BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VIENGXAI VONGPHAKDY
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành
: Luật Kinh tế
Mã số
: 60.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ
HÀ NỘI – NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình thạc sĩ luật học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người
hướng dẫn khoa học PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, người đã tận tâm, nhiệt tình
chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Viengxai VONGPHAKDY
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực.
Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
HƯỚNG DẪN
Viengxai VONGPHAKDY
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTTH
: Bồi thường thiệt hại
CHDCND Lào
: Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
CHXHCN Việt Nam
: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
NSDĐ
: Người sử dụng đất
QSDĐ
: Quyền sử dụng đất
QSH
: Quyền sở hữu
UBND
: Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở LÀO VÀ VIỆT NAM DƯỚI DÓC ĐỘ SO SÁNH ... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về thu hồi đất ở Lào và Việt Nam ................. 7
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất..................................................................... 7
1.1.2. Sự cần thiết của việc thu hồi đất ở Lào và Việt Nam...................... 9
1.1.3. Cơ sở của việc thu hồi đất ở Lào và Việt Nam ............................. 11
1.2. Những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
Lào và Việt Nam ..................................................................................... 15
1.2.1. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất .......................... 15
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất... 18
1.2.3. Cơ sở của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất .................... 20
1.2.4. Các yếu tố tác động đến pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất.................................................................................................... 22
Kết luận chương 1 ................................................................................... 26
Chương 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở LÀO VÀ VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH . 28
2.1. Quy định về phạm vi và đối tượng bồi thường ............................... 28
2.1.1. Về phạm vi bồi thưởng ................................................................ 28
2.1.2. Về đối tượng được bồi thường ..................................................... 29
2.2. Quy định về nguyên tắc bồi thường ................................................ 31
2.3. Quy định về điều kiện bồi thường ................................................... 35
2.4. Quy định về các trường hợp thu hồi đất không được bồi thường . 39
2.5. Quy định về các trường hợp được bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất ............................................................................................................ 41
2.6. Quy định về các trường hợp bồi thường về tài sản ........................ 55
2.6.1. Nguyên tắc bồi thường về tài sản ................................................. 55
2.6.2. Bồi thường về nhà, công trình xây dựng trên đất khi Nhà nước thu
hồi đất.................................................................................................... 58
2.6.3. Bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi ......................................... 63
2.7. Về giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ............... 65
Kết luận Chương 2 .................................................................................. 67
Chương 3. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÁC QUY ĐỊNH VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CỦA
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ........ 69
3.1. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ việc so sánh các quy định về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật Lào và nước Việt
Nam.......................................................................................................... 69
3.2. Định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở nước CHDCND Lào ..................... 73
3.2.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất.................................................................................................... 73
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất ở nước CHDCND Lào ................................... 74
Kết luận Chương 3 .................................................................................. 82
KẾT LUẬN.................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 86
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước CHDCND Lào đất rộng, người ít, bình quân diện tích tự nhiên
vào loại nhiều, có diện tích 236.800 km2, khoảng 25 người/ha, có diện tích
đất nông nghiệp khoảng 2,8 triệu ha, bình quân đất canh tác là 1 ha/người,
bình quân đất canh tác của mỗi hộ nông nghiệp là 5 ha, nhưng diện tích đất
đai này lại phân bố không đều giữa các vùng1.
Hiến pháp năm 2003 (sửa đổi năm 2015), Luật Đất đai năm 2003 của
Cộng hoà Dân chủ Nhân Lào đều khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước thống nhất quản lý, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là tài nguyên
quốc gia vô cùng quý giá. Với ý nghĩa đó, chính sách về quản lý và sử dụng
đất đai là một bộ phận quan trọng trong các chính sách phát triển kinh tế, ổn
định xã hội của Đảng và Nhà nước, đặc biệt ở nước CHDCND Lào chính
sách sử dụng đất đai trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Luật Đất đai
Lào năm 2003 mặc dù đã bổ sung những thiếu sót của Luật Đất Đai Lào năm
1997, trong đó có nhiều quy định đổi mới về việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, nhưng vấn đề về thu hồi đất và việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất trong Luật Đất đai của Lào lại chưa được quan tâm đúng mức.
Thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong
những năm qua các địa phương trong cả nước Lào đã thu hồi hàng ngàn ha
đất bao gồm cả đất ở và đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp,
khu đô thị mới, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được xây dựng, nâng
cấp ngày càng đồng bộ và hiện đại. Từ đó, đã ảnh hưởng lớn đến đời sống
việc làm của người bị thu hồi đất. Trong khi đó, người dân Lào ngày càng
nhận thức sâu sắc được giá trị to lớn của đất đai. Số lượng các khiếu
kiện, tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng v.v... Với việc đất đai ngày càng
có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng cũng gặp rất
nhiều khó khăn, phức tạp. Trong nhiều trường hợp, người dân do không
đồng tình với phương án bồi thường của Nhà nước đã không chịu bàn giao
1
KhămLa LoVanXay, “Một số vấn đề về quản lý và sử dụng đất ở Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào hiện
nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tại địa chỉ: ngày truy cập 20/7/2016.
