Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 133 trang )


Đại học quốc gia hà nội
khoa luật




Lê Thị Yến





Pháp luật về bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng
tại địa bàn quận tây hồ, thành phố hà nội





Luận văn thạc sĩ luật học










Hà nội – 2010





Đại học quốc gia hà nội
khoa luật




Lê Thị Yến





Pháp luật về bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng
tại địa bàn quận tây hồ, thành phố hà nội



Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


Luận văn thạc sĩ luật học




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Hữu Nghị

Hà nội - 2010






MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


Danh mục các hình



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
9
1.1.
Các vấn đề cần xác định, giải quyết trong việc xây dựng các
văn bản pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
9
1.1.1.
Các thiệt hại cần xem xét, xác định khi Nhà nước thu hồi đất
để bồi thường, hỗ trợ
9
1.1.2.
Giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi
đất và người được hưởng lợi từ việc thu hồi đất của Nhà nước
11
1.2.
Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
14
1.2.1.
Về cách hiểu thuật ngữ “bồi thường”, cụm từ “bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất”
14
1.2.2.
Đặc điểm và tính chất của việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất

16
1.2.3.
Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
20
1.3.
Quan niệm về hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
21
1.3.1.
Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
21
1.3.2.
Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
22
1.3.2.
Phân biệt giữa hỗ trợ, tái định cư với bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất
23



Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI ĐỊA BÀN QUẬN TÂY HỒ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
26
2.1.
Cơ sở pháp lý thực hiện việc bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội
từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
26
2.1.1.

Nguyên tắc thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn quận Tây Hồ
26
2.1.2.
Phạm vi và đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ
khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
37
2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ
khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
41
2.2.1.
Thực tiễn áp dụng các quy định bồi thường, hỗ trợ về đất và
những vấn đề đặt ra
41
2.2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định bồi thường, hỗ trợ về tài sản
và những vấn đề đặt ra
58
2.2.3.
Thực tiễn áp dụng các chính sách hỗ trợ và những vấn đề đặt ra
69
2.2.4.
Thực tiễn áp dụng các quy định về tái định cư và những vấn
đề đặt ra
80

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỰC TIỄN
87
3.1.
Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất
87
3.1.1.
Thiết lập khung pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính ổn
định tương đối cao
87


3.1.2.
Thực hiện các biện pháp đẩy nhanh việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất
88
3.1.3.
Hoàn thiện các quy định về giá đất
91
3.1.4.
Hoàn thiện các quy định về đơn giá tính bồi thường, hỗ trợ
về tài sản (nhà, công trình, cây trồng, hoa màu…)
93
3.1.5.
Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ
95
3.1.6.

Thống nhất quy định về thời hạn thông báo thu hồi cho
người bị thu hồi đất giữa các văn bản quy phạm pháp luật
97
3.2.
Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất
98
3.2.1.
Tăng cường và kiểm tra, giám sát việc tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng cho cán bộ và
nhân dân
98
3.2.2.
Kiện toàn tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
100
3.2.3.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm
trong quá trình thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục thu
hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
103
3.2.4.
Hoàn thiện mô hình phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức hữu quan, Nhà đầu tư và
Chủ đầu tư xây dựng công trình khi thực hiện tái định cư cho
người bị thu hồi đất
105
3.2.5.
Chấn chỉnh công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;

tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất
109
3.2.6.
Xác lập cơ chế giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất
111

KẾT LUẬN
113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
117



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BQL
: Ban Quản lý
BT, HT
: Bồi thường, hỗ trợ
GCN
: Giấy chứng nhận
GPMB
: Giải phóng mặt bằng
HĐND
: Hội đồng nhân dân
HGĐ
: Hộ gia đình
HTKT

: Hạ tầng kỹ thuật
LĐĐ
: Luật Đất đai

: Nghị định
NĐT
: Nhà đầu tư
NNTHĐ
: Nhà nước thu hồi đất

: Quyết định
QHSDĐ
: Quy hoạch sử dụng đất
QH, KHSDĐ
: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
SDĐ
: Sử dụng đất
TĐC
: Tái định cư
THĐ
: Thu hồi đất
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa








Danh mục các hình

Số hiệu
hình
Tên hình
Trang
1.1
Giải quyết hài hòa về lợi ích giữa ba bên khi NNTHĐ
14




