Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật về thương mại điện tử ở việt nam trong xu thế hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC ANH

PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
TRONG XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên nan: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Đặng Hải Yến

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Pháp luật về Thương mại điện tử ở Việt
Nam trong xu thế hội nhập quốc tế”, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ của
nhiều tổ chức, cá nhân.
Với tấm lòng chân thành và sự biết ơn sâu sắc nhất, tác giả xin được gửi lời cảm
ơn đặc biệt tới Tiến sĩ Vũ Đặng Hải Yến. Cô là người đã luôn theo dõi và hướng dẫn
sát sao, giúp tác giả có những định hướng và kỹ năng nghiên cứu đúng đắn trong quá
trình triển khai đề tài.
Tác giả xin gửi lời tri ân tới các thầy cô Khoa Pháp luật Kinh tế nói chung, các
thầy cô Khoa sau Đại học Trường Đại học Luật Hà Nội nói riêng đã trang bị cho tác


giả những kiến thức nền tảng trong suốt hai năm đào tạo. Cảm ơn Ban Giám hiệu
Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện cho các học viên trong suốt thời gian
học cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình, bạn
bè đã động viên, khích lệ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận
văn này.
Học viên
Nguyễn Thị Ngọc Anh


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu do tự bản thân
thực hiện và không sao chép các công trình nghiên cứu của cá nhân, tổ chức khác.
Các số liệu, thông tin được trích dẫn trong Luận văn có nguồn gốc rõ ràng và tuân thủ
đúng nguyên tắc trích dẫn. Kết quả trình bày trong Luận văn là trung thực và chưa
từng được ai công bố trước đây. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực
và nguyên bản của Luận văn.

Hà Nội, ngày 3 tháng 08 năm 2016
Học viên

Nguyễn Thị Ngọc Anh


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM .............................. 6
1.1. Khái quát về thương mại điện tử ................................................................... 6
1.1.1.


Quá trình hình thành thương mại điện tử ......................................... 6

1.1.2.

Khái niệm Thương mại điện tử ......................................................... 7

1.2. Đặc điểm và vai trò của thương mại điện tử ................................................ 9
1.2.1.

Đặc điểm của thương mại điện tử..................................................... 9

1.2.2.

Vai trò của Thương mại điện tử...................................................... 11

1.3. Khái quát về pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam ............................ 14
1.3.1.

Khái niệm, đặc điểm của pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam 14

1.3.2.

Hệ thống pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam ................... 15

1.3.3.

Nội dung của pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam ............ 23

1.3.4.


Đánh giá sự hình thành pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
trong tương quan so với pháp luật thương mại điện tử trên thế giới26

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở
VIỆT NAM .......................................................................................................... 31
2.1. Thực trạng thực thi pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam ............ 31
2.1.1.

Tổng quan tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp
tại Việt Nam ................................................................................... 31

2.1.2.

Tình hình thực thi pháp luật thương mại điện tử của các doanh nghiệp
...................................................................................................... 32

2.1.3.

Tình hình thực thi bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại
điện tử ........................................................................................... 33

2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam ............ 36
2.2.1.

Quy định về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử36

2.2.2.

Quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong Thương mại điện tử 45


2.2.3. Quy định về các vấn đề bảo về quyền lợi người tiêu dùng trong Thương
mại điện tử ..................................................................................... 49
2.2.4.

Quy định các hành vi vi phạm trong Thương mại điện tử ............... 55

CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ TMĐT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................... 61


3.1. Yêu cầu cơ bản đối với pháp luật về thương mại điện tử Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập Quốc tế .................................................................................. 61
3.1.1.

Xu hướng phát triển thương mại điện tử của thế giới và Việt Nam . 61

3.1.2.

Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật TMĐT ở Việt Nam... 65

3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về Thương mại điện tử Việt Nam 67
3.3. Những đề xuất cụ thể nhằm nâng cao pháp luật về thương mại điện tử Việt
Nam
70
3.3.1.

Nhóm giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật ......................... 70

3.3.2.


Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện việc hoàn thiện pháp luật TMĐT75

3.3.3.

Nhóm giải pháp tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật về TMĐT 77


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thương mại điện tử (eCommerce) đã và đang phát triển mạnh mẽ,
khoảng cách giữa thế giới thực và thế giới ảo ngày càng được thu hẹp hơn. Hiện
nay những từ như Alibaba, Amazon... không có gì xa lạ đối với nhiều người
trong chúng ta đặc biệt là những người làm về công nghệ thông tin. Đó là những
điển hình về sự thành công trong lĩnh vực thương mại điện tử, về áp dụng công
nghệ thông tin vào thực tiễn cuộc sống mà cụ thể ở đây là thương mại. Các nước
trên thế giới đều đã và đang sẵn sàng nhập cuộc vào cuộc chơi của Thương mại
điện tử vì nó đem lại những nguồn lợi nhuận khổng lồ: Doanh thu bán lẻ TMĐT
của Úc trong năm 2015 đạt khoảng 19.2 tỷ USD; doanh thu bán lẻ trực tuyến
của Ấn Độ cũng đạt khoảng 14 tỷ USD năm 2015 dự đoán đến năm 2018 mức
doanh thu này sẽ đạt 55,26 tỷ USD…
Với sự phát triển của Internet, 3G và các thiết bị di động, đặc biệt là
smartphone cùng hàng ngàn thẻ ngân hàng phát hành mỗi ngày, TMĐT Việt
Nam cũng đang đứng trước thời cơ bùng nổ. Theo Cục TMĐT và Công nghệ
thông tin, (Bộ Công Thương), TMĐT đang có bước phát triển rất nhanh nhờ hệ
thống viễn thông phát triển vượt bậc với khoảng 1/3 dân số Việt Nam truy cập
Internet. Tỷ lệ website có tính năng đặt hàng trực tuyến là 58%, trong đó tỷ lệ
website có tính năng thanh toán trực tuyến là 15%. Sự phổ cập của Internet, 3G

và các thiết bị di động đã chắp thêm sức mạnh cho TMĐT ở Việt Nam.
Do hoạt động TMĐT xuất hiện và phát triển khá sớm nên pháp luật về
TMĐT chung của quốc tế và một số nước trên thế giới cũng xuất hiện tương đối
sớm như: Luật mẫu về Thương mại điện tử của Liên hiệp quốc năm 1996; hay
Luật Thương mại điện tử thống nhất của Canada 1999; Luật Thương mại điện
tử của Ấn Độ năm 1998… tạo khung pháp lý cho các hoạt động TMĐT. So với
pháp luật thế giới về TMĐT thì pháp luật TMĐT ở Việt Nam ra đời muộn hơn.
Tháng 10-2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 58-CT/TW về việc đẩy
mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó yêu cầu tập trung phát triển các dịch vụ điện
tử trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại. Tháng 4-2001, tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, thương mại điện tử đã được nhắc tới như một yếu tố thị
trường quan trọng cần phát triển nhằm hỗ trợ các ngành thương mại, dịch vụ
khác, thể hiện trong văn kiện về định hướng phát triển kinh tế, xác định tư
tưởng chỉ đạo của Đảng đối với thương mại điện tử. Ngày 15-9-2005, Thủ
tướng Chính phủ đã ký “Quyết định phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển
thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010” đồng thời Luật Giao dịch điện tử
được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005. Đây được coi