2
đất dẫn đến việc làm chậm tiến độ thi công công trình, ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư.
Hơn nữa do không đồng thuận với phương án bồi thường, người bị thu hồi đất
tiến hành khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người và khiếu kiện vượt cấp
gây mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội v.v... Để khắc phục
tình trạng này, Nhà nước đã thường xuyên rà soát, sửa đổi và bổ sung các quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tuy nhiên, hiệu quả của những giải
pháp này chưa được như mong muốn; nhiều quy định mới được ban hành
dường như chưa phù hợp với thực tiễn (đặc biệt là các quy định về giá đất bồi
thường; các quy định về tái định cư cho người dân bị thu hồi đất ở; giải quyết
vấn đề việc làm cho người bị mất đất sản xuất v.v...). Các tranh chấp, khiếu
kiện liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có xu hướng gia tăng
cả về số lượng và mức độ gay gắt, phức tạp về nội dung. Điều này cho thấy
chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế, chính sách bồi thường
nói chung và các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất nói riêng nhằm hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, việc nghiên cứu học tập
kinh nghiệm pháp luật của các nước trong đó có Việt Nam về chế định bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất mang tính cấp thiết, nhất là hiện nay, khi Lào
đang tiến hành phát triển kinh tế hội nhập, thì việc thu hồi đất cho các dự án
phát triển kinh tế ngày càng tăng cao. Chính vì vậy, là một công dân Lào, hiện
đang học tập, nghiên cứu tại Việt Nam, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Quy
định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của Lào và Việt Nam
dưới góc độ so sánh” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những chế
định quan trọng của pháp luật đất đai. Chế định này khi đi vào cuộc sống trực
tiếp đụng chạm đến lợi ích của người bị thu hồi đất, lợi ích của cộng đồng và
lợi ích của nhà đầu tư nên đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của giới
khoa học pháp lý. Thời gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp
3
lý nghiên cứu về lĩnh vực này dưới góc độ lý luận và thực tiễn; tiêu biểu là
các công trình nghiên cứu của các tác giả:
Trịnh Thị Hằng Nga (1999), “Chế định pháp luật về đền bù thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất”, Luận văn Thạc sĩ Luật học; Nguyễn Vĩnh Diện (2012),
“Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi
hành tại Thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật
Hà Nội; Hoàng Thị Thu Trang (2012), “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ
An”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị
Tâm (2013), “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm Thu Thủy, “Pháp luật về Bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”; Trần Thị Phương Liên (2013),
“Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, trường Đại học Luật Hà Nội;
GS.TSKH. Đặng Hùng Võ, “Giải phóng mặt bằng, còn nhiều khiếu
kiện”, Báo Kinh tế và Đô thị, số ra ngày 09/10/2006; Ts. Trần Quang Huy,
“Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 10/2010;
Ts. Nguyễn Quang Tuyến, “Công khai minh bạch để bảo vệ quyền lợi của
người bị thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 3/2012; Ts. Doãn Hồng Nhung
(Chủ biên), “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng
ở Việt Nam”, sách chuyên khảo, NXB Tư pháp năm 2013;
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Chuyên đề
“Bình luận và góp ý đối với các quy định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất trong dự thảo Luật Đất đai sửa đổi” của
PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến đăng trong Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo
Luật Đất đai sửa đổi” tổ cức tại Đại học Luật Hà Nội; các nghiên cứu của
GS.TSKH. Đặng Hùng Võ: “Cần sửa đổi, bổ sung gì cho Luật Đất đai 2003”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11 (148) tháng 6/2009…
4
Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ đề cập chế định bồi thường thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất mới chỉ nghiên cứu cơ sở lý luận của việc bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng như thực trạng quy định này tại Việt
Nam. Chỉ mới có công trình Noukham Hompanya (2015), “Chế định bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của Việt Nam và những gợi mở cho việc
hoàn thiện pháp luật đất đai của nước CHDCND Lào”, Luận văn thạc sĩ luật
học, trường Đại học Luật Hà Nội là có đề cập đến chế định bồi thường thiệt
hại khi nhà nước thu hồi đất của nước CHDCND Lào nhưng chỉ mới ở mức
đề cập đến quy định pháp luật, nội dung công trình này vẫn phân tích về pháp
luật Việt Nam và chỉ đưa ra một số gợi mở cho pháp luật Lào.
Vì vậy có thể nói, đề tài là công trình hoàn toàn mới, nghiên cứu chế
định quan trọng về đất đai này dưới góc độ luật học so sánh.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chế định Bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai Lào năm 2003 và Luật Đất đai Việt
Nam năm 2013 dưới góc độ so sánh.