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy luật chung của sự phát triển kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu
lên công nghiệp tiên tiến và hiện đại, Việt Nam đang tiến hành quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế và đô thị hóa một bộ phận nông
thôn. Muốn vậy, phải có sự chuyển dịch mạnh về cơ cấu sử dụng các loại đất,
nhằm tạo điều kiện cho việc cơ cấu lại nền kinh tế đất nước theo hướng tăng
mạnh tỷ trọng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản và
ngành thương mại - dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp - thủy sản. Từ
đó đời sống vật chất, tinh thần của người dân nói chung được nâng cao, an
ninh chính trị, trật tự an toàn được ổn định và giữ vững.
Quá trình phân phối lại đất đai nêu trên của Nhà nước, mà cụ thể là
thông qua việc Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ), nhất là đối với đất nông

nghiệp, đã kéo theo hiện tượng hàng triệu nông dân mất tư liệu sản xuất cơ
bản, mất đi nguồn thu nhập ổn định, tạo ra áp lực đối với xã hội về việc làm
mới cho số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất (THĐ). Thực tế cho thấy,
pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ và thực tiễn áp dụng từ khi có Luật Đất
đai (LĐĐ) năm 2003 đến nay, đang gặp phải rất nhiều vướng mắc như: điều
kiện được bồi thường, hỗ trợ (BT, HT) về đất, giá trị được BT, HT về đất, nhà
ở và các tài sản trên đất, các vấn đề về tái định cư (TĐC) và điều kiện sinh
hoạt của người dân phải di dời, các vấn đề phát sinh sau khi thực hiện các
chính sách hỗ trợ… Các quy định về bồi thường khi NNTHĐ nhìn chung mới
chỉ quan tâm đến BT, HT dưới góc độ vật chất, còn các chính sách về việc
làm, ổn định đời sống và sản xuất cho người có đất bị thu hồi, đặc biệt đối với
người lao động tại khu vực nông thôn chưa được chú trọng, chưa có hiệu quả,
chưa đáp ứng được nguyện vọng cũng như nhu cầu được ổn định đời sống và
sản xuất của họ, nên nguy cơ mất việc làm và thất nghiệp của người bị THĐ



2
là rất lớn. Đã vậy, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi áp dụng
pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ vào thực tiễn tại nhiều địa phương trong
thời gian qua vẫn còn cứng nhắc, bị động và thiếu sự linh hoạt, chưa thực sự
chú ý lắng nghe các kiến đóng góp từ phía người dân bị THĐ, thậm chí vi
phạm pháp luật trong quá trình giải quyết việc BT, HT và TĐC.
Nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc nêu trên có thể kể đến là:
pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ liên tục thay đổi trong một thời gian
ngắn và không nhất quán, dẫn đến việc thực hiện vừa chậm, vừa khó khăn và
thiếu đồng bộ. Bên cạnh đó, sự tuân thủ các quy định của pháp luật và năng
lực quản lý điều hành của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền và nhà đầu tư (NĐT) trong quá trình thực hiện việc BT, HT và TĐC
chưa tốt, còn nhiều bất cập. Thêm vào đó, một số cán bộ, công chức, viên chức

trong quá trình thực hiện việc bồi thường khi NNTHĐ đã lợi dụng các “khe
hở” của pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ
nói riêng để trục lợi, thậm chí có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng và
gây thiệt hại rất lớn cho Nhà nước, cho người sử dụng đất (SDĐ) và cho xã hội.
Đồng thời, sự tin tưởng của người dân vào chính sách, pháp luật đất đai nói chung
và pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ ở một số địa phương chưa cao, tính tự
giác của người SDĐ trong việc chấp hành quyết định THĐ của Nhà nước còn yếu
kém; do đó tại một số dự án cụ thể, giữa Nhà nước - người SDĐ - NĐT chưa tìm
được tiếng nói chung trong quá trình thực hiện việc bồi thường khi NNTHĐ.
Có vị trí địa lý quan trọng, là trung tâm dịch vụ - du lịch - văn hóa, là
vùng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của Thủ đô Hà Nội [49], quận Tây Hồ
phải chủ động được quỹ đất khá lớn để đáp ứng tốt nhu cầu SDĐ của các dự
án phát triển hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật và các dự án
phát triển, hiện đại nền quốc phòng và an ninh nhân dân. Để đạt được mục
tiêu này, quận Tây Hồ phải tiến hành THĐ, đồng thời cần thực hiện tốt việc
bồi thường khi NNTHĐ. Song thời gian vừa qua, cũng như các địa phương



3
khác trong phạm vi toàn quốc, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội cũng đã và
đang phải đối mặt với nhiều thách thức kể trên trong quá trình thực hiện việc
bồi thường khi NNTHĐ. Vì lẽ đó, một số dự án đầu tư đã không triển khai
được theo tiến độ dự kiến, không hoàn thành việc BT, HT và TĐC theo đúng
kế hoạch đặt ra. Mặt khác, cuộc sống và sản xuất của người dân bị THĐ, đặc
biệt là đối với những người dân phải di chuyển chỗ ở, đang có những xáo trộn
mà các quy định của pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ hiện hành cũng
như thực tiễn áp dụng chưa giải quyết được.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi
thường khi NNTHĐ qua thực tiễn của một địa phương là cần thiết, nhằm góp

phần tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót nói trên và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ trên địa bàn quận Tây
Hồ nói riêng và các địa phương khác trong cả nước nói chung. Với ý nghĩa
đó, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội” để làm
luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, vấn đề bồi thường khi NNTHĐ đã thu hút được sự quan tâm
của nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau. Có thể đề
cập đến một số công trình, bài báo tiêu biểu như: Nhà tái định cư: vừa ở
vừa…run của tác giả Nguyễn Thiêm - Báo Công an nhân dân, số ra ngày
21/05/2005; Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất -
Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Vinh Diện - năm 2006; Vấn đề việc
làm cho người bị thu hồi đất ở nông thôn trong quá trình xây dựng, phát triển
các khu công nghiệp của tác giả Đỗ Đức Quân - Tạp chí Kinh tế và Dự báo,
số 8 (412), tháng 8 năm 2007, tr.33-35; Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành hành tại thành phố
Hà Nội) - Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Duy Thạch - năm 2007; Vì



