BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
SENGCHANH SOMKHEN
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM –
SO SÁNH VỚI ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG QUỐC GIA LÀO
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Văn Cương
HÀ NỘI - 2016
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... 5
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 6
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 6
2. Tình hình nghiên cứu đề tài......................................................................... 7
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài ........................................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài ................................................................... 9
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ........................................................ 9
6. Cơ cấu của luận văn .................................................................................. 10
CHƯƠNG 1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM TRONG MỐI TƯƠNG QUAN VỚI ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN
HÀNG CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO .................................... 11
1.1. Khái quát về Ngân hàng Trung ương ................................................. 11
1.1.1. Sự ra đời của Ngân hàng Trung ương............................................... 11
1.1.2. Vị trí của Ngân hàng Trung ương trong bộ máy nhà nước ............... 12
1.1.2.1. NHTW trực thuộc Quốc hội ....................................................... 13
1.1.2.2. NHTW trực thuộc Chính phủ ..................................................... 14
1.1.3. Chức năng của Ngân hàng Trung ương ............................................ 15
1.1.3.1. Ngân hàng phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng ........ 16
1.1.3.2. Ngân hàng của các Ngân hàng ................................................... 16
1.1.3.3. Ngân hàng của Chính phủ .......................................................... 17
1.1.4. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng Trung ương ................................. 17
1.1.4.1. Phát hành tiền ............................................................................ 18
1.1.4.2. Thực hiện chính sách tiền tệ ....................................................... 18
1.1.4.3. Thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho các NHTM .................. 18
1.1.4.4. Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng .............. 19
1.1.4.5. Thực hiện các dịch vụ tài chính cho Chính phủ .......................... 19
2
1.2. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào ................................................................................ 20
1.2.1. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .................................. 20
1.2.2. Khái quát về Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào................ 22
1.3. Khái niệm và các bộ phận cấu thành địa vị pháp lý của Ngân hàng
Trung ương – sự thể hiện trong quy định về Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào .............................. 24
1.3.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Ngân hàng Trung ương ...................... 24
1.3.2. Các bộ phận cấu thành địa vị pháp lý của Ngân hàng Trung ương – sự
thể hiện cụ thể trong quy định về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân
hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào........................................................ 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................... 38
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP
LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM ĐƯỢC RÚT RA TỪ PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG CỘNG
HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO NHẰM GÓP PHẦN HOÀN THIỆN
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ............. 40
2.1. Đánh giá thực trạng pháp luật quy định về địa vị pháp lý của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam ........................................................................... 40
2.1.1. Những điểm đạt được....................................................................... 40
2.1.2. Những hạn chế còn tồn tại................................................................ 57
2.2. Đánh giá thực trạng thực thi pháp luật quy định về địa vị pháp lý của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ................................................................. 66
2.2.1. Những điểm đạt được....................................................................... 66
2.2.2. Những điểm còn hạn chế.................................................................. 73
2.3. Bài học kinh nghiệm từ pháp luật quy định về địa vị pháp lý của
Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nhằm góp phần hoàn thiện
địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ................................... 76
3
2.3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam ................................................................................................... 76
2.3.2.1. Bài học từ pháp luật quy định về địa vị pháp lý của Ngân hàng
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ............................................................. 78
2.3.2.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật quy định về địa vị pháp
lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.................................................... 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 93
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chính sách tiền tệ quốc gia
CSTTQG/CSTT
Cộng hòa dân chủ nhân dân
CHDCND
Kho bạc Nhà nước
KBNN
Ngân hàng Nhà nước
NHNN
Ngân hàng Trung ương
NHTW
Ngân sách Nhà nước
NSNN
Tổ chức tín dụng
TCTD
Việt Nam đồng
VNĐ
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, Ngân hàng Trung ương (NHTW)
đều đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Có một
hình ảnh, một ví dụ mà người ta hay dùng để nói tới vai trò của NHTƯ như sau:
Nếu nền kinh tế được coi là một cơ thể sống, thì hệ thống ngân hàng là huyết
mạch, còn NHTW là trái tim của cơ thể sống ấy1. Điều này có nghĩa, một nền
kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHTW thực hiện tốt chức
năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc, những bất ổn trong
hoạt động của NHTW cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền
kinh tế quốc gia và có thể ảnh hưởng lan truyền sang các quốc gia khác.
Năm 2016, Việt Nam kỉ niệm 65 năm thành lập ngành Ngân hàng, cũng
là sự kiện đánh dấu tuổi 65 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam. Thực
tế, khoảng thời gian này đã cho thấy những đóng góp to lớn của NHNN trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 65 năm chứa đựng nhiều giai đoạn thăng
trầm trong lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước, NHNN luôn
không ngừng nỗ lực sáng tạo trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao và đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, đứng trước sự hội nhập
quốc tế sâu rộng, đặc biệt trong thời gian tới, khi Việt Nam tham gia vào nhiều
Hiệp định thương mại quốc tế, những thách thức trong sự cạnh tranh, phát triển
của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng đòi hỏi NHNN phải
kiện toàn nhiều hơn về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của mình.
Cùng nằm trong khu vực các quốc gia Đông Nam Á, Lào là đất nước có
điều kiện lịch sử và có quá trình phát triển khá giống Việt Nam. Gần 50 năm
quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa hai nước anh em - Việt Nam – Lào đã cho thấy
tình đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ, học tập lẫn nhau để cùng phát triển trên các
1
Doãn Hữu Tuệ (2009), Mô hình nào cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam?, Truy cập ngày 10/10/2014, tại địa
chỉ www.chinhphu.vn
6
phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, trong đó có cả quy định về địa vị pháp lý
của NHTW hai quốc gia.
