Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.71 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN HUY NAM

THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN HUY NAM

THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Huệ



HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ trong
luận văn là trung thực. Những kết luận trong luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI

BLDS

Bộ luật Dân sự

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐXX

Hội đồng xét xử


GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

TKQSDĐ

Thừa kế quyền sử dụng đất

LĐĐ

Luật Đất đai


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục viết tắt
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. ..1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT
1.1. Khái niệm thừa kế và thừa kế quyền sử dụng đất .............................................. 6
1.1.1. Khái niệm thừa kế, quyền thừa kế .................................................................. 6
1.1.1.1. Thừa kế ....................................................................................................... 6

1.1.1.2. Quyền thừa kế ............................................................................................. 7
1.1.1.3. Quyền thừa kế trong mối quan hệ với quyền sở hữu .................................... 8
1.1.2. Khái niệm về thừa kế quyền sử dụng đất ........................................................ 8
1.1.2.1. Khái niệm quyền sử dụng đất ...................................................................... 8
1.1.2.2. Đặc điểm của quyền sử dụng đất............................................................... 11
1.1.2.3. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất........................................................ 12
1.2. Đặc điểm của thừa kế quyền sử dụng đất ........................................................ 13
1.2.1. Đặc điểm chung ........................................................................................... 13
1.2.2. Đặc điểm riêng của thừa kế quyền sử dụng đất ............................................ 14
1.3. Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất ................................................................ 17
1.4. Ý nghĩa của quy định về thừa kế quyền sử dụng đất………………………………….20

1.5. Lược sử quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất ........................ 21
1.5.1. Thời kỳ trước Luật Đất đai năm 1993 .......................................................... 21
1.5.1.1. Giai đoạn phong kiến và chế độ thực dân ................................................. 21
1.5.1.2. Giai đoạn sau cách mạng tháng 8 đến trước Luật Đất đai năm 1993 ........ 22
1.5.2. Thời kỳ sau Luật Đất đai năm 1993 đến trước Luật Đất đai năm 2003 ......... 24
1.5.3. Thời kỳ sau Luật Đất đai năm 2003 đến trước Luật Đất đai năm 2013 ......... 24
1.5.4. Thời kỳ sau Luật Đất đai năm 2013 cho đến nay.......................................... 26


Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất
tại Việt Nam……………………………………………………………………….28
2.1. Chủ thể để lại di sản thừa kế là quyền sử dụng đất .......................................... 28
2.1.1. Cá nhân........................................................................................................ 28
2.1.2. Hộ gia đình .................................................................................................. 29
2.2. Chủ thể hưởng thừa kế quyền sử dụng đất ...................................................... 32
2.3. Các loại quyền sử dụng đất là di sản thừa kế ................................................... 37
2.4. Thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc ......................................................... 46
2.5. Thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật ...................................................... 52

2.5.1. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật .................................................... 53
2.5.2. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật ............................................................ 54
2.5.2.1. Diện thừa kế ............................................................................................. 54
2.5.2.2. Hàng thừa kế ............................................................................................ 54
2.5.3. Thừa kế thế vị .............................................................................................. 55
2.6. Các quy định riêng về thừa kế quyền sử dụng đất của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài.......................................................................................................... 57
2.7. Trình tự thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất ........................................ 60
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất và kiến nghị hoàn
thiện hệ thống pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất …………………………………..65

3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất ........................ 65
3.1.1. Các nguyên nhân cơ bản dẫn đến tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất . 65
3.1.1.1. Kinh tế - xã hội ......................................................................................... 65
3.1.1.2. Cơ sở pháp luật......................................................................................... 66
3.1.1.3. Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người dân .......................... 67
3.1.2. Một số vụ án về thừa kế quyền sử dụng đất.................................................. 68
3.1.2.1 Vụ án thứ nhất: .......................................................................................... 68
3.1.2.2. Vụ án thứ hai: ........................................................................................... 73
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất .... 80
3.2.1. Về hộ gia đình sử dụng đất và thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất 81
3.2.2. Về xác định đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong
trường hợp thừa kế theo Điều 168 Luật Đất đai năm 2013 ..................................... 82