4
sao dân chưa đồng thuận của tác giả Đức Tâm - Báo điện tử Kinh tế và Đô
thị, số ra ngày 19/8/2008; Bức xúc thu hồi đất không chỉ do giá đền bù của tác
giả Lan Hương - Báo điện tử Dân trí, số ra ngày 03/10/2008; Một số ý kiến
hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của tác giả Ths.
Lê Ngọc Thạnh - Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 11 (73), tháng 6 năm
2009, tr.40-43; Dân bức xúc vì sự vô cảm của chính quyền của nhóm phóng
viên điều tra - Báo điện tử Nhà báo và Công luận, số ra ngày 17/09/2009.
Nói chung, các công trình, bài báo nêu trên đều nghiên cứu về bồi

thường khi NNTHĐ ở mức độ và phạm vi khác nhau. Có công trình, bài báo
nghiên cứu đi sâu phân tích, bình luận một số khía cạnh pháp lý về bồi thường
khi NNTHĐ; có công trình, bài báo nghiên cứu vấn đề này ở phạm vi rộng
nhằm đánh giá khái quát pháp luật và thực trạng pháp luật về bồi thường khi
NNTHĐ. Bên cạnh đó, lại có công trình nghiên cứu vấn đề này thông qua
việc đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật tại địa bàn cụ thể của một tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương… Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên
cứu vấn đề này nhìn từ góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi
NNTHĐ trên phạm vi địa bàn cấp huyện. Với mong muốn được tiếp cận vấn
đề từ góc độ thực tiễn một cách chi tiết, đồng thời bằng việc tham chiếu giữa
các quy định của pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ với thực tiễn áp dụng
qua các vụ việc, tình huống cụ thể, một mặt học viên chỉ ra được những quy
định phù hợp, không phù hợp của pháp luật với thực tiễn cuộc sống, mặt khác
cũng đưa ra những nhận xét, đánh giá việc thực thi pháp luật về bồi thường
khi NNTHĐ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở một địa bàn
cụ thể. Trên cơ sở đó, tôi đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ cho
phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn hiện nay và trong tương lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận về bồi thường khi NNTHĐ và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường



5
khi NNTHĐ qua các vụ việc, tình huống cụ thể tại địa bàn quận Tây Hồ - một
đơn vị điển hình có tốc độ đô thị hóa nhanh và mạnh của thành phố Hà Nội.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các
vấn đề chủ yếu sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi NNTHĐ;

- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi
NNTHĐ từ khi LĐĐ năm 2003 có hiệu lực đến nay tại địa bàn quận Tây Hồ.
Qua đó, chỉ ra các quy định phù hợp, chưa phù hợp của pháp luật về bồi
thường khi NNTHĐ, cũng như những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng và nêu nguyên nhân của tình trạng này;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
- Một số vấn đề lý luận về bồi thường khi NNTHĐ;
- Nội dung các quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở Trung ương,
của Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Hà Nội về bồi thường khi NNTHĐ
tại địa bàn quận Tây Hồ từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực đến nay;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ
qua các vụ việc, tình huống cụ thể tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội
từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực đến nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là:
- Về phạm vi đối tượng, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy
định pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ mà cụ thể là các quy định về BT,
HT về đất và tài sản, các chính sách HT và các quy định về TĐC cho hộ gia
đình (HGĐ), cá nhân khi NNTHĐ;



6
- Về phạm vi không gian và thời gian, luận văn nghiên cứu các quy
định về BT, HT về đất và tài sản, hỗ trợ và TĐC cho HGĐ, cá nhân khi
NNTHĐ qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ
khi LĐĐ năm 2003 có hiệu lực đến nay (2010).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hoàn thành luận văn, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm nghiên cứu vấn đề trong trạng thái vận động
biến đổi không ngừng và trong mối quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa
hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng khác, đồng thời các hiện tượng
nghiên cứu luôn được xem xét trong quá trình từ hình thành đến phát triển
qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Bên cạnh đó, tôi cũng dựa trên tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước trong điều kiện xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của luận văn.
Cùng với những phương pháp trên, tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu
thập chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của UBND
thành phố Hà Nội, UBND quận Tây Hồ và các cơ quan liên ngành về BT, HT
và TĐC khi NNTHĐ. Nguồn thông tin này được thu thập chủ yếu qua Công
báo, các trang web của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời, tôi
cũng thông qua các quyết định, báo cáo, ý kiến chỉ đạo của UBND thành phố
Hà Nội, các cơ quan liên ngành, Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng (GPMB)
thành phố, UBND quận Tây Hồ và thông qua các công trình, bài viết, tạp chí,
internet…để lấy thông tin, số liệu liên quan đến pháp luật và thực trạng áp