Do đó, việc tìm hiểu về những nội dung pháp luật điều chỉnh đối với
NHNN Việt Nam trong sự liên hệ, so sánh với pháp luật điều chỉnh đối với
Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, từ đó, tìm ra những bài học kinh
nghiệm, cũng như phương hướng để hoàn thiện hơn nữa địa vị pháp lý NHNN
Việt Nam trong điều kiện hội nhập sâu rộng là vấn đề cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Địa vị pháp lý của NHTW là vấn đề đóng vai trò quan trọng trong quy
định của pháp luật các quốc gia. Pháp luật điều chỉnh về NHTW như thế nào sẽ
ảnh hưởng tới quá trình cơ quan này thực hiện những vai trò của mình. Xét về
mặt lý luận, nhiều học giả đã nghiên cứu về cơ quan này với mục đích nhằm tìm
ra mô hình tổ chức và hoạt động hữu hiệu nhất.
Ở nhiều nước trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về NHTW
nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung, có thể kể đến như công trình nghiên
cứu của Scott T. Fullwiller với tựa đề “Modern Central Bank Operations – The
General Principles”, nghiên cứu tại trường Đại học Wartburg và Bard – Viện
nghiên cứu kinh tế Levy, tháng 6/2008; công trình nghiên cứu “Bagehot was a
Shadow Banker: Shadow Banking, Central Banking, and the Future of
Global Finance” của nhóm tác giả là thành viên của Shadow Banking
Colloquium – một dự án của chương trình nghiên cứu ổn định tài chính của
Viện những vấn đề mới về Kinh tế, công bố ngày 5/11/2013... Tuy nhiên, những
công trình nghiên cứu này chủ yếu xem xét NHTW dưới khía cạnh hoạt động
của cơ quan này như nguyên tắc hoạt động, quy luật vận hành chung tại từng
mảng hoạt động của NHTW, hoặc nghiên cứu tổ chức, hoạt động của cơ quan
này tại một quốc gia, nhóm quốc gia điển hình, chứ chưa đề cập tới cơ quan này
dưới khía cạnh pháp lý. Thực tế, đặc thù của mỗi quốc gia khác nhau, nên địa vị
pháp lý của NHTW của mỗi quốc gia cũng có những nét riêng tương ứng.
7
Ở Việt Nam, với việc nhìn nhận rất rõ vai trò của NHNN, những vấn đề
kinh tế và pháp lý liên quan đến vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động
của NHNN đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm và khai thác. Một
số công trình nghiên cứu, bài báo, tạp chí đã thể hiện quan điểm của các tác giả
về sự thay đổi của cơ quan này như thế nào để phát huy được cao nhất thế
mạnh. Có thể kể đến như Luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài “Điều hành chính
sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
ở Việt Nam” của tác giả Khuất Duy Tuấn năm 2012; Luận án tiến sĩ kinh tế:
“Đổi mới hoạt động thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” của
tác giả Đoàn Phương Thảo năm 2012.
Còn dưới khía cạnh tìm hiểu về Ngân hàng CHDCND Lào, có một số
công trình nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài: “Thực thi chính
sách tiền tệ tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”; Luận án tiến sĩ kinh tế của
Thonmy Keokinnaly với đề tài “Công cụ nghiệp vụ thị trường mở tại nước
CHDCND Lào”, Luận án tiến sĩ kinh tế của Santy Phonmeuanglao mang tên:
“Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”...
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về NHNN Việt Nam hay Ngân
hàng CHDCND Lào nói trên chủ yếu xem xét dưới khía cạnh kinh tế từng nội
dung hoạt động cơ bản của NHTW, chứ chưa tìm hiểu những vấn đề tổng quan
về NHTW dưới khía cạnh pháp luật điều chỉnh.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với đề tài “Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – so sánh
với địa vị pháp lý của Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, tác giả tập
trung nghiên cứu những quy định, những chính sách của Nhà nước về vị trí
pháp lý, mục tiêu, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của NHNN Việt
Nam, có đối chiếu, so sánh với quy định tương ứng của Lào về NHTW của
quốc gia này. Đồng thời, tác giả có phân tích, bình luận và tìm ra thực trạng
8
thực thi trên thực tế của những quy định nói trên. Thêm vào đó, thông qua quá
trình tìm hiểu, phân tích, tác giả sẽ rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và
Lào để có thể học tập lẫn nhau trong việc quy định địa vị pháp lý của NHTW
nhằm mục đích hoàn thiện nội dung này, và phát huy hiệu quả hoạt động cao
nhất của NHTW.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau đây:
(i) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin;
(ii) Một số phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, phương pháp so sánh,
phương pháp lịch sử… được sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu những
vấn đề lý luận về NHTW nhằm (i) nên lên cách hiểu tổng quan nhất về NHTW
vai trò của nó trong đời sống kinh tế - xã hội; (ii) tìm hiểu nội dung pháp luật
điều chỉnh địa vị pháp lý của NHNN Việt Nam và Lào, từ đó tìm hiểu thực
trạng của những bộ phận pháp luật này.
Phương pháp so sánh luật học, phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh
giá được sử dụng trong chương 2 khi tìm hiểu thực trạng pháp luật quy định về
địa vị pháp lý của NHNN Việt Nam nhằm (i) làm rõ những quy định của pháp
luật trước kia và hiện hành về vấn đề này; (ii) rút ra bài học kinh nghiệm, chỉ ra
những điểm đạt được và chưa đạt được của pháp luật để từ đó đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của NHNN Việt
Nam trong mối tương quan với địa vị pháp lý của Ngân hàng CHDCND Lào,
bao gồm: khái quát về NHTW, NHNN Việt Nam và Ngân hàng CHDCND Lào;
9
khái niệm và các bộ phận cấu thành địa vị pháp lý của NHNN Việt Nam trong
mối tương quan với Ngân hàng CHDCND Lào.
Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu các quy phạm pháp luật của từng bộ phận
cấu thành địa vị pháp lý của NHNN Việt Nam, luận văn làm rõ thực trạng pháp
luật điều chỉnh nội dung này ở Việt Nam từ trước cho đến nay.
Thứ ba, làm rõ những yêu cầu mang tính khách quan, cũng như sự cần
thiết phải hoàn thiện pháp luật quy định về địa vị pháp lý của NHNN, qua đó,
đưa ra những kiến nghị trước mắt và lâu dài cho việc hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh vấn đề này.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Phần kết luận, luận văn được cơ cấu thành 02 chương
với các nội dung cụ thể như sau:
Chương 1. Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong mối tương
quan với địa vị pháp lý của Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Chương 2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
và bài học kinh nghiệm từ Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nhằm
góp phần hoàn thiện địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
10
CHƯƠNG 1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM TRONG MỐI TƯƠNG QUAN VỚI ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN
HÀNG CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1. Khái quát về Ngân hàng Trung ương
1.1.1. Sự ra đời của Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng trung ương đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử cùng với sự phát
triển của hệ thống ngân hàng. Theo một số tài liệu phổ biến hiện nay, trước thế
kỷ XV, trong nền kinh tế xuất hiện những người làm nghề kinh doanh tiền tệ
với nghiệp vụ đầu tiên chỉ đơn thuần là đổi tiền, giữ hộ tiền cho các thương
nhân và thực hiện nghiệp vụ cho vay khi trong tay họ luôn có một lượng tiền
nhàn rỗi nhất định. Đây được xem như mầm mống cho việc xuất hiện những
ngân hàng ở giai đoạn sau. Ngân hàng bắt đầu xuất hiện ở nhiều nước trên thế
giới từ thế kỷ XV, trải qua:
Giai đoạn 1 – thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, xuất hiện các ngân hàng thực
hiện các nghiệp vụ như nhau và đơn giản như nhận tiền gửi và cho vay, phát
hành tiền, thực hiện các dịch vụ ngân hàng như thanh toán, chuyển tiền, đổi
tiền...;
Giai đoạn 2 – thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, Nhà nước các nước
ban hành đạo luật nhằm hạn chế số lượng ngân hàng được phép phát hành tiền.
Đến cuối thế kỷ XIX, các nước có xu hướng chỉ cho phép một ngân hàng duy
nhất phát hành tiền với tên gọi là ngân hàng phát hành, còn các ngân hàng khác
chỉ thuần túy kinh doanh dịch vụ ngân hàng.
Giai đoạn 3 – thế kỷ XX đến nay, các nước ngày càng nhận thấy vai trò
to lớn của Ngân hàng Phát hành đối với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt
sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 – 1933. Đòi hỏi tất yếu Nhà
nước cần nắm trong tay các Ngân hàng Phát hành và công cuộc tiến hành quốc
hữu hóa hoặc thành lập Ngân hàng Phát hành mới thuộc sở hữu Nhà nước bắt
11
đầu, cụ thể Canada quốc hữu hóa Ngân hàng Phát hành năm 1938, Đức năm
1939, Pháp năm 1945, Anh năm 1946. Từ đó, tên gọi Ngân hàng phát hành
được thay thế là NHTW và mỗi quốc gia chỉ có duy nhất một NHTW, đảm
nhiệm nhiều vai trò quan trọng như thực hiện phát hành tiền, kiểm soát và điều
tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện nhiều nhiệm vụ với Chính phủ...
Tên gọi của NHTW ở mỗi quốc gia khác nhau có sự khác nhau. Có quốc
gia ghi nhận tên gọi của NHTW mang tính chất kế thừa lịch sử, như Ngân hàng
Trung ương Nhật Bản; có quốc gia tên gọi NHTW dựa theo tính chất sở hữu
như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc hoặc
cũng có thể gọi thẳng như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Tuy nhiên, dù có mang
tên gọi như thế nào, NHTW vẫn hoạt động nhằm đáp ứng cho mục tiêu chung
nhất là đảm bảo hỗ trợ đối với sự tăng trưởng và ổn định kinh tế.
1.1.2. Vị trí của Ngân hàng Trung ương trong bộ máy nhà nước
Vị trí của NHTW mỗi quốc gia sẽ gắn liền với những đặc thù của quốc
gia ấy về thể chế chính trị, quan điểm phát triển kinh tế và đặc điểm văn hóa.
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách tổng quan lịch sử tổ chức của NHTW, trên
thế giới thừa nhận ba mô hình NHTW: (i) NHTW trực thuộc Quốc hội; (ii)
NHTW trực thuộc Chính phủ và (iii) NHTW trực thuộc Bộ Tài chính. Ở Mô
hình NHTW trực thuộc Bộ Tài chính, trước đây từng được tổ chức ở một số
quốc gia như Pháp, Anh, Malaysia... Do mô hình này có quá nhiều nhược điểm,
như dễ xảy ra khả năng sử dụng công cụ phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân
sách nhà nước (NSNN), gây ra tình trạng lạm phát cao, tạo ra mâu thuẫn giữa
một cơ quan thực hiện nhiệm vụ ngân sách với một cơ quan phát hành tiền và
điều tiết lượng tiền cung ứng..., nên tới thời điểm hiện nay, mô hình NHTW
thuộc Bộ Tài chính không còn được quốc gia nào áp dụng. Theo đó, trên thế
giới đến thời điểm này, NHTW được tổ chức theo một trong hai cách thức:
12
1.1.2.1. NHTW trực thuộc Quốc hội
Trực thuộc Quốc hội, lúc này, NHTW độc lập với Chính phủ. Theo đó,
Chính phủ không có quyền can thiệp vào tổ chức và hoạt động của NHTW, đặc
biệt trong việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Quan hệ giữa Chính
phủ và NHTW là quan hệ hợp tác. Các NHTW theo mô hình này là Cục dự trữ
liên bang Mỹ, NHTW Thụy Sĩ, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản và gần đây là
NHTW Châu Âu (ECB). Xu hướng tổ chức NHTW theo mô hình này đang
càng ngày càng tăng lên ở các nước phát triển. Theo mô hình này, NHTW có
toàn quyền quyết định việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ mà không
bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác.