2

là văn bản pháp lý chính thức đầu tiên có điều chỉnh trong lĩnh vực TMĐT. Tiếp
đó lần lượt đến các văn bản quan trọng trực tiếp điều chỉnh lĩnh vực TMĐT
như: Nghị định 57/2006/NĐ-CP về Thương mại điện tử hiện nay được thay thế
bởi Nghị định 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử,… Mặc dù các quy định
cơ bản của Luật giao dịch điện tử và pháp luật TMĐT của Việt Nam tương đối
tương đồng với các Luật mẫu của UNCITRAL. Tuy nhiên, do lĩnh vực TMĐT
bao trùm khá rộng, vì vậy thực tế quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực
này còn tản mạn, tạo thành một hệ thống văn bản “đồ sộ” khi áp dụng. Bên cạnh

đó, Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập sâu và rộng với thế giới (Việt Nam
đã là thành viên của một loạt những tổ chức kinh tế lớn như Apec, WTO, mới
đây nhất là TPP), do đó, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về
TMĐT nói riêng để phù hợp với sự phát triển của hệ thống pháp luật thế giới là
yêu cầu hết sức cấp thiết.
Tuy nhiên, do TMĐT còn khá mới, pháp luật về TMĐT còn chưa được
phổ biến rộng rãi, chính vì vậy cần có những nghiên cứu cụ thể về pháp luật
TMĐT ở Việt Nam cũng như phương hướng hoàn thiện để pháp luật về TMĐT
Việt Nam có thể phù hợp với thực tế phát triển TMĐT ở Việt Nam đồng thời
cũng bắt kịp với pháp luật thế giới về lĩnh vực này. Chính vì các lí do trên, tác
giả lựa chọn đề tài cho luận văn là: “Pháp luật về thương mại điện tử ở Việt
Nam trong xu thế hội nhập quốc tế” để hi vọng góp một phần những ý kiến cá
nhân cũng như những tìm hiểu của bản thân vào hệ thống các công trình nghiên
cứu về vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù TMĐT đã manh nha hình thành ở Việt Nam gần 20 năm và pháp
luật về TMĐT Việt Nam cũng ra đời được hơn 10 năm song những nghiên cứu
sâu về tổng thể pháp luật TMĐT chưa nhiều mà chỉ tập trung ở một số khía
cạnh nhất định của TMĐT như: Giao kết hợp đồng; Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng; Chữ ký điện tử… Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu như:
-

Phí Mạnh Cường (2006), Một số vấn đề pháp lý về chữ ký điện tử trong
thương mại điện tử, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.

-

Nguyễn Đức Anh (2009), Một số vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng
trên website thương mại điện tử sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến,

Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.

-

Phạm Thị Mơ (2010), Một số vấn đề pháp lý cơ bản về hợp đồng thương
mại điện tử có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, Khoá luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.


3

-

Nguyễn Mạnh Dũng (2011), Rủi ro trong giao kết và thực hiện hợp đồng
thương mại điện tử - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Khoá luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.

-

Hoàng Thu Trang (2012), Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong thương mại điện tử, Khoá luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Luật Hà Nội.

-

Nguyễn Thị Hòa (2012), Chế tài pháp lý đối với hành vi vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử, Tạp chí Toà án nhân dân
số 4/2012.

-


Phí Mạnh Cường (2008), Một số vấn đề pháp lý về chữ kí điện tử ở Việt
Nam, Tạp chí Luật học số 8/2008.

Những nghiên cứu trên đã đi sâu hơn vào một hoặc một vài vấn đề của
TMĐT chứ chưa đưa ra được một bức tranh tổng thể về TMĐT. Những nghiên
cứu tổng quát về thương mại điện tử có tính sâu và rộng nổi bật như:
-

Vũ Hải Anh (1999), Một số khía cạnh pháp lý về thương mại điện tử,
luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

-

Dương Thị Mai Ngọc (2009), Pháp luật về thương mại điện tử ở Việt
Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.

-

Nhà pháp luật Việt - Pháp (2002), Pháp luật về thương mại điện tử, hội
thảo khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Và mới đây nhất, tháng 5/2016, Nhà xuất bản Tư pháp có cho ra đời
cuốn sách “Hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay”
của tác giả Tào Thị Quyên và Lương Tuấn Nghĩa.
Ngoài các công trình nghiên cứu, tác phẩm kể trên thì hàng năm Cục
Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin của Bộ Công Thương cũng đưa ra
các Báo cáo chung về tình hình TMĐT cả năm tại Việt Nam, đây cũng là một
trong những tài liệu đáng tin cậy và góp phần làm cơ sở cho các nghiên cứu

hoàn thiện pháp luật TMĐT.
Như vậy, có thể thấy, giới hành nghề luật đã có sự quan tâm nhất định
đến pháp luật TMĐT nhưng chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu của việc hoàn
thiện pháp luật về lĩnh vực này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài


4

Luận văn đưa ra các nghiên cứu nhằm đánh giá những vấn đề cơ bản
nhất của pháp luật TMĐT so với thế giới hướng đến đưa ra được các biện pháp
hoàn thiện pháp luật TMĐT Việt Nam trong hoàn cảnh Việt Nam đang hội nhập
sâu và rộng với thế giới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ
cụ thể như:
-

Phân tích được khái niệm, đặc điểm của pháp luật về TMĐT;

-

Phân tích và đánh giá những nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về
TMĐT trong tương quan so với pháp luật thế giới;

-

Tìm hiểu được những xu hướng của pháp luật TMĐT thế giới;

-


Nêu rõ được các phương hướng hoàn thiện pháp luật về TMĐT ở Việt
Nam căn cứ vào những hạn chế của pháp luật đã nêu ở các phần khác
trong luận văn.