7
dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ tại địa bàn quận Tây Hồ, thành
phố Hà Nội từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực đến nay.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Phương pháp này được được sử
dụng để tổng hợp và phân tích các quy định của pháp luật về bồi thường khi

NNTHĐ, cũng như các thông tin về thực tiễn áp dụng. Phương pháp này còn
được sử dụng để có được các nhận xét, đánh giá trình bày trong luận văn.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý
các tài liệu, các số liệu mà tôi thu thập trong quá trình khảo sát thực tiễn áp
dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ. Qua đó, tôi có được các số liệu,
thông tin tin cậy trình bày trong luận văn.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này chủ yếu được
thực hiện bằng cách phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ lãnh đạo UBND quận
Tây Hồ, các cán bộ tham gia trực tiếp lập phương án BT, HT và TĐC của Tổ
chức phát triển quỹ đất thuộc Ban chỉ đạo GPMB thành phố Hà Nội và Ban
BT, HT và TĐC quận Tây Hồ, một số chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật về
bồi thường khi NNTHĐ, người bị THĐ, nhà đầu tư…
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy nạp,
so sánh, logic để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nguồn tài liệu tham
khảo cần thiết và đáng tin cậy đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật đất đai
liên quan tới lĩnh vực bồi thường khi NNTHĐ. Đồng thời, luận văn còn có giá
trị tham khảo hữu ích trong công tác giảng dạy và học tập môn học LĐĐ tại
các cơ sở đào tạo cũng như trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ nói riêng.
Bên cạnh đó, các giải pháp mà học viên đưa ra có thể được các cơ quan, tổ



8
chức và cá nhân có thẩm quyền tham khảo và ứng dụng vào thực tiễn công tác
bồi thường, giải phóng mặt bằng (GPMB), hỗ trợ và TĐC.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhìn từ góc độ thực tiễn.



9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG
KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. CÁC VẤN ĐỀ CẦN XÁC ĐỊNH, GIẢI QUYẾT TRONG VIỆC XÂY
DỰNG CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU
HỒI ĐẤT
1.1.1. Các thiệt hại cần xem xét, xác định khi Nhà nƣớc thu hồi
đất để bồi thƣờng, hỗ trợ
Trên phương diện lý luận, thiệt hại về vật chất và tinh thần của người
bị THĐ là hậu quả phát sinh trực tiếp từ việc THĐ của Nhà nước. Trong khi
đó, quyền SDĐ và quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân
đã được Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
ghi nhận và bảo vệ. Do vậy, chúng ta phải xác định đúng, đầy đủ và khách
quan những thiệt hại xảy ra khi Nhà nước THĐ để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế.
Từ đó, các phương án bồi thường “thỏa đáng” được thiết lập trên cơ sở phải
đảm bảo quyền lợi Nhà nước, đảm bảo quyền lợi của NĐT, nhất là đảm bảo
các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị THĐ. Với cách tiếp cận nêu trên,

các thiệt hại mà người bị THĐ có thể phải gánh chịu bao gồm:
Thứ nhất, thiệt hại về công sức đầu tư mà người bị THĐ bỏ ra để làm
tăng giá trị quyền SDĐ. Không những thế, đây còn là thiệt hại về quyền khai
thác và hưởng các lợi ích từ diện tích đất đai do bị Nhà nước thu hồi.
Thứ hai, thiệt hại về tài sản là thành quả lao động và kết quả đầu tư
của người bị THĐ được tạo ra trong quá trình SDĐ, gồm: nhà cửa, các công
trình kiến trúc, cây trồng và các tài sản khác gắn liền với đất.
Thứ ba, thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất, là những chi phí mà người
bị THĐ đã đầu tư vào đất nhằm SDĐ theo mục đích do cơ quan nhà nước có



10
thẩm quyền cho phép mà đến thời điểm NNTHĐ còn chưa thu hồi được. Các
khoản chi phí đầu tư vào đất còn lại phải có đầy đủ hồ sơ, chứng từ, thực tế
chứng minh. Chi phí đầu tư vào đất còn lại được xác định bằng tổng chi phí
hợp lý tính thành tiền đầu tư vào đất trừ đi số tiền tương ứng với thời gian đã
SDĐ. Các khoản chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm: tiền SDĐ của thời hạn
chưa SDĐ trong trường hợp giao đất có thời hạn, tiền thuê đất đã nộp trước
cho thời hạn chưa SDĐ (có chứng từ hóa đơn nộp tiền), chi phí san lấp mặt
bằng, chi phí tôn tạo đất theo hiện trạng của đất khi được giao, được thuê và
phù hợp với mục đích SDĐ và các chi phí khác có liên quan.
Thứ tư, thiệt hại do ngừng việc, ngừng sản xuất kinh doanh khi
NNTHĐ người SDĐ bị mất việc làm hoặc bị ngưng trệ quá trình sản xuất
kinh doanh.
Thứ năm, các thiệt hại vô hình mà người bị THĐ phải gánh chịu như:
chỗ ở mới xa hơn, xa trường học và bệnh viện, chi phí sinh hoạt trong thời
gian học nghề, thời gian và chi phí để chuyển hộ khẩu về nơi ở mới, thời gian
xin chuyển trường học cho con cái, người dân từ chỗ đang có nhà ở hợp pháp
nay lại phải đi thuê nhà hoặc sống tại những căn hộ tạm cư…Các thiệt hại