3.2.3. Về hình thức của di chúc.............................................................................. 83
3.2.4. Về vấn đề di chúc chung vợ chồng............................................................... 83
3.2.5. Về năng lực chủ thể của người để lại di sản thừa kế ..................................... 84
3.2.6. Về vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng, di tặng ......................................... 84
3.2.7. Về vấn đề từ chối nhận di sản thừa kế .......................................................... 85

3.2.8. Về nhân suất để tính 2/3 suất của người thừa kế theo pháp luật cho những
người hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc ....................... 85
3.2.9. Về vấn đề ghi tên một người trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ......................................................... 86
3.2.10. Về quy định người thừa kế tại Điều 635 ..................................................... 87
3.2.11. Về quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm.............................................. 87
3.3. Những giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về thừa
kế quyền sử dụng đất ............................................................................................. 88
3.3.1. Xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp, đầy đủ và đồng bộ ........................... 88
3.3.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật ........................ 88
3.3.3. Tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ hành chính
và tư pháp .............................................................................................................. 89
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong quan hệ pháp luật dân sự mọi chủ thể đều có quyền để lại tài sản thừa
kế và đều có quyền nhận thừa kế tài sản mà người khác để lại. Quyền thừa kế chính
là một trong những quyền thể hiện đặc trưng của quan hệ pháp luật dân sự về tự do
ý chí và định đoạt đối với tài sản. Chính vì vậy, kể từ khi có luật pháp quyền thừa
kế đã được ghi nhận là một trong những quyền cơ bản trong pháp luật các quốc gia.
Đất đai được coi là tài sản, dù ở bất kỳ quốc gia nào theo chế độ công hữu
hay tư hữu thì đất đai được coi là một trong những loại tài sản đặc biệt. Chính vì ý
nghĩa đặc biệt của đất đai đối với chính trị, kinh tế, xã hội mà đất đai luôn có một
chế độ pháp lý riêng biệt trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia. Đất đai là loại tài
sản có liên quan đến mọi chủ thể từ cá nhân đến pháp nhân, tồn tại lâu hơn rất nhiều

so với sự tồn tại của mỗi cá nhân và pháp nhân. Chính vì vậy, bảo đảm cho việc
định đoạt tài sản (đặc biệt là QSDĐ) phù hợp với ý chí của người để lại di sản đồng
thời đảm bảo được lợi ích của những người liên quan và lợi ích toàn xã hội là vấn
đề quan trọng và phức tạp đối với mỗi hệ thống pháp luật do chính sách đất đai ở
mỗi quốc gia, thậm chí trong một quốc gia nhưng ở các thời kỳ là khác nhau.
Ở nước ta, có thể nhận thấy rất rõ sự khác biệt về chính sách đất đai kể từ khi
giành được chính quyền (1945) cho đến nay. Thông qua các bản Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 có thể nhận thấy sự thay đổi rõ
rệt này. Tuy nhiên, dù có sự biến động nhưng từ Hiến pháp cho đến nhưng quy định
cụ thể của BLDS và LĐĐ đều khẳng định quyền thừa kế của các chủ thể trong quan
hệ pháp luật dân sự. Đất nước ta đang bước vào giai đoạn đổi mới sâu sắc và toàn
diện so với lần đổi mới 30 năm trước đây (1986), chúng ta đã và đang tham gia vào
các diễn đàn kinh tế lớn của thế giới. Với những biến chuyển mạnh mẽ của nền kinh
tế thị trường, đất đai đã trở thành một loại hàng hóa. Sự chuyển biến này đã ngày
càng làm cho tính chất phức tạp của các quan hệ pháp luật có liên quan đến QSDĐ.
Thực tế từ hoạt động tư pháp và hành chính đều cho thấy có quá nhiều những vụ
việc tranh chấp về đất đai trong đó có tranh chấp về thừa kế đất đai ở hầu hết các
địa phương trong cả nước. Việc giải quyết các tranh chấp này không hề dễ dàng vì