Mặt khác, theo quan điểm dân chủ cổ truyền của Châu Âu thì mọi chính sách
phải được phục vụ cho quyền lợi của công chúng và phải được quyết định bởi
Quốc hội – cơ quan đại diện cho quyền lực của toàn dân, chứ không phải một
nhóm các nhà chính trị - Chính phủ. Vì vậy, NHTW có vai trò hết sức quan
trọng đối với đời sống kinh tế, nên không thể đặt dưới quyền Chính phủ được,
mà phải do Quốc hội kiểm soát. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường hiện nay,
việc trao cho NHTW vị trí độc lập là vô cùng cần thiết, là yếu tố then chốt để
đảm bảo tính hiệu quả trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia (CSTTQG) ở
mỗi nước.
Ví dụ, ở Hoa Kỳ, từ năm 1908 đã xác định rõ sự cần thiết phải quy định
hệ thống ngân hàng độc lập với Chính phủ. Đến năm 1913, Đạo luật về Cục dự
trữ Liên bang Hoa Kỳ khẳng định, NHTW Hoa Kỳ (Cục dự trữ liên bang Hoa
Kỳ - FED) có vị trí độc lập với Chính phủ, trực thuộc Quốc hội, độc lập trong
việc quyết định cung ứng tiền tệ và thực hiện CSTTQG.
Mô hình này được áp dụng tương tự ở Nga. Luật về NHTW Nga năm
2002, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2011 quy định tại Điều 1: NHTW Nga hoạt
động độc lập với các cơ quan chính quyền của Liên bang Nga, các cơ quan
chính quyền của các chủ thể trong Liên bang Nga và chính quyền địa phương”.
13
Có thể thấy, mô hình NHTW trực thuộc Quốc hội thường được thiết lập
ở những nước có nền kinh tế phát triển và CSTTQG được coi là động lực của
mọi sự phát triển. Để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động quản lý của
NHTW thì ngân hàng này phải có vị trí độc lập, tức là mối quan hệ giữa NHTW
và Quốc hội và Chính phủ phải được làm rõ và tính độc lập, tự chủ phải được đề
cao. Vị thế này được thể hiện rõ nét nhất trong việc xây dựng và thực hiện
CSTTQG – một trong những nhân tố quyết định sự thành công của hoạt động
quản lý kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, không phải tất cả các NHTW được tổ chức theo mô hình này
đều đảm bảo được sự độc lập hoàn toàn khỏi áp lực của Chính phủ khi điều
hành chính sách tiền tệ. Mức độ độc lập của mỗi NHTW phụ thuộc vào sự chi
phối của người đứng đầu Nhà nước vào cơ chế lập pháp và nhân sự của NHTW.
Điểm hạn chế lớn nhất của mô hình này là khó có sự kết hợp hài hòa giữa chính
sách tiền tệ - do NHTW thực hiện và chính sách tài khóa – do Chính phủ chi
phối để quản lý vĩ mô một cách hiệu quả2.
1.1.2.2. NHTW trực thuộc Chính phủ
Đây là mô hình NHTW là cơ quan chuyên môn của Chính phủ và chịu
sự chi phối trực tiếp của Chính phủ về nhân sự, tài chính và đặc biệt là về các
quyết định liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Các
nước áp dụng mô hình này phần lớn là các nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore, Indonesia, Việt Nam… hoặc các nước thuộc khối xã hội chủ
nghĩa trước đây. Theo mô hình này, Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp điều
hành chính sách tiền tệ của NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô
khác nhằm đảm bảo mức độ và liều lượng tác động hiệu quả của tổng thể các
chính sách đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được
xem là phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây
dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển.
2
Nguyễn Hữu Tài (1998), Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, Nxb. Thống kê, Hà Nội
14
Ví dụ về mô hình này là Trung Quốc. Theo Luật về Ngân hàng nhân dân
Trung Quốc năm 1995, sửa đổi, bổ sung năm 2003 quy định: “Ngân hàng nhân
dân Trung Quốc là NHTW của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Dưới sự
lãnh đạo của Quốc vụ viện, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc hoạch định và
thực thi CSTTQG, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tài chính và duy trì sự ổn định
tài chính”3. Như vậy, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là cơ quan của Chính
phủ, thuộc sở hữu nhà nước.
Tuy nhiên, mô hình NHTW thuộc Chính phủ có điểm hạn chế chủ yếu là
mất đi sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của cơ quan này. Sự
phụ thuộc vào Chính phủ có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn là ổn
định giá trị đồng tiền, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự lớn mạnh
nhanh chóng của các nước thuộc nhóm các nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs)
như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan… nơi NHTW là một bộ phận trong guồng
máy Chính phủ là một bằng chứng có sức thuyết phục về sự phù hợp của mô
hình tổ chức này đối với truyền thống văn hóa Á Đông.
1.1.3. Chức năng của Ngân hàng Trung ương
Mỗi quốc gia khác nhau, chức năng của NHTW sẽ có những nét đặc thù
phù hợp với sự phát triển của quốc gia ấy. Do đó, quan điểm về chức năng của
NHTW sẽ có những nét khác biệt.