4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Vì đây là một đề tài nghiên cứu tổng quát cả hệ thống pháp luật về
TMĐT ở Việt Nam do đó không thể đi sâu và cụ thể tất cả các khía cạnh của
pháp luật TMĐT ở Việt Nam mà chỉ đưa ra và đánh giá những vấn đề cốt lõi
của TMĐT cũng như giới hạn chủ yếu ở các quy định của các văn bản Luật,
Nghị định quy định chính về TMĐT như Luật Giao dịch điện tử 2005, Nghị
định 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử và tập trung nhiều hơn vào các
giao dịch TMĐT liên quan đến các sàn giao dịch điện tử thay vì bao quát tất cả
các giao dịch có sử dụng phương tiện điện tử. Bên cạnh đó, luận văn cũng đưa
ra những so sánh nhất định của pháp luật TMĐT Việt Nam với thế giới đối với
một số những vấn đề nổi bật cần chú ý.
Bên cạnh đó, luận văn không đề cập quá nhiều đến thực tế của TMĐT
cũng như các hình thức cụ thể của nó vì muốn tập trung chủ yếu về phân tích và
đánh giá pháp luật liên quan đến lĩnh vực này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, luận văn đã sử
dụng phương pháp luận nền tảng cho hoạt động nghiên cứu này là phương pháp
luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac-Lenin tức là dựa trên những sự vật,
hiện tượng thực tế không dựa trên các suy đoán thiếu căn cứ, mơ hồ. Đồng thời
kết hợp với quan điểm đường lối của Đảng về phát triển kinh tế, nâng cao pháp
luật về giao dịch điện tử nói chung và giao dịch trên website thương mại điện tử
nói riêng trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.


5


Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau:
-

Phương pháp phân tích, so sánh: Phương pháp này được sử dụng chủ
yếu ở Chương II của luận văn khi đánh giá các quy định của pháp luật
TMĐT Việt Nam trong tương quan so với thế giới.

-

Phương pháp quy nạp: Tức là đưa ra phân tích, căn cứ và kết luận.
Phương pháp này được sử dụng nhiều ở Chương I đặc biệt trong các
phần đưa ra định nghĩa về TMĐT và pháp luật về TMĐT.

-

Phương pháp diễn dịch: Tức là đưa ra kết luận và giải thích, làm rõ kết
luận đó. Phương pháp này được sử dụng nhiều ở Chương III luận văn khi
tác giả đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về TMĐT.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp như thu thập, tổng
hợp và phân tích số liệu, phương pháp liệt kê… phù hợp với từng nội dung cụ
thể của luận văn.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thương mại điện tử và pháp luật về thương
mại điện tử ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam.
Chương 3: Đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về

TMĐT ở Việt Nam hiện nay


6

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát về thương mại điện tử
1.1.1. Quá trình hình thành thương mại điện tử
Thương mại điện tử không phải là sản phẩm của xã hội hiện đại như
nhiều người nhầm tưởng, mà từ hàng trăm năm trước, thương mại điện tử đã
manh nha hình thành và được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Năm 1910, hình thức tập hợp các đơn hàng hoa đặt mua từ ngoại thành
của 15 người bán hoa ở Đức (tổ hợp Điện báo Giao nhận của những người bán
hoa nói trên, ngày nay là công ty FTD Inc.), có thể đã là mạng thương mại điện
tử thực sự đầu tiên.
Tiếp sau đó, từ những công ty vận chuyển của Mỹ đến hàng loạt các
công ty lớn trong ngành công nghiệp ô tô như Ford Motor và Tập đoàn ô tô
General Motor cũng đã áp dụng việc trao đổi dữ liệu điện tử trong hoạt động
kinh doanh của mình. Và năm 1995 được coi là mốc phát triển của Thương mại
điện tử trên thế giới khi hai “ông lớn” Amazon.com và eBay.com cùng được
thành lập và tồn tại vững mạnh như một biểu tưởng của TMĐT cho đến nay.1
Đối với Việt Nam, khái niệm TMĐT còn rất mới và chỉ thật sự tạo thành
một xu hướng vào giai đoạn đầu những năm 1998-2000, khi mà bắt đầu có sự
xuất hiện của hệ thống mạng internet, nhưng lại được chấp nhận đầu tiên từ khi
vực kinh doanh các trò chơi giải trí chứ không phải xuất phát từ khu vực các
ngành công nghiệp, là nơi sản sinh ra hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử
(Electronic Data Interexchange – EDI). Nhắc lại sự xuất hiện lần đầu của trò
chơi trực tuyến MU (Game Online – GO) đã tạo ra một làn sóng lôi cuốn tầng
lớp thanh thiếu niên với mục đích ban đầu là giải trí đơn thuần, nhưng nhanh

chóng mở ra một khó khăn mới cho giới làm luật về việc xác định và giải quyết
các vấn đề phát sinh từ “quyền sở hữu tài sản ảo”.
Đến đầu năm 2000, khi mà internet trở thành một phần không thể thiếu
trong sinh hoạt của giới trẻ cũng là lúc hàng loạt các trung tâm dạy nghề giới
thiệu các khóa học về TMĐT. Cho đến năm 2003 Bộ thương mại mới công bố
bản báo cáo thương mại điện tử Việt Nam đầu tiên. Báo cáo này khẳng định cho
đến năm 2003 “chúng ta mới bắt đầu đi những bước đầu tiên trên con đường tơ
lụa mới”.2

1

Nguyễn Phụng Dương (2014), Hoàn thiện pháp luật nhằm phát triển thương mại điện tử ở nước ta,
luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr15.
2

Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2008), Pháp luật về TMĐT ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa
học, tr 5.