* Phạm vi nghiên cứu đề tài
Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định được đề
cập ngay từ những đạo luật đất đai đầu tiên của cả hai nước, và hiện nay được
thể hiện trong hai đạo luật hiện hành là Luật Đất đai Lào năm 2003 và Luật
Đất đai Việt Nam năm 2013. Do đó, giới hạn và phạm vi nghiên cứu của luận
văn là nghiên cứu các quy định về vấn đề này trên cơ sở tương quan so sánh
Luật Đất đai của hai nước cùng các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài “Quy định pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh” là tạo
ra một công trình nghiên cứu có tính hệ thống về cơ sở lý luận và pháp lý của
việc Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất. Trên cơ sở so sánh với pháp luật
Việt Nam về chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, và rút ra những
bài học kinh nghiệm quý báu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật Lào,
5
nhằm đáp ứng có hiệu quả các yêu cầu do thực tiễn cuộc sống đặt ra, trong
quá trình thực thi pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên đây, luận văn Luận văn trả lời
cho 3 câu hỏi nghiên cứu chủ yếu sau:
(1). Thu hồi đất là gì? Sự cần thiết khách quan của việc thu hồi đất?
Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất?
(2). Những điểm tương đồng và khác biệt giữa Luật Đất đai Lào năm
2003 và Luật Đất đai Việt Nam năm 2013 về các quy định về bồi thường thiệt
hại khi nhà nước thu hồi đất là gì? Trên những khía cạnh nào
(3). Những bài học kinh nghiệm nào được rút ra trên cơ sở so sánh các
quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất giữa pháp luật Lào và Việt
Nam. Từ đó, những định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Lào là gì?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học
Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa;
- Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào và Việt Nam về
xây dựng nhà nước và pháp quyền nói chung và về chính sách, pháp luật đất
đai nói riêng trong điều kiện kinh tế thị trường;
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau:
(i) Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh v.v. được sử dụng trong
Chương 1 tìm hiểu về một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất;
(ii) Phương pháp đánh giá, so sánh, đối chiếu, diễn giải, tổng kết v.v...
được sử dụng tại Chương 2 khi tìm hiểu về pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh;
6
(iii) Phương pháp tổng hợp, quy nạp v.v. được sử dụng tại Chương 3
khi nghiên cứu, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Lào về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình trước
đây, Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, triêt lý của việc bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất, các đặc điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;
khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam và CHDCND Lào qua các giai đoạn.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
ở Việt Nam và Lào dưới góc độ so sánh.
- Đề xuất các kiến nghị góp phần thực thi có hiệu quả và tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Lào. Điều này sẽ
góp phần gợi mở cho khoa học pháp lý Lào trong việc sửa đổi, bổ sung Luật
Đất Lào năm 2003 về chế định bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất.
8. Bố cục (các chương) của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất ở Lào và Việt Nam dưới dóc độ so sánh
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất ở Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh
Chương 3: Một số bài học kinh nghiệm và giải pháp hoàn thiện các
quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của pháp luật đất đai nước
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở LÀO VÀ VIỆT NAM
DƯỚI DÓC ĐỘ SO SÁNH
1.1. Những vấn đề lý luận về thu hồi đất ở Lào và Việt Nam
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý gia, có vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của quốc gia. Cả Hiến pháp Lào và Hiến
pháp Việt Nam đều khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Điều 17 Hiến
pháp năm 2003 của nước CHDCND Lào khẳng định: “…Đất đai là một di
sản quốc gia và Nhà nước bảo đảm quyền sử dụng, chuyển nhượng và thừa kế
phù hợp với pháp luật.” Điều này có nghĩa, đất đai ở nước CHDCND Lào
cũng là sở hữu toàn dân, tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng, chuyển
nhượng, thừa kế chứ không có quyền sở hữu đất đai. Tại Điều 53 Hiến pháp
2013 của Việt Nam cũng khẳng định: “Đất đai,… là tài sản công thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Vì
đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên Nhà nước chỉ đóng vai trò là đại diện chủ
sở hữu và quản lý và vì tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng, chuyển
nhượng, thừa kế nên đề có đất, tổ chức cá nhân sẽ được nhà nước giao đất,
cho thuê đất. Vì là giao đất, cho thuê đất nên Nhà nước có quyền thu hồi đất
với tư cách là đại diện chủ sở hữu và việc thu hồi đất sẽ làm chất dứt quan hệ
đất đai giữa Nhà nước và tổ chức, cá nhân sử dụng đất. Việc thu hồi đất chỉ
xảy ra ở các nước có chế độ sở hữu toàn dân về đất đai như Việt Nam, Lào,
Trung Quốc.
Tuy nhiên, hiểu thế nào là đầy đủ về khái niệm thu hồi đất ở Lào và
Việt Nam thì cần xem xét những vấn đề sau đây:
- Ở Việt Nam, khái niệm thu hồi đất được tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Dưới đây là một số góc độ cơ bản:
+ Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì: “Thu hồi đất là việc cơ
quan tổ chức có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm
quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác hoặc trả lại cho
8
chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước
thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”2.