Theo quan điểm của OANDA4, NHTW có các chức năng chính gồm: (i)
thực hiện chính sách tiền tệ; (ii) thúc đẩy sự ổn định của hệ thống tài chính của
quốc gia; (iii) quản lý phát hành và phân phối đồng tiền của quốc gia; (iv) thông
báo cho công chúng toàn bộ tình trạng của nền kinh tế bằng việc xuất bản thống
kê kinh tế5. Còn theo trang Investopedia, NHTW là một thực thể chịu trách
nhiệm giám sát hệ thống tiền tệ cho một quốc gia (hoặc nhóm các quốc gia).
3
Điều 2 Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, sửa đổi, bổ sung năm 2003
OANDA là một trang dữ liệu lớn cung cấp những dữ liệu tiền tệ và kinh doanh ngoại hối, cung cấp đòn bẩy
kinh doanh, thanh toán và các dịch vụ dữ liệu cho một loạt các tổ chức và nhà đầu tư
5
OANDA, The Role of Central Bank, truy cập ngày 15/5/2016 tại địa chỉ />4
15
Những trách nhiệm của NHTW như giám sát chính sách tiền tệ để thực hiện các
mục tiêu cụ thể như sự ổn định tiền tệ, lạm phát thấp và việc làm đầy đủ.
NHTW có các chức năng chính là phát hành tiền tệ, ngân hàng của Chính phủ,
điều chỉnh hệ thống tín dụng, giám sát ngân hàng thương mại (NHTM), quản lý
dự trữ ngoại hối và hoạt động như một người cho vay cuối cùng6.
Dù có nhiều quan điểm về chức năng của NHTW như vậy, tuy nhiên,
tựu chung lại, có thể thấy NHTW có các chức năng chính như sau:
1.1.3.1. Ngân hàng phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng
NHTW là cơ quan duy nhất phát hành đồng tiền quốc gia theo các quy
định trong luật hoặc được Chính phủ phê duyệt. Do vậy, giấy bạc do NHTW
phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp. Để giá trị đồng tiền được ổn định
phù hợp với nhu cầu thực tế của nền kinh tế, đòi hỏi NHTW phát hành tiền phải
xác định được lượng tiền cần phát hành, thời điểm phát hành, nguyên tắc phát
hành và phương thức phát hành.
NHTW thực hiện điều tiết lượng tiền cung ứng thông qua việc điều hành
chính sách tiền tệ (CSTT). Xét về bản chất, hoạt động này là việc bơm/hút
lượng tiền đối với nền kinh tế sao cho bảo đảm mối quan hệ cân bằng giữa cung
tiền tệ và cầu tiền tệ.
1.1.3.2. Ngân hàng của các Ngân hàng
Thứ nhất, NHTW nhận tiền gửi của Ngân hàng thương mại (NHTM)
dưới các hình thức khác nhau. Một là, NHTW yêu cầu NHTM thiết lập dự trữ
bắt buộc. Mức dự trữ bắt buộc do NHTW quy định và bằng một tỷ lệ nhất định
so với tổng tiền gửi của khách hàng tại NHTM. Hai là, NHTM mở tài khoản
tiền gửi thanh toán tại NHTW nhằm đảm bảo nhu cầu thanh khoản giữa NHTM
và khách hàng.
6
Investopedia, What is a “Central Bank”,
/>
16
truy
cập
ngày
15/05/2016,
tại
địa
chỉ
Thứ hai, NHTW cho vay đối với NHTM nhằm mục đích đảm bảo khả
năng thanh toán của NHTM, qua đó, NHTW được xem là người cho vay cuối
cùng đối với NHTM.
Thứ ba, NHTW thực hiện thanh toán bù trừ cho các NHTM, theo đó, hệ
thống của NHTW gồm các chi nhánh được bố trí theo khu vực hoặc theo địa
giới hành chính, và mỗi chi nhánh là một trung tâm thanh toán bù trừ giúp cho
hoạt động kinh doanh của NHTM được thực hiện thông suốt trong quan hệ
thanh toán với nhau.
1.1.3.3. Ngân hàng của Chính phủ
NHTW là ngân hàng của Chính phủ theo các góc độ: NHTW làm đại lý
phát hành trái phiếu Chính phủ; thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt cho
hệ thống Kho bạc Nhà nước (KBNN); ở một số nước hệ thống KBNN chưa phát
triển, Chính phủ còn có thể ủy nhiệm cho NHTW thực hiện quản lý chi tiêu của
Chính phủ; bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng bạc, kim khí quý.
Ngoài ra, NHTW thay mặt Chính phủ thực hiện quản lý hoạt động của
NHTM về mặt pháp luật, cụ thể: NHTW thực hiện quản lý từ việc xem xét, cấp
và thu hồi giấy phép hoạt động của NHTM; quy định nghiệp vụ và các hệ số an
toàn đối với hoạt động của NHTM, thanh tra hoạt động của NHTM…
Thêm vào đó, NHTW còn đại diện cho Chính phủ thực hiện các quan hệ
tài chính với nước ngoài và với các tổ chức tài chính quốc tế. Trên cơ sở đó,
NHTW tiến hành xây dựng các dự án vay vốn nước ngoài, tham gia quản lý quá
trình sử dụng vốn vay, thực hiện theo dõi hoàn trả nợ nước ngoài và thực hiện
các nghĩa vụ tài chính tiền tệ quốc tế với các tổ chức tài chính quốc tế
1.1.4. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng Trung ương
Dù NHTW thuộc mô hình tổ chức nào thì hoạt động của chúng đều có
điểm giống nhau về mục đích và nội hàm, bao gồm quản lý nhà nước trong lĩnh
vực ngân hàng và hoạt động nhằm ổn định giá trị đồng nội tê, đảm bảo an toàn
17
hệ thống ngân hàng và tăng trưởng kinh tế, được thể hiện thông qua các hoạt
động cơ bản:
1.1.4.1. Phát hành tiền
Lượng tiền phát hành đưa vào lưu thông sẽ quyết định toàn bộ hoạt động
của nền kinh tế. NHTW được giao trọng trách độc quyền phát hành tiền theo
quy định trong Luật hoặc được Chính phủ phê duyệt nhằm đảm bảo thống nhất
và an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Nhiệm vụ phát hành tiền
còn bao gồm trách nhiệm của NHTW trong việc xác định số lượng tiền cần phát
hành, thời điểm phát hành cũng như phương thức phát hành để đảm bảo sự ổn
định tiền tệ và phát triển kinh tế.
