bang có
quan điểm riêng của mình. Vấn đề bức thiết là lập ra một quy chuẩn chung thống nhất
cho toàn bộ hệ thống. Từ sau kết quả PISA năm 2000, Đức quyết định thay đổi toàn
bộ sách và chương trình giảng dạy.
Phương pháp giảng dạy chú trọng tính tương tác cũng được áp dụng thay cho cách
học truyền thống trước đây. Việc nâng cao chất lượng giảng dạy cũng là một chìa
khóa thành công của cải cách giáo dục Đức.
Nhìn chung, quá trình để hoàn thiện hệ thống giáo dục vẫn còn ở phía trước nhưng
những thay đổi tích cực hiện tại của giáo dục Đức rất đáng ghi nhận và học tập. Đây
có thể coi là một ví dụ cải cách điển hình mang lại hiệu quả để các quốc gia khác có
thể tham khảo, học hỏi và áp dụng.
Thay đổi quan điểm giáo dục: không mang nặng thành tích
Sự thay đổi mạnh mẽ từ cải cách giáo dục Đức còn xuất phát từ cam kết miễn phí và
đảm bảo chất lượng giáo dục. So với các nước có học phí khá cao như Anh, học sinh
Đức hoàn toàn an tâm học tập mà không lo ngại các vấn đề khác. Ngoài ra, quan điểm
giáo dục không mang nặng thành tích, không gây áp lực cho giáo viên và học sinh,
theo đó giáo viên có thể phát huy khả năng sáng tạo của mình trong từng bài giảng mà
không bị bó buộc bởi thành tích.
Một điểm sáng của giáo dục Đức nữa là để trẻ phát triển tự nhiên, không thúc ép và
bên cạnh dạy kiến thức mà những gì họ đang thực hiện là đào tạo nên một con người
toàn diện.
1.5. Thuỵ Điển
Từ năm 1990 trở về trước, nền Giáo dục của Thụy Điển có tính chất tập trung nhất ở
Phương Tây. Bắt đầu từ năm 1991 Bộ Giáo dục Thụy Điển đã thực hiện cuộc cải cách
giáo dục từ mẫu giáo đến hết Trung học phổ thông theo chủ thuyết chỉ đạo: “Xây
dựng hệ thống kiến thức kết hợp với chuẩn bị lực lượng lao động trong nền kinh tế
toàn cầu”.
Nội dung quan trọng nhất của cải cách hệ thống giáo dục là ban hành chính sách giáo
dục “Phi tập trung và phân cấp”, còn gọi là “cách mạng về sự lựa chọn”. Cụ thể là:
- Phụ huynh và học sinh được quyền lựa chọn trường học theo nguyện vọng, đáp ứng
được yêu cầu học tập và phát triển tốt nhất, với chi phí do Nhà nước đảm bảo ở mức
trung bình của trường công.
- Khuyến khích thành lập các “trường độc lập”. Mỗi cá nhân đều có quyền thành lập
và điều hành một trường học và được thành phố (hoặc địa phương) cấp kinh phí theo
mức giá trung bình ở trường công cho mỗi học sinh theo học. Các trường độc lập phải
thực hiện chương trình quốc gia và không được phép đưa ra tiêu chí tuyển sinh theo
kiểu “chọn táo chín”mà phải tuyển theo theo nguyện vọng của học sinh và không
được phép thu thêm bất kỳ khoản tiền nào khác.
- Xây dựng một nền giáo dục phát triển toàn diện với nội dung chương trình kiến
thức phổ thông và phổ cập, coi trọng giáo dục nhân cách và khả năng tiếp cận tri thức,
tự học và sáng tạo.
- Các bậc cha mẹ có thể lựa chọn và đề nghị chương trình học ưa thích cho con cái
mình. Các nhà trường và giáo viên có trách nhiệm hướng dẫn học sinh tự học, tự đánh
giá, nâng cao tinh thần tự chủ trong việc học và hầu hết các hoạt động giáo
dục. Chương trình Quốc gia và tiêu chuẩn đánh giá học sinh có tính chất hướng dẫn
nhiều hơn là áp đặt, có thể linh hoạt vận dụng.