+ Giáo trình Luật Đất đai năm 2008 của Trường Đại học Luật Hà Nội
đưa ra định nghĩa thu hồi đất như sau: “Thu hồi đất là một quyết định hành
chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm chấm dứt quan hệ pháp
luật dất đai để phục vụ lợi ích Nhà nước, của xã hội hoặc xử lý hành vi vi
phạm pháp luật đất đai của người sử dụng”.
+ Dưới góc độ quy định của pháp luật thì khái niệm thu hồi đất của
Việt Nam có sự phát triển theo sự phát triển của Luật Đất đai. Cụ thể: Khoản
5 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra
quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao
cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của
Luật này”. Tiếp đó Luật Đất đai Việt Nam năm 2013 đã đưa ra định nghĩa về
thu hồi đất ở bình diện rộng lớn hơn nhưng cụ thể hơn ở hai trường hợp thu
hồi đất, cụ thể tại khoản 11 Điều 4 Luật này quy định: “Nhà nước thu hồi đất
là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà
nước giao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm
pháp luật về đất đai”
Nói tóm lại, dù cách tiếp cận khái niệm thu hồi đất ở Việt Nam có sự
khác nhau, nhưng những định nghĩa trên về thu hồi đất đều có thể khái quát
trong định nghĩa sau: Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính
để thu hồi đất và quyền sử dụng đất đã giao cho các chủ thể sử dụng theo quy
định của pháp luật đất đai. Từ định nghĩa trên, có thể thấy thu hồi đất ở Việt
Nam sẽ có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thu hồi đất là một trong những nội dung cơ bản của quản lý
nhà nước về đất đai. Việc thu hồi đất do cơ quan quản lý hành chính nhà nước
tiến hành theo thủ tục, trình tự nhất định được pháp luật quy định. Thẩm
quyền thu hồi đất cũng được pháp luật xác định.
2
Nguyễn Ngọc Hoà – Chủ biên (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học: Luật đất đai, Luật lao động,
Tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
9
Thứ hai, thu hồi đất được thực hiện bằng một quyết định thu hồi đất
của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền.
Thứ ba, thu hồi đất là biện pháp quan trọng nhằm thể hiện quyền sở
hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và đây cũng
là nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về đất đai.
- Ở nước CHDCND Lào, khái niệm thu hồi đất cũng được tiếp cận ở
nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể:
+ Theo Từ điển tiếng Lào năm 2010 của Nhà xuất bản quốc gia Lào thì:
“Thu hồi là việc tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thu hồi tài sản của tổ chức,
cá nhân khác mà pháp luật nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cho phép”.
+ Theo Giáo trình pháp luật đất đai của nước CHDCND Lào năm 2010
của Khoa luật - Đại học quốc gia Lào thì: “Thu hồi đất là việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành thu hồi đất đã giao, đã cho thuê của tổ chức,
cá nhân trong những trường hợp được pháp luật quy định”.
+ Dưới góc độ pháp lý thì Luật đất đai năm 2003 của nước CHDCND
Lào hiện nay không có quy định về định nghĩa thu hồi đất.
Tuy cách tiếp cận có khác nhau nhưng định nghĩa thu hồi đất ở nước
CHDCND Lào hiện nay vẫn có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, việc thu hồi đất được tiến hành bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của nước CHDCND Lào. Đó có thể là cơ quan trực tiếp quản lý
đất đai; đó có thể là cơ quan mà trước đó đã giao đất, cho thuê đất; đó có thể
là các cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện các dự án cần phải thu hồi đất.
Thứ hai, việc thu hồi đất được tiến hành dựa trên đất đã giao, đã cho
thuê. Đó có thể là đất đã giao, đã cho thuê không có vi phạm hoặc đất đã giao,
đã cho thuê có vi phạm về sử dụng đất đai.
Thứ ba, việc thực hiện thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
được thực hiện theo quy định của pháp luật của nước CHDCND Lào về căn
cứ, trình tự, thủ tục thu hồi đất.
1.1.2. Sự cần thiết của việc thu hồi đất ở Lào và Việt Nam
Mặc dù được quy định và áp dụng khác biệt nhất định ở mỗi quốc gia,
nhưng thu hồi đất có một điểm chung là dẫn đến hậu quả pháp lý chấm dứt
10
QSDĐ của NSDĐ hoặc quyền quản lý đất đai của các chủ thể được Nhà nước
giao đất để quản lý (không phải là NSDĐ).