1.1.4.2. Thực hiện chính sách tiền tệ
NHTW thực hiện chức năng quản lý lưu thông tiền tệ đảm bảo khối
lượng tiền cần thiết trong lưu thông trong một khoảng thời gian nhất định thông
qua chính sách tiền tệ. Do vậy, điều hành CSTT có tính chất đặc biệt quan trọng
đối với sự ổn định, tăng trưởng của nền kinh tế trong từng thời kỳ. Hoạt động
này được NHTW thực hiện trước hết dựa trên đánh giá thực trạng và dự báo sự
phát triển kinh tế trong tương lai của nền kinh tế trong nước và nước ngoài. Từ
đó, NHTW sẽ định lượng mục tiêu cụ thể để có quyết sách phù hợp trong việc
thực thi CSTT với công cụ của CSTT.
1.1.4.3. Thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho các NHTM
NHTW không tham gia kinh doanh tiền tệ, tín dụng trực tiếp với các chủ
thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiên các nghiệp vụ ngân hàng với các NHTM,
cụ thể:
- NHTW mở tài khoản và nhận tiền gửi của các NHTM dưới dạng tiền
gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán;
- Cấp tín dụng cho các NHTM dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ
có giá ngắn hạn do các NHTM nắm giữ. Việc cấp tín dụng của NHTW cho các
18
NHTM không chỉ giới hạn ở nghiệp vụ tái chiết khấu mà còn bao gồm các
khoản cho vay ứng trước có đảm bảo bằng các chứng khoán đủ tiêu chuẩn, các
khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tại NHTW;
- Là trung tâm thanh toán bù trừ cho hệ thống NHTM, do các NHTM
đều mở tài khoản và ký gửi các khoản dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức tại
NHTM nên có thể thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt qua NHTW thay vì
thanh toán trực tiếp với nhau. Khi đó, NHTW đóng vai trò là trung tâm thanh
toán bù trừ giữa các NHTM.
1.1.4.4. Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng
Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW không chỉ cung
ứng các dịch vụ ngân hàng thuần túy cho các ngân hàng trung gian, mà thông
qua các hoạt động đó, NHTW còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường
xuyên hoạt động của các ngân hàng trung gian nhằm đảm bảo sự ổn định tron
hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế, đặc
biệt là của những người gửi tiền, trong quan hệ với ngân hàng.
1.1.4.5. Thực hiện các dịch vụ tài chính cho Chính phủ
Cho dù NHTW được xây dựng theo mô hình độc lập hay phụ thuộc vào
Chính phủ, thì ít nhiều NHTW cũng có những ảnh hưởng và sự tương tác nhất
định đối với các hoạt động kinh tế tài chính của Chính phủ.
Đối với mô hình NHTW trực thuộc Quốc hội, sự can thiệp của Chính
phủ vào hoạt động của NHTW là rất hạn chế. Tuy nhiên, do NHTW luôn sử
dụng nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết khối lượng tiền cung ứng, mà trái
phiếu Chính phủ thường được mua bán trên thị trường này nên hoạt động của
NHTW có tác động nhất định tới chính sách tài khóa của Chính phủ. Từ đó,
trong một số trường hợp, hoạt động của chính sách tài khóa do Chính phủ điều
hành cũng có những tác động nhất định đến hoạt động của NHTW trong mô
hình này hoặc ngược lại.
19
Đối với mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ, NHTW có thể được coi
là một cơ quan đại diện của Chính phủ trong các dịch vụ tài chính Nhà nước.
Bên cạnh hoạt động của CSTT, NHTW cũng thực hiện thêm các hoạt động hỗ
trợ Chính phủ trong việc phát hành trái phiếu Chính phủ, thực hiện vay nợ trong
và ngoài nước hay thực hiện thanh toán cho Chính phủ…
1.2. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào
1.2.1. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngày 5/6/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành
lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam – Ngân hàng của Nhà nước Dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á (nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). Hệ thống
ngân hàng Việt Nam ra đời trong bối cảnh nền kinh tế chủ yếu là tự cung tự cấp,
sản xuất nhỏ lẻ, đất nước bị chia cắt, tàn phá bởi chiến tranh. Năm 1975, sau khi
giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam Việt
Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương duy trì hoạt động bình thường
trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ, bằng cách tiếp tục cho lưu hành đồng tiền của
chế độ cũ trong một thời gian, vừa nhanh chóng xác lập quyền sở hữu Ngân
hàng về tay Nhà nước cách mạng.