Tóm lại, cải cách giáo dục đều phải đáp ứng với sự phát triển xu thế toàn cầu hóa
song cũng phải phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước. Nền giáo dục của
các nước chúng tôi đã nêu trên đây đã có những bước phát triển vượt trội sau khi tiến
hành cải cách phù hợp. Nếu mang ra so sánh thì chúng tôi đều thấy rằng nền giáo dục
của mỗi nước đều có những đặc điểm nổi bật và có những tính ưu việt riêng, tạo nên
nét riêng cho nền giáo dục của mỗi nước. Sau đây là điểm nổi bật của các nước sau
khi tiến hành cải cách giáo dục:
2 . Những đặc điểm nổi bật của các nền giáo dục
2.1. Giáo dục ở Phần Lan
- Công bằng và miễn phí
Giáo dục Phần Lan xem công bằng là một trong những điều quan trọng nhất. Ông Olli
Luukkainen, chủ tịch hội đồng giáo viên Phần Lan chia sẻ “Tất cả trẻ em ở Phần Lan
dù thành thị hay nông thôn đều được hưởng một nền giáo dục như nhau.”
Thực hiện tiêu chí công bằng này, giáo dục Phần Lan không phân biệt giàu hay nghèo,
thành thị hay nông thôn, tất cả đều được hưởng một nền giáo dục như nhau.
-Không
áp lực thi cử
Giáo dục ở Phần Lan cũng không có các cuộc thi sát hạch nhằm phân loại học sinh,
giáo dục hướng đến các học sinh yếu kém, giúp nhà trường trở thành môi trường thân
thiện.
GS Pasi Sahlberg, công tác tại bộ giáo dục và văn hóa Phần Lan phát biểu: “Chúng
tôi dạy trẻ học cách HỌC, chứ KHÔNG dạy trẻ học cách để thi”
2.2. Giáo dục ở Nhật Bản
- Đạo đức là cốt lõi
Nhật Bản trở thành một nước có nền giáo dục tiên tiến là nhờ thực hiện tiêu chí “con
người = đạo đức”, đề cao tính tự lập và tinh thần kỷ luật.
Tư tưởng của người Nhật vẫn còn mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống của dân tộc
mình, đạo đức là cốt lõi là điều mà một học sinh phải biết đến đầu tiên.
Giáo dục Nhật Bản vận hành theo nguyên lý “mỗi người học sẽ trở thành một cá
nhân hoàn thiện đạo đức”.
Phương châm của người Nhật là “Cần phải nhắm tới thực hiện xã hội ở đó từng công
dân có thể mài giũa nhân cách bản thân…”.
-Tư
duy ‘tự lập’
Giáo dục Nhật Bạn cũng hướng đến tính tự lập cho học sinh, mỗi học sinh có thể tự
chủ trong học tập, không ỷ lại để có thể hòa nhập môi trường hội nhập đầy biến động
các giá trị văn hóa và tri thức
Để trang bị tính tự lập cho học sinh, giáo dục Nhật Bản nhấn mạnh ‘học sinh là trung
tâm’, giúp học sinh trải nghiệm kiến thức từ thực tế chứ không phải là nhồi nhét kiến
thức. Có nhiều loại sách với các chuẩn đầu ra khác nhau để tăng cường khả năng phản
biện cho học sinh, kích thích việc tìm tòi, phát huy sức sáng tạo.
Các bài học ở Nhật Bản được các giáo viên ghi trích nguồn ở đâu, rồi khuyến khích
học sinh tìm thêm nguồn thông tin mới, cổ vũ học sinh đứng từ các góc độ cách nhìn
khác nhau để đánh giá nhận xét vấn đề. Đó là một trong những lý do cốt yếu giúp
người Nhật nằm trong tốp đầu các quốc gia có lượng bằng sáng chế cao nhất thế giới
với vô số thương hiệu tồn tại xuyên thế kỷ.