7

Và, kể từ đó đến nay, TMĐT Việt Nam đang có bước phát triển rất
nhanh nhờ hệ thống viễn thông phát triển vượt bậc với khoảng 1/3 dân số Việt
Nam truy cập Internet. Tỷ lệ website có tính năng đặt hàng trực tuyến là 58%,
trong đó tỷ lệ website có tính năng thanh toán trực tuyến là 15%.
Cũng theo kết quả điều tra khảo sát năm 2014 của Cục TMĐT và Công
nghệ thông tin, giá trị mua hàng trực tuyến của một người trong năm ước tính
đạt khoảng 145 USD và doanh số thu từ TMĐT B2C đạt khoảng 2,97 tỷ USD,
chiếm 2,12% tổng mức bán lẻ hàng hóa cả nước. Sản phẩm được lựa chọn tập
trung vào các mặt hàng như đồ công nghệ và điện tử (60%), thời trang, mỹ

phẩm (60%), đồ gia dụng (34%), sách, văn phòng phẩm (31%) và một số các
mặt hàng khác. Tại Việt Nam, phần lớn người mua sắm sau khi đặt hàng trực
tuyến vẫn lựa chọn hình thức thanh toán tiền mặt (64%), hình thức thanh toán
qua ví điện tử chiếm 37%, và hình thức thanh toán qua ngân hàng chiếm 14%.3
Sự phổ cập của Internet, 3G và các thiết bị di động đã chắp thêm sức
mạnh cho TMĐT cất cánh. Google đã trở thành thành viên của Hiệp hội TMĐT
Việt Nam và không giấu diếm kỳ vọng thu được 30 triệu USD mỗi năm từ thị
trường này. Alibaba và eBay cũng đã nhanh chân tìm được đại diện chính thức,
trong khi Amazon và Rakuten đang tiến tới việc thiết lập quan hệ đối tác hoặc
mua cổ phần tại các hãng TMĐT Việt Nam. Một số DN Thái Lan, Hàn Quốc
cũng đang tìm đường đầu tư, có thể thông qua một DN khác hoặc tự thực hiện
Trong nước, mặc dù chưa có tên tuổi nào nổi bật hẳn lên nhưng số lượng
các công ty tham gia lĩnh vực này đã thực sự lớn mạnh với một số tên tuổi có
thể kể đến như VCCorp, Chợ Điện Tử (Peacesoft), Mekongcom, Vingroup…
1.1.2. Khái niệm Thương mại điện tử
Thương mại điện tử được biết nhiều đến với tên gọi là Electronic
commerce (viết tắt là “e-commerce” ngoài ra còn được biết đến với một số thuật
ngữ như: Thương mại trực tuyến (online trade), thương mại phi giấy tờ
(paperless commerce), kinh doanh điện tử (electronic business)…
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về thương mại điện tử trên thế giới, có thể
chia khái niệm về TMĐT theo hai hướng: TMĐT theo nghĩa rộng và TMĐT
theo nghĩa hẹp:
- TMĐT theo nghĩa rộng:
Thương mại điện tử theo nghĩa rộng nhất có thể được hiểu là toàn bộ các
giao dịch mang tính thương mại được các bên tham gia thực hiện thông qua các
phương tiện điện tử như điện thoại, telex, hệ thống thanh toán và chuyển tiền
điện tử cho tới các máy tính kết nối với nhau trong một mạng lưới như Internet.
3

/>


8

Theo Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử năm 1996 thì
TMĐT là việc sử dụng “thông tin dưới dạng một thông điệp dữ liệu trong khuôn
khổ các hoạt động thương mại” còn “Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo
ra, gửi đi tiếp nhận hoặc lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học và các
phương tiện tương tự, bao gồm, nhưng không hạn chế ở, trao đổi dữ liệu điện tử
(EDI), thư điện tử, điện tín, điện báo hoặc fax”. Đồng thời, thương mại trong
khái niệm TMĐT của Luật này được hiểu là mọi vấn đề phát sinh từ các mối
quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng, đó là một
phạm vi rất rộng, bao quát hầu như mọi hình thức của hoạt động kinh tế chứ
không chỉ dừng lại mua bán hàng hóa, dịch vụ thông thường.
Theo Ủy ban châu Âu: "Thương mại điện tử có thể định nghĩa chung là
sự mua bán, trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa các doanh nghiệp, gia đình, cá
nhân, tổ chức tư nhân bằng các giao dịch điện tử thông qua mạng Internet hay
các mạng máy tính trung gian (thông tin liên lạc trực tuyến). Thuật ngữ bao
gồm việc đặt hàng và dịch thông qua mạng máy tính, nhưng thanh toán và quá
trình vận chuyển hàng hay dịch vụ cuối cùng có thể thực hiện trực tuyến hoặc
bằng phương pháp thủ công."
Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì TMĐT không chỉ giới hạn trên
Internet mà nó bao gồm một loạt các ứng dụng khác nhau như videotext, môi
trường ngoài mạng (catolo bán hàng trên đĩa CD-ROM) cũng như là các mạng
lưới riêng của các công ty (đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng). Tuy nhiên, với
lợi thế của mình, Internet sẽ là tác nhân chủ yếu để kết nối các hình thức khác
của TMĐT và thúc đẩy TMĐT phát triển.
- TMĐT theo nghĩa hẹp
Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các hoạt động thương
mại được thực hiện thông qua mạng Internet. Tổ chức Thương mại thế giới và
Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương đã đưa ra khái niệm TMĐT

theo hướng này.
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "Thương mại điện tử bao
gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán
và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả
các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng
Internet".
Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) định nghĩa: "Thương mại điện tử liên quan đến các
giao dịch thương mại trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nhóm (cá nhân)
mang tính điện tử chủ yếu thông qua các hệ thống có nền tảng dựa trên
Internet." Các kỹ thuật thông tin liên lạc có thể là email, EDI, Internet và
Extranet có thể được dùng để hỗ trợ thương mại điện tử.


9

Như vậy, có thể thấy rằng, nhìn chung lại có hai cách hiểu về thương mại
điện tử là hiểu theo nghĩa hẹp và hiểu theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp thì
TMĐT chỉ được hiểu là việc sử dụng Internet trong các giao dịch thương mại.
Theo nghĩa rộng thì TMĐT được hiểu là bất cứ hành vi thương mại nào được
tiến hành nhờ việc sử dụng thông tin dữ liệu.
Quan điểm của pháp luật Việt Nam tương đối tương đồng với quy định
của luật Mẫu UNCITRAL về thương mại điện tử và được hiểu theo nghĩa rộng.
Cụ thể, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chỉ đưa ra khái niệm về giao dịch điện
tử, theo đó giao dịch điện tử là “giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện
tử” (Khoản 4 Điều 6), và phương tiện được tử được hiểu là “phương tiện hoạt
động trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây,
quang học, điện tử hoặc công nghệ tương tự” (Khoản 4 Điều 10).
Tiếp đó, Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 16/5/2013 về Thương mại điện tử có đưa ra định nghĩa về hoạt động
thương mại điện tử như sau: “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành

một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện
điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng
mở khác”.
Do đó, từ các cách hiểu trên, có thể đưa ra định nghĩa về thương mại điện
tử như sau: “Thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hay toàn bộ hoạt
động thương mại bằng những phương tiện điện tử có kết nối với mạng internet,
mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”.
1.2. Đặc điểm và vai trò của thương mại điện tử
1.2.1. Đặc điểm của thương mại điện tử
So với các hình thức thương mại khác, thương mại điện tử có những đặc
điểm sau:
-