Sáng ngày 1/5/1975, tại trụ sở NHNN Sài Gòn 17 Bến Chương Dương,
Ủy ban quân quản đọc lệnh “Quốc hữu hóa” hệ thống ngân hàng của chính
quyền Sài Gòn và tuyên bố việc chính quyền cách mạng sẽ tiếp quản các quyền
lợi và nghĩa vụ của Ngân hàng trong các quan hệ đối nội và đối ngoại của hệ
thống ngân hàng chế độ cũ. Trong đó bao gồm cả việc xác nhận nợ, tiếp quản
tất cả các kho thế chấp và trả lại tiền gửi cho nhân dân trong quá trình thu hồi
nợ và các hoạt động khác của hệ thống ngân hàng miền Nam trong chính quyền
cách mạng.
20
Ngày 6/6/1975, năm tuần sau ngày giải phóng Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định số 04/PCT-75 về thành lập
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, vẫn lấy tên giống hệt như tên Ngân hàng cũ của
Chính quyền Sài Gòn để không ảnh hưởng đến tên ngoại giao trong các giao
dịch, các nghĩa vụ hoặc quyền lợi của Ngân hàng quốc gia Việt Nam với các tổ
chức tài chính quốc tế hay các ngân hàng nước ngoài. Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã thông qua danh nghĩa của người đứng
đầu Ngân hàng Quốc gia Việt nam để kế thừa vai trò hội viên của Ngân hàng
này trong các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng thế giới (WB). Tiếp đó, Ngân hàng
Quốc gia của Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam đã mở rộng quan hệ với
các ngân hàng của một số nước tư bản và nhiều nước dân tộc chủ nghĩa khác.
Tháng 9/1975, dưới sự chỉ đạo của Trung ương, Chính phủ cách mạng
lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tiến hành một cuộc đổi tiền trên quy
mô toàn miền Nam để chính thức đoạn tuyệt chế độ tiền cũ nhằm xây dựng một
nền tiền tệ độc lập, tự chủ.
Ngày 2/2/1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về lĩnh vực ngân
hàng, mọi hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán và các dịch vụ khác đã được
đặt trong một cơ chế vận hành thống nhất trên phạm vi cả nước – hệ thống ngân
hàng một cấp. Hệ thống này hoạt động bằng cơ chế kế hoạch hóa và hạch toán
toàn ngành theo kế hoạch của Nhà nước, phục vụ sự nghiệp khôi phục kinh tế
sau chiến tranh. Tiếp theo sự hợp nhất Ngân hàng về mặt thể chế là việc hợp
nhất Ngân hàng về mặt tiền tệ. Năm 1978, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam ra
quyết định về việc thống nhất tiền tệ trong cả nước7.
7
Nguyễn Đại Lai (2006), Những nét khái quát về hoạt động ngân hàng Việt Nam giai đoạn lịch sử đặc biệt
1975 – 1985. Tiếp quản ngân hàng của Chính quyền Sài Gòn cũ và phục vụ nền kinh tế 10 năm hàn gắn các vết
thương chiến tranh sau giải phóng miền Nam, Tạp chí ngân hàng, tr.6
21
Sau khi đất nước thống nhất, trong những năm 80 của thế kỷ XX, do hậu
quả của chiến tranh kéo dài, thiên tai liên tục, nền kinh tế lâm vào tình trạng suy
thoái nghiêm trọng. Năm 1986, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện mang tính chiến lược, mở đầu thời kỳ phát triển mới của đất
nước. Bước đầu là sự cải cách hệ thống ngân hàng, chuyển từ tập trung bao cấp
sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Hai pháp lệnh Ngân hàng công bố vào ngày 24/5/1990 là cơ sở để hệ
thống ngân hàng được đổi mới căn bản và toàn diện từ ngân hàng một cấp, vừa
quản lý vừa kinh doanh, sang hệ thống ngân hàng hai cấp: NHNN là cơ quan
quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối, và là NHTW của đất nước.
Tới nay, trải qua hơn 65 năm tồn tại và phát triển, NHNN ngày càng
khẳng định vai trò chủ đạo của mình trong thực hiện chức năng ổn định tiền tệ tài chính, quản lý và đảm bảo an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động, NHNN đã tích cực mở rộng hợp tác quốc tế, từng
bước hoàn thiện theo chuẩn mực quốc tế nhằm góp phần hoàn thiện môi trường
thể chế và tạo điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi. Thêm vào đó, NHNN ngày
càng có những thay đổi mang tính chiến lược về việc chuyển đổi mô hình và cơ
chế hoạt động theo hướng NHTW độc lập nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của NHNN.
1.2.2. Khái quát về Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Lịch sử phát triển của Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân
(CHDCND) Lào gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân
hàng Lào nói riêng và gắn liền với lịch sử phát triển của từng thời kỳ Cách
mạng và công cuộc xây dựng đất nước nói chung. NHTW Lào thành lập ngày
7/10/1968 tại khu giải phóng Mương Viêng Say tỉnh Hóa Phan (miền Bắc Lào)
theo Hiến pháp của Đại hội Đảng cách mạng Lào lần thứ III tháng 3 năm 1966
và do quyết định của Trung ương Đảng Dân chủ nhân dân Lào. Tiền thân của
Ngân hàng CHDCND Lào là Kho bạc trung ương với hai nhiệm vụ chính: (i)
22
Chi trả lương và chính sách khác cho cán bộ, bộ đội và công an; (ii) Nhận tiền
gửi và cho vay.