-Không
áp lực thi cử
Giống như Phần Lan, giáo dục ở Nhật Bản không gây áp lực thi cử cho học sinh
Giáo dục Nhật Bản cũng không tổ chức theo kiểu “gom học sinh có điểm số cao lại
với nhau”. Nhà trường cũng không chủ trương “khoe” kết quả học tập của các em đến
mọi người, vì cho rằng điểm số không phản ánh được khả năng thực sự của trẻ, mọi
học sinh đều có cơ hội học tập trong môi trường bình đẳng.
Nhật Bản không có đặt nặng thi cử, kỳ thi chính thức chỉ có thi vào trung học và đại
học. Ngoài ra còn có đợt thi lớp 6 và lớp 9 nhưng là để giám sát hiệu quả hệ thống
giáo dục, chứ không phải để đánh giá năng lực học sinh.
2.3. Giáo dục ở Singapore
- Ngành học đa đạng
Các trường cao đẳng, đại học tại Singapore giảng dạy tất cả ngành học từ kinh doanh tài chính, du lịch khách sạn, thiết kế, truyền thông, công nghệ thông tin, y dược… đến
những ngành ít phổ biến như: tâm lý học, logistics, quản lý… Mỗi trường đều có một
- Phương pháp giáo dục độc đáo
Dù du học Singapore ở bậc học nào, học sinh sinh viên cũng đều được giảng dạy theo
phương pháp khác biệt, chú trọng vào việc rèn luyện nhân cách, tư duy hơn là ép buộc
học viên theo một khuôn mẫu nhất định.
2.4. Giáo dục ở Đức
- Bình đẳng
Một trong những đặc tính của giáo dục Đức đó là tính bình đẳng giữa các học sinh,
trong lớp học không có lớp trưởng, lớp phó hay tổ trưởng, tổ phó, mà chỉ có “phát
ngôn viên” để chuyển thông điệp của thầy cô đến học sinh và ngược lại.
“Phát ngôn viên” còn đưa ra các giải pháp, phong trào nhằm cải thiện tình hình học
tập, giúp các bạn học lực yếu, phát huy các tài năng văn nghệ, thể thao trong lớp…
-
Chú trọng trải nghiệm thực tế
Người Đức cho rằng trói buộc những đứa trẻ trong lớp học mà thiếu tính trải nghiệm
thực tế sẽ dẫn đến những sản phẩm bị lỗi thời về mặt nội dung. Thầy cô đứng lớp còn
quan niệm phải mất cả năm trời, thậm chí là vài năm người ta mới có thể xuất bản một
quyển sách hạn hữu trong khi thế giới to lớn, vĩ đại đang vận động hàng giây. Thế nên
kiến thức sách vở, phần lớn đã lỗi thời trước khi được trưng bày trên kệ sách.
Hơn một nửa số học sinh ở Đức chọn con đường học nghề thay vì dấn thân vào con
đường đại học.
Người Đức quan niệm học tập để có một công việc phù hợp, thế nên trong khi một số
nước như Việt Nam xem những học sinh không vào được đại học sẽ không có cơ hội
phát triển, thì ở Đức người ta lại kỳ vọng rằng bộ phận học sinh này sẽ tỏa sáng khi
được ghép với một công việc phù hợp.
Đức đã xây dựng một chương trình giáo dục và đào tạo nghề nghiệp toàn quốc, được
quản lý bởi Viện Giáo dục và Đào tạo nghề nghiệp liên bang. Đây là một chương trình
phối hợp giữa chính phủ và giới doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề để đào tạo nguồn
lực cần thiết cho xã hội.
Chương trình giáo dục kép này truyền đạt kiến thức cả trên lớp học lẫn thông qua thực
hành. Một cách cụ thể, người học sẽ đến các trường dạy nghề từ hai đến ba ngày một
tuần. Ở đó, các lý thuyết và thực tiễn về ngành nghề sẽ được truyền dạy. Ngoài ra, các
trường cũng buộc phải dạy các môn về kinh tế và xã hội, đào tạo ngoại ngữ và các
kiến thức cơ bản khác.