Thứ nhất, các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không

cần phải tiếp xúc với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống, các bên phải gặp nhau trực tiếp để tiến
hành giao dịch. Và nơi diễn ra các giao dịch theo kiểu truyền thống này thường
là chợ: từ các chợ truyền thống đến các cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương
mại. Các đối tác kinh doanh tham gia giao dịch thường phải gặp gỡ nhau và tiếp
xúc với nhau để tìm hiểu về thông tin, khảo hàng, thương lượng…, thậm chí họ
còn là những người đã quen biết nhau từ trước. Các giao dịch được thực hiện
chủ yếu theo “nguyên tắc vật lý” như chuyển tiền, séc, hóa đơn, vận đơn, gửi
báo cáo. Sự ra đời của các phương tiện viễn thông như fax, telex… đã làm giảm
thiểu được những cuộc tiếp xúc đôi khi không cần thiết và gây lãng phí giữa các
đối tác kinh doanh.


10


Từ khi xuất hiện mạng máy tính mở toàn cầu Internet thì việc trao đổi
thông tin đã được mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lượng
người tham gia ngày càng tăng. Những người tham gia có thể là cá nhân hoặc
doanh nghiệp, có thể đã biết nhau hoặc hoàn toàn chưa biết nhau. Họ gặp gỡ và
giao dịch với nhau trên “môi trường điện tử”.
- Thứ hai, trong thương mại điện tử, khái niệm biên giới quốc gia bị xóa
mờ.
Có thể nói khái niệm “biên giới” là một cản trở lớn đối với thương mại
truyền thống, đề cập tới khái niệm này, người ta thường hay nghĩ đến sự gia
tăng của chi phí giao dịch, những rào cản thuế quan – những điều có thể cản trở
một doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trên thị trường
nước ngoài. Thương mại điện tử ra đời đã trực tiếp tác động tới môi trường cạnh
tranh toàn cầu. TMĐT được thực hiện ở phạm vi quốc tế, các bên thực hiện việc
trao đổi thông tin qua mạng máy tính toàn cầu. Và thương mại điện tử phát triển
càng nhanh thì máy tính và mạng Internet càng trở thành một công cụ hữu dụng
cho doanh nghiệp hướng ra thị trường thế giới. Không chỉ có các công ty hàng
đầu thế giới mới có thể tiếp cận được các thị trường lớn hoặc thị trường mới mà
ngay cả một công ty vừa mới bắt đầu công việc kinh doanh cũng có thể tiếp cận
được các thị trường này mà không mất chi phí tốn kém như thương mại truyền
thống. Tuy nhiên, điều này cũng sẽ gây khó khăn trong việc xác định được địa
điểm kinh doanh của các thương nhân dẫn đến không đánh giá chính xác được
năng lực của đối tác tham gia với mình.
- Thứ ba, mạng lưới thông tin chính là thị trường của thương mại điện tử
Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương
tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin
chính là thị trường. Thông qua thương mại điện tử, nhiều loại hình kinh doanh
mới được hình thành. Ví dụ: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính
hình thành nên các nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới cho giới kinh
doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và
dịch vụ trên mạng máy tính. Các trang web tìm kiếm hoặc mạng xã hội khá nổi

tiếng như Google, Facebook, Instagram… đóng vai trò quan trọng cung cấp
thông tin trên mạng. Các trang Web này đã trở thành các “khu chợ” khổng lồ
trên Internet. Với mỗi lần nhấn chuột, khách hàng có khả năng truy cập vào
hàng ngàn cửa hàng “ảo” khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng
là rất cao. Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số các loại hàng trước
đây được coi là khó bán trên mạng. Nhiều người sẵn sàng trả thêm một chút tiền
còn hơn là phải đi tới tận cửa hàng. Một số công ty đã mời khách may đo quần
áo trên mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa
hàng (qua Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo
đúng yêu cầu của mình. Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng có


11

rất nhiều người hưởng ứng. Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang
đua nhau đưa thông tin lên Web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn
trên Web.
Như vậy, thực tế trong thương mại điện tử, bản chất của thông tin không
thay đổi. Thương mại điện tử chỉ biến đổi cách thức khởi tạo, trao đổi, xử lý
thông tin… mà không thay đổi bản chất của hoạt động thương mại.
- Thứ tư, quan hệ thương mại điện tử có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể.
Trong thương mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia giao dịch giống
như trong thương mại truyền thống (người bán, người mua) đã xuất hiện thêm
một bên thứ ba, đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực. Đây
là những người tạo môi trường cho các giao dịch thương mại điện tử. Các chủ
thể này có nhiệm vụ chuyển, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao
dịch thương mại điện tử, hoặc xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao
dịch thương mại điện tử.
- Thứ năm, thương mại điện tử có tính rủi ro cao hơn thương mại truyền
thống.

Điều này xuất phát từ đặc tính của thương mại điện tử hoạt động một
phần hoặc toàn bộ trên một môi trường “ảo”. Điều này sẽ rất khó khăn trong
việc xác định những yếu tố liên quan đến giao dịch như chất lượng hàng hóa,
vấn đề thanh toán và giao nhận vì bản thân người mua nếu thực hiện việc mua
bán trực tiếp trên các sàn giao dịch thương mại điện tử thì chỉ được nhìn hình
ảnh của các sản phẩm trên mạng mà không được kiểm chứng chính xác được
chất lượng của sản phẩm hoặc chất lượng của dịch vụ.
1.2.2.
Vai trò của Thương mại điện tử
- Đối với Doanh nghiệp.
 Mở rộng thị trường: Với việc có thể liên kế với toàn cầu một cách nhanh
chóng, các doanh nghiệp sử dụng thương mại điện tử có thể mở rộng thị trường,
tìm kiếm, tiếp cận nhà cung cấp, khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc
mở rộng mạng lưới nhà cung cấp, khách hàng cũng cho phép các tổ chức có thể
mua với giá thấp hơn và bán được nhiều sản phẩm hơn.
 Giảm chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị: Trong thương mại điện tử, một
nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với nhiều khách hàng. Giảm chi phí
giấy tờ, giảm chi phí chia sẻ thông tin, chi phí in ấn, gửi văn bản truyền thống.
Daimler Chrysler – một hãng sản xuất ô tô nổi tiếng đã thử nghiệm mời thầu
thiết bị tại một số nhà máy của hãng thông qua giao dịch bằng internet và kết
quả thu được là quá trình chọn thầu trên mạng được thực hiện trong vòng 30
phút, mà thông thường, gửi fax qua lại sẽ mất tới 1, 2 hoặc thậm chí 3 tuần đồng
thời đã giảm được 17% chi phí so với cách giao dịch thông thường như: dùng