này, từ trước đến nay chưa được xem xét và định giá để làm căn cứ bồi
thường. Tuy nhiên, Nhà nước cũng chỉ nên đặt ra các tiêu chí và phương pháp
để xác định giá trị của các thiệt hại vô hình, chứ không nên đưa ra một con số
cụ thể. Chính người bị THĐ sẽ là người trực tiếp tính toán những thiệt hại vô
hình của họ, sau đó những giá trị vô hình mà người bị THĐ đã tính toán cần
được thẩm định lại một cách khách quan, toàn diện bởi một cơ quan thẩm
định độc lập.
Lý do Nhà nước phải bồi thường cho người bị THĐ là dựa trên căn cứ
đất đai là “tài sản” đặc biệt mang tính tự nhiên, do tự nhiên tạo ra, tồn tại
trước khi loài người xuất hiện trên trái đất. Hơn nữa, trong quá trình sử dụng,
sự tác động của con người đối với đất đai có thể làm tăng giá trị của đất. Giá



11
trị của đất đai tăng lên có thể gồm rất nhiều nguyên nhân khác nhau, ví như:
do Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội; do công
tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; do chính bản thân người SDĐ đầu tư
về: khoa học kỹ thuật, tiền vốn, lao động, vật tư nhằm cải tạo, bồi bổ và làm
tăng độ màu mỡ của đất trong quá trình sử dụng… Như vậy, phần giá trị tăng
thêm do chính người SDĐ đầu tư mang lại khi NNTHĐ mà gây ra thiệt hại thì
Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy rằng: đất đai là tài nguyên có hạn của
quốc gia, nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng, vì đất đai không chỉ liên
quan trực tiếp đến lợi ích của người SDĐ, của cộng đồng xã hội mà còn ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của Nhà nước. Bởi vậy, khi NNTHĐ, tùy từng
trường hợp cụ thể mà người bị thu hồi sẽ được bồi thường về đất, về tài sản
gắn liền với đất, bồi thường các chi phí vào đất còn lại, bồi thường thiệt hại
do ngừng việc, ngừng sản xuất, bồi thường các thiệt hại vô hình, được hưởng
các chính sách hỗ trợ (hỗ trợ di chuyển, đào tạo và chuyển đổi nghề nghiệp…)

và bố trí TĐC đối với trường hợp phải di chuyển chỗ ở. Đây là vấn đề hết sức
khó khăn, phức tạp và nhạy cảm. Để giải quyết vấn đề này một cách “thấu
tình, đạt lý” thì cần phải xác định đầy đủ, toàn diện, khách quan và đúng các
thiệt hại mà người bị THĐ phải gánh chịu. Ngược lại, khi xác định không
đúng và giải quyết không thấu đáo các vấn đề nêu trên, một mặt các quyền và
lợi ích của người SDĐ sẽ không được đảm bảo, mặt khác nó còn dẫn đến các
hệ lụy khác gây bất ổn về trật tự xã hội, về mặt chính trị cũng như gia tăng sự
nghèo đói của một bộ phận dân cư.
1.1.2. Giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nƣớc, ngƣời bị thu
hồi đất và ngƣời đƣợc hƣởng lợi từ việc thu hồi đất của Nhà nƣớc
Vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
và phát triển kinh tế, Nhà nước phải tiến hành THĐ, nhằm tạo ra quỹ đất để
phục vụ cho các mục tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội và phát triển



12
kinh tế nước nhà. Điều này sẽ không tránh khỏi việc gây ra những thiệt hại về
vật chất, tinh thần cũng như làm ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của người
bị THĐ. Bởi vậy, khi tiến hành THĐ, Nhà nước cần có những biện pháp thỏa
đáng để giải quyết mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, người bị THĐ và
những người được hưởng lợi từ việc THĐ. Dù muốn hay không thì lợi ích
kinh tế vẫn là yếu tố quan trọng chi phối mọi mối quan hệ, do đó Nhà nước
phải đặt vấn đề đồng thuận về quyền lợi giữa các chủ thể này, để có được cơ
chế giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện việc bồi thường,
GPMB một cách có hiệu quả nhất. Theo tôi, bài toán về lợi ích giữa các chủ
thể nêu trên cần được cân nhắc và giải quyết theo hướng sau:
Về phía Nhà nước: tiến hành THĐ là nhằm phân phối lại quỹ đất cho
phù hợp với mục tiêu quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế- xã hội. Thêm
vào đó, với chức năng đại diện cho chủ sở hữu, Nhà nước sẽ thực hiện vai trò