Xét trong mối quan hệ giữa Nhà nước và NSDĐ, thu hồi đất là một quá
trình “ngược” so với hoạt động giao đất, cho thuê đất. Khi bị thu hồi đất,
NSDĐ không còn QSDĐ với đất bị thu hồi và đương nhiên không còn quyền
“chiếm hữu”, tác động vào diện tích đất đó nữa. Do đó, việc thu hồi đất trước
hết có tác dụng bảo vệ quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai vì nó sẽ làm
chấm dứt hành vi xâm hại đất đai của những chủ thể vi phạm pháp luật đất
đai. Thu hồi đất là một “khâu” quan trọng của quá trình điều phối đất đai. Là
một quốc gia đang phát triển, việc “luân chuyển” đất đai từ chủ thể này sang
chủ thể khác, từ mục đích này sang mục đích khác rất thường xuyên xảy ra3.
Do đó, thu hồi đất là hoạt động hỗ trợ đắc lực nhất cho Nhà nước để thực hiện
quá trình này.
Việt Nam và Lào đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Trong điều kiện kinh tế thị trường, QSDĐ được
coi như là một tài sản, một loại hàng hóa đặc biệt4. Việc chuyển giao đất từ
Nhà nước đến NSDĐ thông qua các hình thức giao đất có thu tiền sử dụng
đất, cho thuê đất có thể coi là một loại “giao dịch” - thực chất nó là quan hệ
của thị trường đất đai sơ cấp (primary market) - mà ở đó, NSDĐ phải trả tiền
cho Nhà nước mới được sử dụng đất5. Khi Nhà nước thu hồi đất từ NSDĐ thì
bản chất “tài sản”, “hàng hóa” của QSDĐ cũng không thay đổi. Đây là lý do
tại sao mà Luật Đất đai có chế định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Như vậy, thu hồi đất vừa là một hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước, là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai. Tuy
nhiên, quan trọng hơn, xét ở góc độ quản lý kinh tế, thu hồi đất là phương tiện
hỗ trợ đắc lực cho quá trình điều phối đất đai. Ở mặt này, thu hồi đất có thể
được xem như một loại “giao dịch” của thị trường QSDĐ. Dù giao dịch này
3
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb. Hồng Đức, Tp. Hồ Chí
Minh, tr.163.
4
Trừ những trường hợp đất được Nhà nước giao cho các tổ chức, cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư không
thu tiền sử dụng đất thì QSDĐ không được coi là hàng hóa. Xem thêm các Điều 54, 174, 175, 179 Luật Đất
đai năm 2013 số 45/2013/QH13 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5
Bao gồm tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất.
11
mang tính “cưỡng bức” nhưng vẫn có thể là một loại quan hệ “hàng hóa - tiền
tệ”, khi mà NSDĐ được bồi thường những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra.
Do đó, các quy định của pháp luật cả hai nước được bàn hành, nhằm tạo điều
kiện để thu hồi đất không còn là một sự “cản trở” đối với giao đất, cho thuê
đất theo quy hoạch (đặc biệt là trường hợp sử dụng đất để phát triển kinh tế xã hội).
1.1.3. Cơ sở của việc thu hồi đất ở Lào và Việt Nam
Thu hồi đất chủ yếu phục vụ nhu cầu quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, mục đích công cộng và mục tiêu phát triển kinh tế đồng thời mở rộng các
khả năng cho phép tổ chức kinh tế tìm kiếm mặt bằng tổ chức sản xuất kinh
doanh thông qua việc nhận chuyển nhượng hoặc thuê đất của người sử dụng
đất khác mà không nhất thiết phải dùng biện pháp hành chính là thu hồi đất.
Pháp luật Việt Nam và Lào đều quy định các trường hợp về thu hồi đất, đây
được coi là cơ sở của việc thu hồi đất của mỗi nước. Theo đó, pháp luật cả hai
nước đều quy định, thu hồi đất được áp dụng trên những cơ sở sau:
Thứ nhất, việc thu hồi đất được tiến hành trên cơ sở nhu cầu của Nhà
nước
Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát
triển đất nước. Vì vậy, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và Nhân
dân cả hai nước là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý. Theo đó, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và Hiến
pháp Lào sửa đổi năm 2015 đều quy định rằng đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên
khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Để thể hiện
thái độ tôn trọng, bảo vệ của Nhà nước đối với quyền sử dụng đất của công
dân, vừa tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục phòng, chống và xử lý
nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong thực hiện pháp luật về đất đai,
pháp luật hai nước đều quy định tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; người sử dụng đất được chuyển
12
quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật.
Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.
Đồng thời, pháp luật cả hai nước cũng quy định, Nhà nước thu hồi đất
do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định
vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng. Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vẫn cần thiết
phải thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội.
Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, Luật Đất đai năm 2013 của Việt
Nam và Luật Đất Đai năm 2003 của Lào đều quy định cụ thể các trường hợp
nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Theo đó, cơ sở để thu hồi đất vì mục đích an ninh quốc phòng là nhằm:
Làm nơi đóng quân, trụ sở làm việc; xây dựng căn cứ quân sự; xây dựng công
trình phòng thủ quốc gia, trận địa và công trình đặc biệt về quốc phòng, an
ninh; xây dựng ga, cảng quân sự; xây dựng công trình công nghiệp, khoa học
và công nghệ, văn hóa, thể thao phục vụ trực tiếp cho quốc phòng, an ninh;
xây dựng kho tàng của lực lượng vũ trang nhân dân; làm trường bắn, thao
trường, bãi thử vũ khí, bãi hủy vũ khí; xây dựng cơ sở đào tạo, trung tâm
huấn luyện, bệnh viện, nhà an dưỡng của lực lượng vũ trang nhân dân; xây
dựng nhà công vụ của lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng cơ sở giam giữ,
cơ sở giáo dục do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý.
Bên cạnh đó thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng cũng được quy định là một trong những cơ sở để Nhà nước
tiến hành thu hồi đất. Theo đó, pháp luật đất đai cả hai nước đều quy định,
việc thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia bao gồm một
trong các trường hợp sau: Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc
hội quyết định chủ trương đầu tư mà phải thu hồi đất; Thực hiện các dự án do
Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư mà phải thu hồi đất;
Thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu
hồi đất. Việc quy định cơ sở thu hồi đất này là do: Phát triển kinh tế vì lợi ích
chung của đất nước là một trong vấn đề được coi trọng. Với quỹ đất có hạn
13
thì việc đưa quỹ đất này vào phát triển kinh tế thì được cân nhắc một cách kỹ
lưỡng nhất, nên các trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi
ích quốc gia, công cộng được quy định rất nghiêm ngặt.
Thứ hai, Nhà nước có thể thu hồi đất khi có vi phạm pháp luật về đất
đai
Hiện nay, trong quá trình sử dụng đất người sử dụng có hành vi vi
phạm pháp luật đất đai như: sử dụng đất không đúng mục đích, khai thác sử
dụng chưa hợp lý. Nhằm phòng chống và khắc phục vấn đề này, pháp luật đất
đai cả hai nước đã đưa ra những quy định về các trường hợp đưa ra những
trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai sẽ bị thu hồi, làm căn cứ cho việc thu
hồi đất và đảm bảo nguồn đất được sử dụng hiệu quả.
Theo đó, Luật Đất đai 2013 của Việt Nam quy định, trường hợp thu hồi
đất do có vi phạm pháp luật về đất đai bao gồm: Sử dụng đất không đúng mục
đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà
tiếp tục vi phạm; Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất; Đất được giao, cho
thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền; Đất không được
chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của Luật này mà nhận chuyển
nhượng, nhận tặng cho; Đất được Nhà nước giao để quản lý mà để bị lấn,
chiếm; Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này
mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm; Người sử dụng
đất không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và đã bị xử phạt vi phạm hành
chính mà không chấp hành; Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng
trong thời hạn 12 tháng liên tục; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng
trong thời hạn 18 tháng liên tục; đất trồng rừng không được sử dụng trong
thời hạn 24 tháng liên tục; Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự
án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến
độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi
nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng; trường hợp không
đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và phải nộp
cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
14
đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này; hết thời
hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước
thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường
hợp do bất khả kháng.
Trong khi đó, Điều 62 Luật Đất đai 2003 của Lào quy định, Nhà nước
thu hồi đất do có sự vi phạm pháp luật về đất đai, bao gồm các trường hợp
sau: Sử dụng đất được Nhà nước giao cho không đúng mục đích; Không nộp
thuế đất liên tiếp 03 năm; Sử dụng đất không đúng theo Hợp đồng chỉ định và
không chấp hành theo Luật Đất đai của Chính phủ.
Việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai phải căn cứ vào văn
bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi vi
phạm pháp luật về đất đai.
Thứ ba, Nhà nước có thể thu hồi đất trên cơ sở chấm dứt việc sử dụng
đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con
người
Theo đó, pháp luật cả hai nước quy định đối với quỹ đất được trả do
chấm dứt hợp đồng, hoặc người sử dụng tự nguyện trả lại được nhà nước thu
lại, cân bằng lại quỹ đất để đảm bảo đất được sử dụng hiểu quả.
Trong đó, Luật Đất Đai Việt Nam năm 2013 quy định các trường hợp
này bao gồm: Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất,
được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn
gốc từ ngân sách nhà nước bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc
không còn nhu cầu sử dụng đất; người sử dụng đất thuê của Nhà nước trả tiền
thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không
còn nhu cầu sử dụng đất; Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế;
Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; Đất được Nhà nước giao, cho thuê có
thời hạn nhưng không được gia hạn; Đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi
trường có nguy cơ đe dọa tính mạng con người; Đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt
lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người.
15
Còn Điều 63 Luật Đất đai Lào năm 2003 chi quy định hai trường hợp
là: Quyền sử dụng đất tự nguyện trả lại; Cá nhân sử dụng chết mà không có
người thừa kế.