12

điện thoại, các thoả thuận viết tay, gửi fax qua lại trong quá trình chọn thầu
cung cấp.4
 Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong

phân phối hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ
trợ bởi các showroom trên mạng, ví dụ ngành sản xuất ô tô (như Ford Motor)
tiết kiệm được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưu kho.
 Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua
Web và Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không
mất thêm nhiều chi phí biến đổi.
 Sản xuất hàng theo yêu cầu: Còn được biết đến dưới tên gọi “Chiến lược
kéo”, lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu
cầu của khách hàng. Một ví dụ thành công điển hình là Dell Computer Corp.
 Mô hình kinh doanh mới: Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế
và giá trị mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon. com, mua hàng theo nhóm
hay đấu giá nông sản qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của
những thành công này.
 Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả
năng phối hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời
gian tung sản phẩm ra thị trường.
 Giảm chi phí thông tin liên lạc: Thay vì dùng điện thoại, thư tín, chúng ta
có thể tiết kiệm được một khoảng chi phí vì sử dụng thương mại điện tử.
 Giảm chi phí mua sắm: Thông qua giảm các chi phí quản lý hành chính
(80%); giảm giá mua hàng (5-15%).
 Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua
mạng, quan hệ với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng
thời việc cá biệt hóa sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với
khách hàng và củng cố lòng trung thành.
 Thông tin cập nhật: Mọi thông tin trên web như sản phẩm, dịch vụ, giá
cả... đều có thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời.
 Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp; cải thiện chất
lượng dịch vụ khách hàng; đối tác kinh doanh mới; đơn giản hóa và chuẩn hóa
các quy trình giao dịch; tăng khả năng tiếp cận thông tin; tăng sự linh hoạt trong
giao dịch và hoạt động kinh doanh.

4

/>

13

-

Lợi ích đối với người tiêu dùng.

 Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ: Thương mại điện tử cho phép
người mua có nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn.
Thêm vào đó, sự lựa chọn sản phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp cung ứng của
khách hàng cũng không bị bó hẹp trong một phạm vi địa lý nhất định mà được
mở rộng sang phạm vi quốc tế.
 Giá thường thấp hơn so với giá mua trực tiếp tại cửa hàng: Do thông tin
thuận tiện, dễ dàng và phong phú hơn nên khách hàng có thể so sánh giá cả giữa
các nhà cung cấp thuận tiện hơn và từ đó tìm được mức giá phù hợp nhất. Bên
cạnh đó, thực tế phần lớn giá của sản phẩm, dịch vụ được giao dịch trên các sàn
giao dịch thương mại điện tử thường thấp hơn so với bán trực tiếp tại các cửa
hàng, showroom.
 Tiết kiệm chi phí mua hàng: Trong thương mại truyền thống, để mua
được sản phẩm và dịch vụ mong muốn, đôi khi khách hàng phải bỏ ra rất nhiều
khoản chi phí, ví dụ: Chi phí để tìm kiếm thông tin về sản phẩm dịch vụ, chi phí
đi lại, khảo hàng, chi phí vận chuyển,… Thế nhưng với thương mại điện tử
những chi phí này được giảm bớt đi cho khách hàng vì có thể tra cứu trực tiếp
tại nhà.
 Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được: Đối với các sản
phẩm số hóa được như phim, nhạc, sách, phần mềm, ... . việc giao hàng được
thực hiện dễ dàng thông qua Internet.

 Thông tin phong phú, thuận tiện: Khách hàng có thể dễ dàng tìm được
thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm kiếm (search
engines); các thông tin đa phương tiện (âm thanh, hình ảnh).
 Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có
thể tham gia mua và bán trên các sàn đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu tầm
những món hàng mình quan tâm tại mọi nơi trên thế giới.
- Lợi ích đối với xã hội.
 Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm việc,
mua sắm, giao dịch từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm.
 Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp tạo áp lực giảm
giá do đó khả năng mua sắm của khách hàng cao hơn, nâng cao mức sống của
mọi người.
 Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các
sản phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet và thương mại


14

điện tử. Đồng thời cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng được đào tạo
qua mạng.
 Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng như
y tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ, ... được thực hiện qua mạng với
chi phí thấp hơn, thuận tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, tư vấn y tế,
... . là các ví dụ thành công điển hình.
1.3.

Khái quát về pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam

1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin: “Pháp luật là hệ thống các

nguyên tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ
thể.”5
Bên cạnh đó, pháp luật còn được hiểu là tập hợp của hệ thống các quy
phạm pháp luật được hiểu là các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đạt được
những mục đích nhất định.6
Trên cơ sở đó, pháp luật thương mại điện tử có thể hiểu là: “hệ thống các
quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện để điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động thương mại bằng những phương
tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các
mạng mở khác.”
Về cơ bản, xét về mặt bản chất, thương mại điện tử cũng giống thương
mại truyền thống, nó chỉ khác nhau về cách thức thực hiện. Vì vậy, pháp luật
điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử cũng mang những đặc điểm như pháp
luật về thương mại truyền thống.
Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động thương mại điện tử nên pháp luật
thương mại điện tử cũng có những đặc điểm nhất định:
Thứ nhất, pháp luật thương mại điện tử ngoài bao gồm pháp luật điều
chỉnh chung của thương mại truyền thống còn bao gồm pháp luật đặc thù dành
riêng cho các giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, thương mại điện tử gắn liền với
các phương tiện điện tử vì vậy pháp luật về TMĐT sẽ đề cập và đi sâu vào các
quy định mà Bộ luật Dân sự hiện hành hay Luật Thương mại mới đề cập ở mức
độ chung nhất như: quy định về thông điệp dữ liệu; quy định về trao đổi dữ liệu
điện tử; quy định về chữ ký điện tử; …
5
6

Đại học Luật Hà Nội, giáo trình “Lý luận nhà nước và pháp luật”, 2010, NXB Công an nhân dân, tr98.