điều tiết các lợi ích kinh tế của các chủ thể liên quan đến việc THĐ chủ yếu
thông qua các chính sách tài chính về đất đai nhằm đem lại nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước.
Về phía người được hưởng lợi từ việc THĐ (NĐT, các tổ chức, cá nhân
khác…): có thể nói những chủ thể này ít nhiều đều được hưởng những lợi ích
nhất định từ hoạt động THĐ của Nhà nước. Trong trường hợp là NĐT, lợi ích
của họ liên quan đến chi phí lập dự án đầu tư, chi phí liên quan đến BT, HT và
TĐC cho người bị THĐ, các khoản đóng góp của họ cho Nhà nước và xã hội.
Do đó, các khoản chi phí này cũng cần phải tính toán và giải quyết một cách
hài hòa, để đảm bảo lợi ích cho NĐT. Mặt khác, Nhà nước phải xác lập được
cơ chế và có các chế tài ràng buộc trách nhiệm của NĐT để tránh hiện tượng vì
lợi ích của chính mình, NĐT sẵn sàng làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của
người bị THĐ, ví như: bồi thường không đúng với diện tích đất thực tế bị thu
hồi, giá đất bồi thường quá thấp so với giá thị trường trong điều kiện chuyển
nhượng bình thường, đặc biệt đối với đất nông nghiệp (ví dụ khi THĐ nông



13
nghiệp để đầu tư khu đô thị, trung tâm thương mại, người bị THĐ được bồi
thường - kể cả hỗ trợ - cao nhất cũng chỉ vài triệu đồng/m
2
; thế nhưng khi đã
xây dựng hạ tầng kỹ thuật xong NĐT có thể chuyển nhượng đất nền với giá từ
30-50 triệu đồng/m
2
), cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tại các khu TĐC
chưa đáp ứng đủ các điều kiện cho người bị THĐ có được chỗ ở bằng hoặc tốt
hơn nơi ở cũ, vấn đề đào tạo và giải quyết việc làm sau khi bồi thường, GPMB
chưa được quan tâm đúng mức. Không chỉ vậy, Nhà nước cũng cần phải xem

xét và giải quyết mối quan hệ về lợi ích giữa người bị THĐ với những người
được hưởng lợi từ việc THĐ sử dụng vào mục đích công cộng như xây dựng
đường giao thông, công viên, trường học, bệnh viện…Vì người bị THĐ có thể
phải di chuyển chỗ ở hoặc bị mất một phần diện tích đất nhất định, nhưng có
những người SDĐ gần khu vực đó không những không bị mất đất mà còn được
hưởng lợi do việc Nhà nước đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội
đã làm tăng giá trị quyền SDĐ của các chủ thể này. Hơn nữa, hiện nay Nhà
nước vẫn chưa có cơ chế nhằm điều tiết một phần giá trị tăng thêm từ đất mà
không phải do người SDĐ đầu tư mang lại, do đó đã tạo ra sự bất bình đẳng
giữa các chủ thể sử dụng đất với nhau và hiển nhiên về phần Nhà nước cũng
mất đi một nguồn thu đáng kể cho ngân sách.
Về phía người bị THĐ: cần nhận thức đầy đủ về lợi ích chung mang lại
cho cộng đồng từ việc THĐ của Nhà nước, do đó khi Nhà nước đã thực hiện
BT, HT và TĐC theo đúng quy định của pháp luật thì họ phải có trách nhiệm
bàn giao mặt bằng đúng thời hạn. Song, thực tế vẫn còn tồn tại nhiều trường
hợp (chủ yếu là khi NNTHĐ vì mục đích phát triển kinh tế) người bị THĐ đã
nhận bồi thường với mức giá thỏa đáng, nhưng họ vẫn cố tình chậm bàn giao
mặt bằng với mục đích sẽ được nhận mức giá bồi thường cao hơn. Vấn đề này
xảy ra một mặt dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo dài, khiếu nại tập thể, khiếu nại
vượt cấp, mặt khác kéo dài thời gian GPMB làm chậm tiến độ triển khai thực
hiện dự án, gây lãng phí, thất thoát rất lớn cho Nhà nước, NĐT và cho xã hội.