Việc quy định thu hồi đất nhằm nhiều mục đích khác nhau, nhưng mục
đích cuối cùng mà nhà làm luật hướng đến là đảm bảo việc cân bằng quỹ đất
có hạn vừa đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế của người sử dụng đất vừa đảm
bảo phát triển nền kinh tế chung của đất nước cũng như đảm bảo vấn đề an
ninh quốc phòng.
1.2. Những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
ở Lào và Việt Nam
1.2.1. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong đời sống hàng ngày, “bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng
tỏng trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải
có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Bồi thường” là “Đền bù những
tổn hại gây ra”.
Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một
chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã
hội. Trong lĩnh vực pháp luật đất đai thuật ngữ bồi thường (hay đền bù) khi
Nhà nước thu hồi đất được đặt ra từ rất sớm. Nghị định số 151/TTg ngày
14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng
ruộng đất, tại Chương II đã đề cập việc “Bồi thường cho người có ruộng đất
bị trưng dụng”. Tiếp đến Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ
tướng Chính phủ về quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa,
đất đai, cây cối lâu niên, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng
kinh tế mở rộng thành phố cũng đề cập vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất. Đặc biệt khi Luật đất đai năm 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) đã ban hành quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 quy
định về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng
vào mục đích khác, thuật ngữ “bồi thường” được thay thế bằng thuật ngữ
“đền bù”. Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong Luật Đất đai năm 1993,
16
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và các nghị
định hướng dẫn thi hành như Nghị định số 90/CP ngày 17/08/1994 của Chính
phủ ban hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia lợi ích công cộng;
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 22/04/1998 của Chính Phủ về đền bù thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng… Tuy nhiên khi Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều Luật đất đai năm 2001 được Quốc hội ban hành, thuật ngữ “bồi thường”
được sử dụng trở lại và tiếp tục xuất hiện trong Luật đất đai năm 2003; Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính Phủ quy định về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nghị định số 84/2007NĐCP ngày 25/05/2007 của Chính Phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự,
thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết
khiếu nại về đất đai.
Theo Khoản 6 Điều 4 Luật đất đai 2003: “Bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”. Tuy nhiên, quy định này chưa thật sự
chặt chẽ và chưa thể hiện được đầy đủ những giá trị thiệt hại mà Nhà nước sẽ
thu hồi khi thu hồi đất, đó không chỉ là giá trị quyền sử dụng đất mà cón tính
đến giá trị thiệt hại về tài sản trên đất, ngoài ra phải tính đến những thiệt hại
vô hình khác, mà Nhà nước phải sử dụng thêm cơ chế hỗ trợ mới bù đắp được
một cách trọn vẹn những thiệt hại do thu hồi đất gâu ra. Vì vậy trong Khoản
12 Điều 13 về giải thích thuật ngữ quy định: “Bồi thường về đất là việc Nhà
nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người
sử dụng đất”.
Trong khi đó, Luật đất đai Lào năm 2003 không có quy định định nghĩa
về trường hợp này, mà Điều 71 Luật đất đai Lào năm 2003 chỉ quy định:
“Nhà nước thu hồi đất cá nhân, các tổ chức khi có sự cần thiết sử dụng đất vì
lợi ích công cộng mà nhà nước phải bồi thường thiệt hại cho cá nhân, các tổ
chức một cách hợp lý nhất.
17
Để đảm bảo việc bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất phải có
năm phần trăm diện tích đất trống tại xã, huyện, thành phố hoặc tỉnh có đất
sẽ thu hồi.
Khi chưa sử dụng phần đất trống của xã, huyện, thành phố hoặc tỉnh
có đất sẽ thu hồi có thể cho cá nhân, tổ chức thuê”.
Định nghĩa về bồi thường được quy định tại điểm (B) Điều 3 Nghị định
số 192/PM ngày 07/7/2005 của Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào về bồi thường, tái định cư của các dự án phát triển. Theo đó, “Bồi thường
có nghĩa là thanh toán bằng tiền mặt hoặc hiện vật cho một tài sản được mua
lại hoặc bị ảnh hưởng bởi dự án theo giá thay thế”. Trên cơ sở định nghĩa
này, có thể hiểu, bồi thường thiệt hai do thu hồi đất gây ra ở Lào cũng tương
tự như Việt Nam, đó là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với
diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất.