2.5. Giáo dục ở Thuỵ Điển
- Suy nghĩ sáng tạo hơn
- Được thử thách có mục đích
- Bạn không chỉ ngồi nghe giảng một cách thụ động
- Tập trung vào môi trường bền vững
- Trải nghiệm sự đa dạng
3. Bài học rút ra cho giáo dục phổ thông ở Việt Nam
Từ việc tiến hành cải cách và phát triển của một số nước trên, chúng ta có thể rút ra
một số kết luận - khái quát bổ sung để tham khảo khi phát triển và xây dựng nền giáo
dục có định hướng xã hội chủ nghĩa, song có thể hoà nhập vào giáo dục thế giới và
khu vực.
- Cải cách và phát triển giáo dục là yêu cầu tất yếu, khách quan của việc xây dựng đất
nước trên mọi lĩnh vực, trước hết phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển kinh tế - xã
hội đòi hỏi phải có những con người có trình độ văn hoá, mặt khác lại tạo điều kiện và
sự hấp dẫn cho “ai cũng được học tập” và “có thể học tốt, học giỏi”. Do đó, chúng ta
nhận thấy rằng, cải cách giáo dục có quan hệ chặt chẽ với các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hoá của đất nước, có sự tương ứng tác động lẫn nhau.
- Cải cách và phát triển giáo dục là một quá trình khó khăn, phức tạp, gian khổ, luôn
luôn tiềm ẩn những sai lầm thất bại, nếu không nắm vững quan điểm, đường lối chính
trị, mục tiêu giáo dục đã được xác định, hoặc vận dụng một cách giáo điều, thiếu sáng
tạo.
- Cải cách giáo dục ở bất cứ nước nào đều phải có định hướng chính, kinh phí, điều
kiện, phương tiện vật chất về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có chất lượng giáo dục
cao.
- Việc cải cách và phát triển giáo dục đòi hỏi có tư duy sáng tạo; bởi vì bản thân giáo
dục đã mang tính chất sáng tạo, đổi mới, để đào tạo những con người thông minh sáng
tạo.
- Việc xây dựng giáo dục phải gắn liền với phát triển khoa học - công nghệ. Về vấn đề
này Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X (2006) đã khẳng định phải coi trọng
cả giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ. Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực phát triển công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Cần phải đầu tư đúng mức các nguồn lực, đặc biệt chú trọng đến các trường sư
phạm, công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
- Tiến hành có hiệu quả xã hội hoá giáo dục một cách có hiệu quả và toàn diện.
- Coi trọng kinh nghiệm và xu thế quốc tế trong hội nhập thế giới về giáo dục song
phải giữ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực triển, được lựa chọn
những gì phù hợp nhất.
Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đang, chúng ta xác định nguyên tắc tiếp nhận
các bài học, kinh nghiệm của nước ngoài để xây dựng và phát triển giáo dục nước ta:
- Giữ vững mục tiêu giáo dục của nước ta, thực hiện có hiệu quả tốt nhất.
- Đảm bảo độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trên mọi lĩnh vực giáo dục.
- Trong xu thế toàn cầu hoá, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt hạn chế, nên cũng như
trong mọi lĩnh vực khác của hội nhập quốc tế, trên lĩnh vực giáo dục có mặt hợp tác
và đấu tranh.
- Vận dụng một cách linh hoạt, cụ thể vào điều kiện, yêu cầu của đất nước trên con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không rập khuôn, công thức, hời hợt. (2) Đảng
cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thưứX, NXB CTQG, Hà
Nội, 2006, tr.98. 3
- Phân tích kỹ những bài học kinh nghiệm của nước ngoài, trên cơ sở nắm vững tình
hình, thực trạng của từng loại nước - phát triển, đang phát triển, chậm phát.
4. Một số định hướng đổi mới giáo dục Tiểu học
4.1. Giải pháp thứ nhất: Xây dựng, phát triển chất lượng đội ngũ giáo viên: phát huy
tinh thần tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, chắc tay nghề, để
khẳng định mình trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh lớp mình phụ
trách. Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ , năng lực chuyên môn, đặc điểm tâm
lý, hoàn cảnh gia đình, bảo đảm tính kế thừa của từng giáo viên. Tổ chức cho giáo
viên thường xuyên đọc tài liệu tham khảo, sách báo, tạp chí có liên quan đến công tác
giáo dục tại thư viên để giáo viên tự trau dồi thêm về kiến thức, kỹ năng sư phạm cho
bản thân.