14
Như vậy, lợi ích của các chủ thể nêu trên không phải lúc nào đồng
hành sát cánh cùng nhau, nhiều khi các lợi ích đó sẽ xung đột với nhau. Việc
xác định và giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa các bên với nhau trong
quá trình thực hiện bồi thường, GPMB không những tạo ra sự đồng thuận
trong quá trình thực hiện bồi thường, GPMB, mà còn góp phần đảm bảo thực

hiện tốt nguyên tắc công bằng và công khai trong việc SDĐ. Bên cạnh đó, tài
nguyên đất đai của quốc gia cũng được đảm bảo khai thác và sử dụng đúng
mục đích, đạt hiệu quả kinh tế cao, giúp cho mục tiêu phát triển thật sự bền
vững mà không để lại hậu quả xấu cho xã hội trong tương lai. Để dễ hình
dung, tôi xin đưa ra hình vẽ 1.1 dưới đây:






Hình 1.1: Giải quyết hài hòa về lợi ích giữa ba bên khi NNTHĐ
1.2. KHÁI NIỆM BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.2.1. Về cách hiểu thuật ngữ “bồi thƣờng”, cụm từ “bồi thƣờng
khi Nhà nƣớc thu hồi đất”
Để có cách hiểu toàn diện và sâu sắc thuật ngữ “bồi thường”, cụm từ
“bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” ta cần phải xem xét, nghiên cứu trên
nhiều phương diện khác nhau.
Trong đời sống thực tiễn, “bồi thường” được sử dụng trong trường
hợp một người nào đó có hành vi gây thiệt hại cho một người khác phải có
trách nhiệm bồi thường những thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Hình thức
Nhà nước
Người được
hưởng lợi từ việc
THĐ


Người bị THĐ









15
bồi thường có thể là vô hình (xin lỗi) hoặc hữu hình (bồi thường bằng tiền
hoặc bằng hiện vật khác). Việc bồi thường có thể do các quy định của pháp
luật điều chỉnh hoặc do chính sự thỏa thuận giữa các bên.
Về khía cạnh thuật ngữ, “bồi thường” [93, tr. 82] là đền bù bằng tiền
những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà mình phải chịu trách nhiệm: bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng; bồi thường cho gia đình người bị nạn;
bồi thường danh dự…
Trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ thể có hành vi gây ra
thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trách nhiệm này được rất nhiều ngành
luật đề cập, như: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong lĩnh
vực pháp luật dân sự; trách nhiệm bồi thường oan, sai do hành vi của các cơ
quan tố tụng gây ra trong lĩnh vực pháp luật hình sự; trách nhiệm vật chất do hành
vi của người lao động gây ra trong lĩnh vực pháp luật lao động… [61, tr. 15].
Riêng lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ “bồi thường” khi NNTHĐ
(trước đây là bồi thường thiệt hại hay đền bù thiệt hại) được ghi nhận từ rất
sớm. Tại Nghị định 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ quy
định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại Chương II đã đề cập việc
“bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”. Tiếp theo, LĐĐ năm
1987 ra đời, cùng với đó là sự ra đời của các văn bản hướng dẫn thi hành, lúc
này thuật ngữ “bồi thường” đã bị thay thế bởi thuật ngữ “đền bù”. Sau đó,
thuật ngữ “đền bù thiệt hại” lại được tiếp tục sử dụng trong LĐĐ năm 1993,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của LĐĐ năm 1998 và các văn bản hướng
dẫn thi hành. Tuy nhiên, kể từ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của LĐĐ

năm 2001, tại Điều 1, Khoản 9 (sửa đổi, bổ sung Điều 27, LĐĐ năm 1993,
thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và thay thế thuật ngữ “đền bù”.
Thuật ngữ “bồi thường” tiếp tục được sử dụng tại LĐĐ năm 2003 và các văn
bản hướng dẫn thi hành mà tiêu biểu là Nghị định (NĐ) số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03/12/2004 của Chính phủ quy định về BT, HT và tài định cư khi



16
NNTHĐ (sau đây gọi tắt là NĐ số 197/2004/NĐ-CP); NĐ số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, THĐ, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục
BT, HT, TĐC khi NNTHĐ và giải quyết khiếu nại về đất đai (sau đây gọi tắt
là NĐ số 84/2007/NĐ-CP); NĐ số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của
Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, THĐ, BT, HT
và TĐC (sau đây gọi tắt là NĐ số 69/2009/NĐ-CP). Có thể thấy rằng: việc sử
dụng thuật ngữ “bồi thường” từ khi có LĐĐ năm 2003 đến nay, đã thể hiện
hàm ý đây là quan hệ bồi thường ngang giá và sòng phẳng.
Đề cập khái niệm này Khoản 6, Điều 4, LĐĐ năm 2003 đưa ra cách giải
thích như sau: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá
trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”.
Tóm lại, bồi thường khi NNTHĐ chỉ diễn ra khi Nhà nước thu hồi một
diện tích đất nào đó để chuyển sang một mục đích sử dụng khác vì lợi ích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Thực
chất, đây chính là việc giải quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với người
bị THĐ và NĐT. Do đó, việc bồi thường khi NNTHĐ phải thực hiện theo quy
định của Nhà nước về giá đất; về điều kiện được BT, HT và TĐC; về trình tự,
thủ tục BT, HT và TĐC; về nguyên tắc thực hiện BT, HT và TĐC Cũng cần
phải nhấn mạnh rằng, việc bồi thường khi NNTHĐ không giống với việc bồi
thường thiệt hại trong lĩnh vực pháp luật dân sự, hình sự, lao động. Bởi lẽ, nó

không những phải đảm bảo lợi ích của người bị THĐ, mà còn phải đảm bảo lợi
ích của Nhà nước, của xã hội và của người nhận lại quyền SDĐ đã thu hồi.
1.2.2. Đặc điểm và tính chất của việc bồi thƣờng khi Nhà nƣớc thu
hồi đất
1.2.2.1. Đặc điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Để tìm hiểu khái niệm bồi thường khi NNTHĐ, chúng ta có thể tiếp
cận dựa trên các đặc điểm sau đây:



17
Về đối tượng được bồi thường, NNTHĐ vì mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, những chủ thể
SDĐ được bồi thường là: HGĐ, cá nhân, tổ chức trong nước, tổ chức nước
ngoài, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài về đầu tư tại Việt Nam…, nếu thỏa mãn các điều kiện (có giấy chứng
nhận, có một trong các loại giấy tờ về quyền SDĐ hoặc các điều kiện khác mà
pháp luật đất đai hiện hành quy định).
Về phạm vi bồi thường, chỉ khi NNTHĐ để sử dụng vì mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, người
SDĐ mới được bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất, các thiệt hại do
ngừng việc, ngừng sản xuất kinh doanh, các chi phí và công sức đầu tư vào
đất mà chưa thu hồi được, các thiệt hại vô hình. Bên cạnh đó, tùy theo từng
trường hợp cụ thể Nhà nước sẽ thực hiện các chính sách hỗ trợ và thực hiện
TĐC nhằm ổn định đời sống, sản xuất và thu nhập cho người bị THĐ, qua đó
góp phần giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh sau bồi thường, GPMB.
Về giá đất bồi thường, giá đất là công cụ kinh tế để Nhà nước thực hiện
vai trò quản lý về đất đai, đồng thời giá đất còn là cơ sở để người SDĐ tiếp cận
với cơ chế thị trường. Không chỉ vậy, giá đất còn là căn cứ để đánh giá sự công
bằng trong việc phân phối và phân phối lại đất đai của Nhà nước. Do đó, Nhà

nước luôn là người chủ động trong việc xác định giá đất bồi thường dựa trên các
căn cứ khoa học và tôn trọng giá đất hình thành trên thị trường trong điều kiện
bình thường của thửa đất. Việc quy định như vậy là vì đất đai thuộc sở hữu toàn
dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, bản thân người SDĐ không phải là chủ
sở hữu đối với từng diện tích đất riêng lẻ mà họ đang sử dụng, trong tình huống
này, họ chỉ là chủ sử dụng được Nhà nước trao quyền thông qua giao, cho thuê,
công nhận quyền SDĐ hoặc cho phép nhận chuyển quyền.
Các phương pháp tiến hành, trong điều kiện kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN, việc bồi thường khi NNTHĐ cần phải sử dụng kết hợp



18
phương pháp hành chính và phương pháp thỏa thuận nhằm tạo ra sự mềm
dẻo, linh hoạt, tránh sự cứng nhắc, máy móc. Hơn thế, việc bồi thường khi
NNTHĐ là một trong những vấn đề nhạy cảm và có ý nghĩa quan trọng về
chính trị, lịch sử, kinh tế và xã hội. Cho nên, cần phải giải quyết hài hòa mối
quan hệ lợi ích giữa ba bên Nhà nước - người bị THĐ và người nhận lại
quyền SDĐ đã thu hồi thông qua việc sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp
như: phương pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục; phương pháp kinh tế;
phương pháp cưỡng chế.
1.2.2.2. Tính chất của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Bồi thường khi NNTHĐ là một quá trình phức tạp, liên quan trực tiếp
đến lợi ích của các chủ thể tham gia và lợi ích của toàn xã hội; Song, vấn đề
này lại được thể hiện khác nhau tùy theo từng dự án có nhu cầu SDĐ. Vì lẽ
đó, việc bồi thường khi NNTHĐ sẽ thể hiện ở một số tính chất cơ bản sau:
Tính phức tạp, “đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư
liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường
sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh và quốc phòng” [37]. Do đó, đất đai thực sự đóng vai trò rất

quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của mọi người dân và trong quá
trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Ở khu vực nông thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản
xuất nông nghiệp với đất đai là tư liệu sản xuất không thể thiếu, trong khi
trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khó
khăn. Do đó, tâm lý chung của người dân là muốn giữ đất để sản xuất.
Đối với đất ở, nhất là đất ở tại khu vực đô thị, đây được xem là quyền
tài sản có giá trị lớn, gắn trực tiếp với đời sống sinh hoạt của người dân, đặc
biệt là đối với các chủ thể sản xuất - kinh doanh thì vị trí của thửa đất còn gắn
liền với thu nhập của họ. Bên cạnh đó, chính sách pháp luật về đất đai trong
thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, đã vậy hoạt động

×