Trên cơ sở đó, có thể hiểu BTTH khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước, để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng, phát triển kinh tế phải bù đắp cho người có đất bị thu hồi những
thiệt hại vật chất cho việc thu hồi đất gây ra.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có một số đặc trưng cơ bản sau
đây:
- Bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước nhằm bù đắp tổn thất về
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất do hành vi thu hồi đất của
Nhà nước gây ra. Trách nhiệm này được quy định trong Luật Đất đai;
- Bồi thường là hậu quả pháp lý trực tiếp do hành vi thu hồi đất của
Nhà nước gây ra. Điều này có nghĩa là chỉ phát sinh sau khi có quyết định
hành chính về thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Bồi thường được thực hiện trong mối quan hệ song phương giữa một
bên là Nhà nước (chủ thể có hành vi thu hồi đất) với bên kia là người chịu tổn
hại về quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra;
- Căn cứ để xác định bồi thường là diện tích thực tế bị thu hồi; thiệt hại
thực tế về tài sản, cây cối, hoa màu trên đất và khung giá đất do Nhà nước
quy định tại thời điểm thu hồi đất;
18
- Người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất muốn được bồi thường
về đất phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định;
- Người bị Nhà nước thu hồi đất không chỉ được bồi thường về đất mà
còn được bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất và được hưởng các chính
sách hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước nhằm nhanh chóng ổn định đời sống và
sản xuất;
- Trong nền kinh tế thị trường dưới tác động của các quy định luật
khách quan, việc BTTH khi Nhà nước thu hồi đất không thể giải quyết dựa
trên biện pháp chính trị hành chính thuần túy mà phải sử sụng các biện pháp
kinh tế. Hơn nữa, đất đai là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm có ý nghĩa trên
các khía cạnh chính trị, kinh tế, xã hội. Vì vậy cần giải quyết hài hòa mối
quan hệ với lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và người được
hưởng lợi ích từ việc thu hồi đất thông qua việc sử dụng tổng hợp các biện
pháp từ vận động, giáo dục, thuyết phục đến các biện pháp hành chính, cưỡng
chế, các biện pháp kinh tế…
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Năm 1975, cả Lào và Việt Nam đều giành được độc lập, đất nước
thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó đến nay, bên cạnh việc
khắc phục những hậu quả do chiến tranh để lại, dân tộc cả hai nước đang ra
sức thực hiện công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo, hai nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Để thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nhân dân Lào và Việt Nam
đều phải thực hiện rất nhiều công việc mà trước tiên là xây dựng cơ sở hạ
tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế, chỉnh trang đô thị, … Muốn vậy, Nhà
nước phải có một quỹ đất hợp lý. Đây là đòi hỏi cấp thiết và tất yếu khác quan
tron quá trình phát triển đất nước theo hướng văn minh, hiện đại. Giải quyết
yêu cầu này, Nhà nước không thể không tiến hành thu hồi một số diện tích đất
của NSDĐ.
19
Xét về bản chất của việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất:
Tại Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý.
Về nguyên tắc, Nhà nước có đầy đủ các quyền sử dụng, hưởng lợi,
quản lý và định đoạt đối với đất. Quyền định đoạt bao gồm 2 loại quyền cơ
bản: (1) Giao đất, cho thuê đất để các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng;
(2) Quyền thu hồi đất đã giao hoặc cho thuê để sử dụng theo mục đích quy
hoạch và quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng đất với giá quy định (còn gọi là
quyền tiên mãi) để sử dụng vì lợi ích chung.
Trên thực tế, hầu hết diện tích đất Nhà nước đã giao cho các tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân sử dụng và đã được đầu tư trên đất ở các mức độ khác
nhau. Các chủ sử dụng đất cũng tạo lập đời sống sinh hoạt, sản xuất kinh
doanh trên mảnh đất thuộc quyền sử dụng của họ. Do đó khi thu hồi đất sẽ
gây ra xáo trộn lớn về đời sống hoạt động cùng với những thiệt hại về vật chất
và tinh thần cho người sử dụng đất. Việc bồi thường các thiệt hại này và sắp
xếp đời sống người dân bị thu hồi đất là một trách nhiệm đương nhiên của
Nhà nước và chủ đầu tư. Giải quyết tốt vấn đề này, trong đó chủ yếu là hài
hòa lợi ích của các bên liên quan sẽ tạo ra sự phát triển bền vững và ổn định
xã hội. Tái định cư và bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất trở thành một vấn
đề xã hội lớn, chứ không đơn thuần là vấn đề phát triển kinh tế hoặc quản lý
đất đai, phát triển thị trường bất động sản.
Bản chất của bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất không phải là quan hệ
mua bán đất đai (hay quyền sử dụng đất) dù nhìn nhận dưới bất kỳ góc độ
nào. Thực chất nhà nước có trách nhiệm xác định những thiệt hại để bồi
thường nhằm ổn định và nâng cao đời sống người dân khi bị thu hồi đất. Thu
hồi và bồi thường thiệt hại về đất mang ý nghĩa của việc thực hiện quyền của
nhà nước chứ không phải đơn thuần là một quan hệ giao dịch có tính chất
ngang giá. Trong tổ chức thực hiện, Nhà nước có thể trực tiếp đứng ra thu hồi
và bồi thường thiệt hại, nhưng cũng có thể giao cho các tổ chức khác thực
hiện quyền này, theo những quy định mà nhà nước đã ban hành.