Đến năm 1973, Kho bạc Trung ương đổi tên thành Ngân hàng PaThet
Lào, có chi nhánh ở 13 tỉnh giải phóng. Sau năm 1975, đất nước giải phóng,
Ngân hàng này chuyển về Thủ đô Viêng Chăn. Tháng 8 năm 1976, Ngân hàng
PaThet Lào đã đổi tên thành “Ngân hàng Quốc gia Lào” với cơ chế bao cấp
trong hoạt động từ năm 1975 đến 1985. Hệ thống tổ chức Ngân hàng quốc gia
Lào là một ngân hàng duy nhất và có các chi nhánh từ trung ương đến địa
phương, là cơ quan trực thuộc hội đồng Bộ trưởng, có tư cách pháp nhân, có
vốn riêng, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế thống nhất và quản lý
toàn ngành8. Giai đoạn này, Ngân hàng Quốc gia Lào hoạt động không có hiệu
quả, tương đối khan hiếm về vốn, huy động vốn bị hạn chế và cho vay không
đảm bảo được hiệu quả, nợ xấu tăng quá cao…
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1986 đã đặt ra đường
lối đổi mới toàn diện, Chính phủ Lào quyết tâm đổi mới hệ thống ngân hàng
theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Sau đó, Đại hội hệ thống ngân hàng toàn quốc
lần thứ nhất khai mạc năm 1986 quyết định chuyển từ ngân hàng một cấp sang
ngân hàng hai cấp, đồng thời đổi tên Ngân hàng Quốc gia Lào thành “Ngân
hàng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”.
Với việc tổ chức mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp, Ngân hàng
CHDCND Lào thực hiện chức năng phát hành tiền và quản lý Nhà nước về
công tác tiền tệ, tín dụng và ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân9. Trong quá
trình hoạt động, Ngân hàng CHDCND Lào đã tích cực mở rộng hợp tác quốc tế
dưới cả góc độ hợp tác song phương và đa phương, từng bước hoàn thiện theo
chuẩn mực quốc tế. Gần đây, Ngân hàng CHDCND Lào đang dần có những
thay đổi mang tính chiến lược về việc chuyển mô hình và cơ chế hoạt động của
8
Nghị định số 05/TTCP, hướng dẫn thi hành Luật Ngân hàng CHDCND Lào, ký ngày 22/06/1998
Nghị định số 11/HĐBT về chuyển hệ thống ngân hàng một cấp sang cơ chế kinh tế thị trường, ký ngày
23/3/1988
9
23
mình với nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là ổn định giá cả và tổng cầu, còn về lâu
dài là góp phần bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng thực tế với giá cả lạm phát
thấp hơn sự tăng trưởng kinh tế một cách ổn định bền vững. Để thực hiện mục
tiêu này, Ngân hàng CHDCND Lào có quyền xác lập các biện pháp tác động
đến thị trường tiền tệ bằng các công cụ của chính sách tiền tệ.
1.3. Khái niệm và các bộ phận cấu thành địa vị pháp lý của Ngân hàng
Trung ương – sự thể hiện trong quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Ngân hàng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
1.3.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Ngân hàng Trung ương
Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là một trong những khái niệm pháp
lý được sử dụng nhằm xác định vị trí, vai trò và thể hiện tư cách của một loại
chủ thể pháp luật trong quá trình điều chỉnh pháp lý đối với sự tồn tại và hoạt
động của chúng. Theo từ điển Luật học, địa vị pháp lý là “vị trí của chủ thể
pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các
quy định của pháp luật”. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành
tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như
giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình10. Như vậy, thông
qua địa vị pháp lý, ta có thể phân biệt được chủ thể pháp luật này với chủ thể
pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí, tầm quan trọng của chủ thể
pháp luật, do đó, nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp
luật, có vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi chủ thể. Xác định được địa vị
pháp lý sẽ giúp họ thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời
tránh được sự xâm phạm từ những chủ thể khác.
Đối với cá nhân, địa vị pháp lý của cá nhân được hiểu là quyền và nghĩa
vụ. Trong đó, quyền là khả năng xử sự của chủ thể theo cách thức nhất định
10
Viện Khoa học pháp lý (2006), Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, Hà
Nội.
24
được Nhà nước thừa nhận và quy định trong pháp luật11. Còn nghĩa vụ được
hiểu là các xử sự cần thiết được quy định trong pháp luật, nghĩa vụ tự bản thân
không phải là hành vi mà chỉ là sự cần thiết phải thực hiện những hành vi đó,
nếu sự cần thiết ấy được thể hiện trong hoạt động thực tiễn thì nghĩa vụ pháp lý
đó đã được thực hiện.
Còn đối với chủ thể là tổ chức, địa vị pháp lý của tổ chức được hiểu là vị
trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và năng lực của chủ thể đó trong mối quan
hệ với các chủ thể khác. Vậy, khi nói đến địa vị pháp lý của tổ chức, cơ quan,
thường nói đến chức năng, thẩm quyền và quan hệ pháp lý của tổ chức đó với
đơn vị, tổ chức khác. Các quy định này thường được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật.
Ở một khía cạnh khác, địa vị pháp lý của NHTW có mối quan hệ gắn kết
với địa vị pháp lý của cơ quan nhà nước. Địa vị pháp lý của cơ quan nhà nước là
một khái niệm pháp lý trong đó phản ánh vị trí của từng cơ quan trong tổng thể
bộ máy nhà nước theo quy định của pháp luật, thể hiện ở nhiều nội dung như:
- Cấp của cơ quan đó: cấp trung ương hay địa phương;
- Trình tự thành lập: bầu hay được lập ra;
- Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan;
- Chế độ trách nhiệm: chịu trách nhiệm trước ai;
- Thẩm quyền của cơ quan: phạm vi quyền, nghĩa vụ cũng như phạm vi
(không gian, thời gian, đối tượng tác động) hiệu lực của các quyết định của các
cơ quan đó;
- Nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động của cơ quan;
- Biểu tượng nhà nước mà cơ quan đó được sử dụng...12
11
Nguyễn Minh Đoan (2010), Quy chế pháp lý của công dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30 37
12
Học viện hành chính (2010), Giáo trình Tổ chức bộ máy nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
25