Đại học Luật Hà Nội, giáo trình “Lý luận nhà nước và pháp luật”, 2010, NXB Công an nhân dân, tr
128.


15

Thứ hai, pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử gắn liền với
pháp luật về khoa học công nghệ. Có thể thấy các quy phạm điều chỉnh hoạt
động thương mại điện tử có rất nhiều quy định về kỹ thuật của công nghệ thông
tin như chữ kí điện tử, thông điệp dữ liệu, môi trường mạng,… Đây là những
quy định không thể thiếu của pháp luật thương mại điện tử, bởi lẽ, nó tạo một
khung pháp lý an toàn, điều chỉnh các nền tảng, các bộ phần cơ sở, cấu thành và
tạo nên thương mại điện tử.
Thứ ba, pháp luật thương mại điện tử có những nguyên tắc riêng nhất
định ngoài các nguyên tắc chung của thương mại truyền thống, bao gồm:
- Nguyên tắc tự nguyện lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện
giao dịch;
- Nguyên tắc tự thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện
giao dịch;
- Nguyên tắc không một loại công nghệ nào được xem là duy nhất trong
giao dịch điện tử.
Thứ tư, pháp luật thương mại điện tử có tính quốc tế hóa nhanh chóng.
Trong xu thế toàn cầu hóa thì hầu hết các ngành kinh tế đều theo xu hướng này,
tuy nhiên do đặc tính “phi biên giới” của thương mại điện tử khiến cho pháp
luật về thương mại điện tử cũng mang tính hội nhập và quốc tế cao hơn so với
pháp luật của các lĩnh vực khác. Ví như, Luật Giao dịch điện tử 2005 của Việt
Nam được soạn thảo và xây dựng dựa trên chuẩn mực của Luật mẫu về thương
mại điện tử của Ủy ban Liên hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế và có tính
tương đồng tương đối cao so với pháp luật quốc tế. Ngoài ra, các điều ước quốc
tế, các hiệp định mà Việt Nam tham gia cũng đều có các quy định về thương

mại điện tử, có thể kể đến như: Hiệp định khung e-ASEAN; Hiệp định đối tác
kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP)…
Thứ năm, pháp luật về TMĐT được thực thi chủ yếu trên môi trường
mạng. Để điều chỉnh các hoạt động thương mại điện tử, các quy định của pháp
luật về TMĐT cũng được xây dựng phù hợp với các đặc điểm của loại hình này.
Ví dụ như các quy định về hành vi giao kết; hành vi trưng bày, quảng cáo trực
tuyến; quy định thanh toán; quản lý; thu thập chứng cứ điện tử…
Như vậy, có thể kết luận rằng, pháp luật thương mại điện tử là một bộ
phận của pháp luật thương mại truyền thống đồng thời nó cũng có những quy
định riêng gắn liền với các phương tiện điện tử mà các hoạt động thương mại
điện tử thực hiện.
1.3.2. Hệ thống pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực xây dựng khung pháp
lý cho hoạt động thương mại điện tử. Cùng với hệ thống pháp luật chung, các
văn bản pháp luật liên quan đến thương mại điện tử cũng bước đầu được hình


16

thành và dần hoàn thiện. Cũng giống như đa phần các ngành luật khác, hệ thống
pháp luật điều chỉnh hoạt động TMĐT ở Việt Nam cũng bao gồm các bộ phận
cấu thành cơ bản: Pháp luật quốc gia; Pháp luật quốc tế, cụ thể, hệ thống pháp
luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam như sau:
1.3.2.1.
Hệ thống pháp luật quốc gia
- Các Văn bản pháp luật quy định chung về thương mại điện tử:
 Bộ luật Dân sự
Bộ luật Dân sự vốn được coi là đạo luật gốc điều chỉnh mọi quan hệ dân
sự phát sinh trong đó có hoạt động thương mại và thương mại điện tử.
 Luật Thương mại

Luật Thương mại (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/01/2006 là văn bản pháp lý làm
nền tảng cho các hoạt động thương mại, trong đó có thương mại điện tử.
- Các văn bản trực tiếp quy định và điều chỉnh hoạt động thương mại điện
tử ở Việt Nam
 Luật Giao dịch điện tử
Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/03/2006. Luật gồm 8 chương, 54 điều
quy định về thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử,
giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước,
an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử, giải quyết tranh chấp
và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử. Phạm vi điều chỉnh chủ yếu của Luật
là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực
dân sự, kinh doanh, thương mại.
 Nghị định về thương mại điện tử
Nghị định đầu tiên về thương mại điện tử là Nghị định số 57/2006/NĐCP của Chính phủ ngày 09/6/2006 hiện nay đã được thay thế bằng Nghị định số
52/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử. Đây
được coi là văn bản quy định rõ ràng và chi tiết nhất về hoạt động thương mại
điện tử trên thực tế diễn ra ở Việt Nam.
 Nghị định về Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch
điện tử về Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số được ban hành ngày
15/2/2007. Nghị định này quy định về chữ ký số và các nội dung cần thiết liên
quan đến sử dụng chữ ký số, bao gồm chứng thư số và việc quản lý, cung cấp và
sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số. Đây là những quy định nền tảng để thiết
lập một cơ chế đảm bảo an ninh an toàn cũng như độ tin cậy của các giao dịch
điện tử, thúc đẩy thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ hơn.
 Nghị định về Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính



17

Ngày 23/2/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2007/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính. Nghị
định này ra đời nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết để hình thành và phát
triển một môi trường giao dịch điện tử an toàn, hiệu quả, giúp Chính phủ quản
lý được giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ tài chính, giảm thiểu hậu
quả xấu phát sinh trong giao dịch điện tử như trốn thuế, gian lận khi lập hóa đơn
chứng từ, v.v…, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình cải cách của
ngành tài chính trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin.
 Nghị định về Giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng
Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 về Giao dịch điện tử trong
hoạt động ngân hàng là nghị định thứ ba liên tiếp được ban hành trong năm
2007 nhằm hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử. Nghị định này tập trung hướng
dẫn việc áp dụng Luật Giao dịch điện tử cho các hoạt động ngân hàng cụ thể,
bảo đảm những điều kiện cần thiết về môi trường pháp lý để củng cố, phát triển
các giao dịch điện tử an toàn và hiệu quả đối với hệ thống ngân hàng.
 Nghị định về Ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước
Ngày 10/4/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về
Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Đây là
văn bản hướng dẫn đồng thời Luật Giao dịch điện tử 2005 và Luật Công nghệ
Thông tin 2006 với phạm vi rất rộng, bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng công
nghệ thông tin, đầu tư cho ứng dụng CNTT và hoạt động của cơ quan nhà nước
trên môi trường mạng.
Đó là những văn bản rất căn bản để điều chỉnh hoạt động thương mại
điện tử ở Việt Nam. Bên cạnh những văn bản quy định chi tiết này, hệ thống
pháp luật Việt Nam còn có các văn bản có liên quan khác góp phần điều chỉnh
các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực thương mại điện tử có thể kể đến như:
 Luật Sở hữu trí tuệ
Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày

29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/07/2006 thể hiện một bước tiến trong việc
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy không
có quy định cụ thể liên quan trực tiếp đến lĩnh vực thương mại điện tử, nhưng
các nguyên tắc trong Luật Sở hữu trí tuệ có thể áp dụng đối với lĩnh vực này.
 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời năm 2010 và có hiệu lực từ
ngày 1/7/2011được coi là khung pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng. Mặc dù Luật này không quy đinh cụ thể về hành vi xảy ra trong
thương mại điện tử, tuy nhiên đã quy định khái quát các quyền của người tiêu
dùng cũng như trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh từ đó


18

làm cơ sở áp dụng cho việc bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại
điện tử.
Ngoài ra đối với thương mại điện tử trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ chịu sự
điều chỉnh của các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan. Do đó, có thể
thấy, pháp luật về thương mại điện tử là tương đối rộng.
Dưới đây là bảng tổng hợp khung pháp lý cơ bản trong lĩnh vực TMĐT
tính đến hết thời điểm 1/7/2016:
Thời gian
I. Luật
Ghi chú
21/12/1999 Bộ luật Hình sự
14/6/2005

Bộ luật Dân sự

14/6/2005

29/11/2005
29/11/2005
29/06/2006
23/11/2009
30/11/2010
21/6/2012
26/11/2014
26/11/2014

Luật Thương mại
Luật Giao dịch điện tử
Luật Sở hữu trí tuệ
Luật Công nghệ thông tin
Luật Viễn Thông
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Luật Quảng cáo
Luật Đầu tư
Luật Doanh nghiệp
II. Nghị định
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định
chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử
về Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực
chữ ký số
Nghị định 27/2007/NĐ-CP về Giao
dịch điện tử trong hoạt động tài chính
Nghị định số 35/2007/NĐ-CP về Giao
dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng
Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về Chống
thư rác
Nghị định số 25/2011/NĐ-CP quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Viễn Thông
Nghị định số 43/2011/NĐ-CP quy định
về việc cung cấp thông tin và dịch vụ
công trực tuyến trên trang thông tin

15/02/2007

23/02/2007
08/03/2007
13/08/2008
06/04/2011

13/06/2011

Bộ luật Hình sự 2015 đã
được hoãn thi hành
Bộ luật Dân sự 2015 sẽ
có hiệu lực vào ngày
1/1/2017


19

điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của
cơ quan nhà nước
23/11/2011 Nghị định số 106/2011/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 26/2007/NĐ-CP
về Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực
chữ ký số

5/10/2012 Nghị định số 77/2012/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 90/2008/NĐ-CP
Chống thư rác
23/10/2012 Nghị định 87/2012/NĐ-CP quy định chi
tiết một số điều của Luật Hải quan về
thủ tục Hải quan điện tử đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại
22/11/2012 Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về Thay thế Nghị định số
Thanh toán không dùng tiền mặt
64/2001/NĐ-CP về hoạt
động thanh toán qua các
tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán
16/5/2013 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thay thế Nghị định số
Thương mại điện tử
57/2006/NĐ-CP
về
Thương mại điện tử
15/7/2013 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về Quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet
và thông tin trên mạng
13/11/2013 Nghị định số 170/2013/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số
26/2007/NĐ-CP ngày 15/2/2007 quy
định chi tiết thi hành Luật Giao dịch
điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng
thực chữ ký số
14/11/2013 Nghị định số 181/2013/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Quảng cáo

III. Thông tư hướng dẫn
15/09/2008 Thông tư số 78/2008/TT-BTC hướng
dẫn thi hành một số nội dung của Nghị
định số 27/2007/NĐ-CP về giao dịch
điện tử trong hoạt động tài chính
30/12/2008 Thông tư số 12/2008/TT-BTTTT


20

02/03/2009

16/03/2009

31/07/2009

14/12/2009

22/07/2010
28/9/2010

9/11/2010

20/12/2010

14/3/2011

hướng dẫn thực hiện một số nội dung
của Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về
chống thư rác

Thông tư số 03/2009/TT-BTTTTquy
định về mã số quản lý và mẫu giấy
chứng nhận mã số quản lý đối với nhà
cung cấp dịch vụ quảng cáo bằng thư
điện tử, tin nhắn; nhà cung cấp dịch vụ
tin nhắn qua mạng Internet
Thông tư số 50/2009/TT-BTC về việc
hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị
trường chứng khoán
Thông tư số 26/2009/TT-BTTTT quy
định về việc cung cấp thông tin và đảm
bảo khả năng truy cập thuận tiện đối
với trang thông tin điện tử của cơ quan
nhà nước
Thông tư số 37/2009/TT-BTTTT quy
định về hồ sơ và thủ tục liên quan đến
cấp phép, đăng ký, công nhận các tổ
chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ
ký số
Thông tư số 17/2010/TT-BLH quy định
chi tiết thí điểm đấu thầu qua mạng
Thông tư số 153/2010/TT-BTC hướng
dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐCP ngày 14/5/2010 quy định về hóa
đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Thông tư số 23/2010/TT-NHNN quy
định về việc quản lý, vận hành và sử
dụng hệ thống thanh toán điện tử liên
ngân hàng
Thông tư số 209/2010/TT-BTC quy
định giao dịch điện tử trong hoạt động

nghiệp vụ kho bạc nhà nước
Thông tư số 32/2011/TT-BTC hướng
dẫn về khởi tạo, phát hành và sử dụng
hóa đơn điện tử bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ


×