4.2. Giải pháp thứ hai: Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo
Nhằm để từng bước nâng cao chất lượng học tập của học sinh, người cán bộ quản lý
cần thực hiện:
- Nắm vững các văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể hóa vào công việc cụ thể để có
hướng quản lý, chỉ đạo cụ thể, sát với thực tế trong việc nâng cao chất lượng dạy học.
- Thường xuyên quan tâm đến những khó khăn của giáo viên và học sinh để tìm cách
khắc phục.
- Giao cho giáo viên tự soạn phân phối chương trình để có những điều chỉnh phù hợp
với lớp của mình.
4.3. Giải pháp thứ ba: Giao khoán chỉ tiêu chất lượng.
- Đầu năm học, cán bộ quản lý lập kế hoạch chỉ đạo các tổ khối tổ chức sinh hoạt xây
dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học trong việc nâng cao chất lượng học tập
của học sinh lớp mình phụ trách theo chỉ tiêu định hướng chung của nhà trường để
giáo viên trong khối bàn bạc, thảo luận, phân chia chất lượng đối với từng lớp, đồng
thời thống nhất giải pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh, năm học sau cao
hơn năm học trước. Tổ chuyên môn lập kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
đối với giáo viên như thao giảng, dự giờ, triển khai chuyên đề và tham gia các hội thi
do trường tổ chức.
- Thường xuyên động viên, khuyến khích về tinh thần để giáo viên yên tâm công tác
và có hứng thú trong việc sáng tạo các hoạt động dạy học, khơi dậy, huy động mọi
tiềm năng của giáo viên để động viên, khuyến khích vươn lên.
4.4. Giải pháp thứ tư: Chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện phương pháp dạy học.
- Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học: Đây là một quá trình khó khăn, có nhiều
nhiều lợi nhưng cũng có nhiều thách thức cần phải vượt qua. Do đó, phải tiến hành
theo một quy mô khoa học, từng bước đi cụ thể, chắc chắn mới thay đổi được và đem
lại hiệu quả cao về chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học cần phải đổi
mới quan niệm về dạy học của người dạy và người học trong việc thực hiện nội dung
chương trình sách giáo khoa mới. Muốn vậy, trước hết là đổi mới nhận thức của cán
bộ quản lý, kế cả tổ trưởng, lẫn giáo viên phải xác định đổi mới căn bản, toàn diện
phương pháp dạy học là một quá trình lâu dài, cần phải ủng hộ, khuyến khích sự chủ
động, năng động, sáng tạo của từng giáo viên và học sinh.
- Đổi mới hình thức tổ chức dạy học là phối hợp hợp lý dạy học cá nhân hoặc dạy học
theo từng nhóm nhỏ, dạy học cả lớp hay dạy học ngoài trường, dạy học có sử dụng trò
chơi học tập phù hợp với đặc điểm tình hình lớp học.
4.5. Giải pháp năm: Xây dựng môi trường học thân thiện, phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm
-HS cần được khuyến khích tự tạo ra môi trường học tập trong lớp theo sở thích của
các em. Hãy để các em tự trang trí lớp học bằng các tranh ảnh , vật thật hoặc tranh vẽ
gần gũi với các em tạo hứng thú học tập cho các em. HS tự làm cho lớp học sạch , đẹp
thì mới hình thành các em khái niệm lớp mình và có ý thức giữ gìn lớp học ( Bàn ghế
thẳng hàng, không vẽ viết bậy, lớp học không rác…)thì mới nâng lên ý thức xây dựng
góp phần giữ gìn trường lớp xanh, sạch đẹp.
- Trong những giờ sinh hoạt cần mạnh dạn , tự tin trình bày ý kiến nguyện vọng của
bản thân để các bạn và cô có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng của mình. Tham gia
tích cực các hoạt động , đặc biệt là các hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt sao nhi
đồng, chăm sóc cây…
- Thân thiện, gần gũi chia sẻ, giúp đỡ bạn bè những lúc khó khăn. Không làm cho các
bạn mặc cảm, tự ti về hoàn cảnh gia đình cũng như khiếm khuyết của bản thân. Không
đem những sai phạm cũng như lỗi lầm của bạn để ra trách móc chê cười.
- Giúp đỡ bạn không vì trách nhiệm do thầy cô giao mà giúp đỡ bạn vì sự đồng cảm
và xem như đó là niềm vui, là mong muốn. Tạo sự đồng cảm để bạn mình có thể lộ
những điều khó nói trước nhiều người và trước thầy cô giáo.
- Tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua việc lồng ghép vào các nội
dung dạy học, hoạt động ngoại khóa…
- Cần tạo tâm lí thoải mái cho học sinh, không đặt nặng vấn đề điểm số, thi cử, chủ
yếu là tạo một môi trường học tập thân thiện giúp học sinh hứng thú, tự giác học tập,
ham muốn khám phá tri thức. “ Học vì yêu thích chứ không phải vì sợ mà phải học”
- Tạo một mối quan hệ bình đẳng giữa thầy và trò trên cơ sở tôn trọng nhau. Học sinh
cũng có quyền được có ý kiến riêng của mình.
- Cho học sinh tham gia nhiều hoạt động trải nghiệm nhiều hơn để các em có các kĩ
năng sống tốt hơn
- Định hướng nghề nghiệp ngay từ bậc học tiểu học
4.6. Giải pháp sáu: Chú trọng dạy tiếng Anh cho học sinh tiểu học theo hướng đổi
mới, chú trọng thực hành
Nhà trường nên tận dụng những thứ sẵn có để xây dựng nên một môi trường học,
thực hành tiếng Anh. Không gian lớp học, thư viện xanh, biển hàng cây biết nói, sân
chơi, tường bao được nhà trường sử dụng tiếng Anh hoặc song ngữ kèm hình ảnh sinh
động minh họa. Sách báo, tạp chí, truyện thiếu nhi bằng tiếng Anh được trang bị tới
từng lớp học.
KẾT LUẬN
Ngày nay, đất nước ta đã hòa bình hơn một phần ba thế kỷ, nền giáo dục đã
được cải cách nhiều lần, Nhìn lại đoạn đường phát triển của giáo dục nước
nhà, trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát
triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước.
Qua đề tài này mong muốn rằng mọi người sẽ có cái nhìn rõ hơn về nền giáo
dục của các nước trên thế giới cũng như có cái nhìn khách quan hơn về nền
giáo dục nước nhà, từ đó đưa ra những giải pháp, rút ra bài học kinh nghiệm
nhằm ra những con đường riêng, hướng đi riêng phù hợp với vai trò của mình.
Là những giáo viên Tiểu học, bản thân chúng tôi nhận thấy rằng : chương trình
giáo dục Tiểu học của Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi
về sinh hoạt chuyên môn, cách đánh giá cũng như phương pháp dạy học… góp
phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy và phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh. Tuy vậy, chúng tôi nhận thấy chương trình Tiểu học
hiện tại còn đặt nặng về lí thuyết, học sinh chưa được thực hành, trải nghiệm
nhiều, trang thiết bị, cơ sở vật chất vẫn còn thiếu thốn, giáo viên chưa được bồi
dưỡng thường xuyên… những điều này cũng gây ra những ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng giảng dạy và học tập. Chúng tôi hy vọng rằng trong thời
gian đến sẽ có những hướng khắc phục cụ thể để Việt Nam của chúng ta sẽ
được bè bạn quốc tế biết đến như là một đất nước có nền giáo dục tiến bộ và có
chất lượng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
Phạm Minh Hạc( 1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lữ Đạt, Chu Mã Sinh, (2010), Cải cách giáo dục ở Nhật Bản và
Ooxxtraylia, NXB Giáo Dục.
Bùi Việt Phú- Lê Quang Sơn (2013),Xu thế phát triển giáo dục, NXB
Giáo Dục.
Nguyễn Thị Thu Trang ,Toàn cầu hoá và yêu cầu đổi mới giáo dục tại Việt
Nam, Tạp chí VHNT số 381, tháng 3-2016
Lê Ngọc Trà , Một số vấn đề của giáo dục Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hoá, Viện Nghiên cứu Giáo dục, ĐHSP TPHCM.