2

ngoài yếu tố pháp luật (đạt lý) thì phải đảm bảo được các mối quan hệ giữa những
người có liên quan (thấu tình) vì tranh chấp của họ đa phần là giữa những chủ thể
có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với nhau. Vì vậy, có thể nói
nghiên cứu về thừa kế nói chung và TKQSDĐ nói riêng là vấn đề cần thiết trong
giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế là một vấn đề không mới nhưng những đề tài, những công trình
nghiên cứu về thừa kế luôn là vấn đề được bàn luận sôi động. Cho đến nay cũng đã

có nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau về thừa kế nói chung và
TKQSDĐ nói riêng. Một số các công trình như: Chế định thừa kế theo di chúc,
Luận án tiến sĩ Luật học của Phạm Văn Tuyết, 2005; Tìm hiểu các quy định của
pháp luật về thừa kế, Dương Bạch Long và Nguyễn Xuân Anh, Nxb Chính trị Quốc
gia, 2005; Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế trong
BLDS, Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Minh Tuấn, 2007; Thừa kế theo quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, TS. Phạm Văn Tuyết, Nxb Chính trị Quốc
gia, 2007; Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật
học của Trần Thị Huệ, 2007; Luật thừa kế Việt Nam, TS.Phùng Trung Tập, Nxb Hà
Nội, 2008. Đây là những công trình tiêu biểu về thừa kế nhưng lại tập trung chủ yếu
về những quy định chung về thừa kế hoặc một số vấn đề cụ thể như thừa kế theo di
chúc hoặc thừa kế theo pháp luật hay về di sản thừa kế.
Ở một mức độ thấp hơn là các khóa luận tốt nghiệp của trường Đại học Luật
Hà Nội, khoa luật Đại học Quốc Gia hoặc các bài viết dưới dạng chuyên đề trên một
số tạp chí nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu hoặc đưa ra những nội dung
mang tính chất gợi mở vấn đề.
Nói như vậy, để nói rằng việc nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ
thống về TKQSDĐ là việc làm hết sức cần thiết. Do vậy, học viên đã lựa chọn đề
tài “Thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam” để làm luận văn cao học
luật của mình nhằm đưa ra cái nhìn tổng quát và toàn diện, bổ sung những vấn đề lý
luận và thực tiễn về TKQSDĐ ở nước ta.


3

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định về TKQSDĐ trong hệ
thống pháp luật nước ta. Dựa vào tính chất đặc thù của loại di sản này là QSDĐ,
nên quan hệ TKQSDĐ vừa có những đặc điểm của một quan hệ thừa kế thông

thường lại vừa mang những nét đặc biệt riêng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các vấn đề sau:
- Các vấn đề lí luận chung về thừa kế, TKQSDĐ theo quy định của pháp luật
Việt Nam, đặc điểm riêng của QSDĐ và tính đặc thù của TKQSDĐ.
- Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về TKQSDĐ,
đặc biệt là các quy định của BLDS 2005, LĐĐ 2013 và BLDS 2015 mới được ban
hành cùng với các văn bản hướng dẫn liên quan.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về
TKQSDĐ. Từ thực tiễn áp dụng, lí giải nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp
TKQSDĐ, đánh giá những thành tựu và chỉ ra những hạn chế yếu kém còn tồn tại,
để từ đó đưa ra ý kiến, giải pháp hoàn thiện pháp luật nước ta về TKQSDĐ.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Các quy định của pháp luật nói chung và quy định về TKQSDĐ nói riêng
luôn thay đổi theo sự vận động và phát triển của xã hội. Mục tiêu nghiên cứu của
luận văn là để làm rõ vấn để TKQSDĐ (tài sản đặc biệt) trong hệ thống pháp luật
nước ta. Thông qua các phân tích và đánh giá về các quy định của pháp luật để làm
sáng tỏ hơn các vấn đề về lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về
TKQSDĐ. Kết quả của quá trình nghiên cứu cũng là đưa ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật về TKQSDĐ ở nước ta.
5. Câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Việc thực hiện luận văn nhằm trả lời những câu hỏi sau:


4

Thế nào là TKQSDĐ?
TKQSDĐ được quy định như thế nào trong hệ thống pháp luật nước ta?
Hạn chế của những quy định về TKQSDĐ và định hướng hoàn thiện?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

Để thực hiện luận văn này, tác giả đã sử dụng các phương pháp: phương
pháp thống kê, tổng hợp; phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp; phương pháp so
sánh, phương pháp lịch sử ....
Ngoài ra, một số những vấn đề khoa học đã được các tác giả, nhà nghiên cứu
trước đó thực hiện được tác giả sử dụng tham khảo. Bên cạnh đó tác giả cũng sử
dụng một số nghiên cứu về phong tục tập quán ở Việt Nam có liên quan đến
TKQSDĐ để làm phong phú cho luận văn của mình.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu, tìn hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam về TKQSDĐ có ý
nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn.
Về mặt khoa học: Luận văn nghiên cứu, phân tích và đánh giá các quy định
của pháp luật; bổ sung lí thuyết cho bộ môn khoa học; làm rõ hơn một số lí thuyết
còn vướng mắc đang tồn tại; hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật để dễ
dàng áp dụng trong thực tế.
Về mặt thực tiễn: Luận văn là kết quả nghiên cứu khoa học và thực tiễn
mang tính tổng hợp, thể hiện sự hiểu biết của người nghiên cứu. Bởi vậy, luận văn
chỉ ra được những những nguyên nhân, những vướng mắc khi áp dụng pháp luật để
từ đó có sự hoàn thiện hơn, giải quyết những “lỗ hổng” của pháp luật, có sự tác
động qua lại về mặt khoa học.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của
luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thừa kế và thừa kế quyền sử dụng đất


5

Chương 2. Thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất
tại Việt Nam
Chương 3. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất và

kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất


6

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Khái niệm thừa kế và thừa kế quyền sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm thừa kế, quyền thừa kế
1.1.1.1. Thừa kế
Thừa kế và sở hữu là những phạm trù kinh tế xuất hiện sớm nhất cùng với sự
xuất hiện và phát triển của xã hội loài người. Ở thời kỳ sơ khai, khi còn chưa có nhà
nước và pháp luật, thừa kế đã tồn tại với tư cách một quan hệ xã hội phát sinh gắn
liền với việc chuyển giao tài sản của người đã chết cho những người còn sống dựa
trên quan hệ huyết thống và theo tập tục của từng thị tộc. Nhờ có thừa kế mà tài sản
được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nghiên cứu về vấn đề này
Ph.Ăngghen đã viết: “Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ
kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới được thừa kế
những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại
không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó
cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc
với người mẹ”.1
Trong thời kỳ thị tộc, dù chỉ là nền sản xuất giản đơn dựa vào săn bắn và hái
lượm quan hệ sở hữu đã tồn tại. Như C.Mác đã chỉ ra: “Bất cứ một nền sản xuất
nào cũng là việc con người chiếm hữu những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi
một hình thái xã hội nhất định và thông qua hình thức đó”. Và: “Nơi nào không có
một hình thái sở hữu nào cả thì nơi đó không thể có sản xuất và do đó cũng không
có một xã hội nào cả”. Vì vậy, có thể khẳng định rằng: thừa kế và sở hữu đã xuất
hiện với tư cách là những yếu tố khách quan cùng với sự ra đời và phát triển của xã
hội loài người.

Khi xã hội loài người có sự phân hóa mạnh mẽ để tạo tiền đề cho sự ra đời
của Nhà nước và pháp luật thì cũng là lúc quan hệ thừa kế xuất hiện với tư cách là
một quan hệ pháp luật. Thông qua pháp luật, quan hệ thừa kế được cụ thể hóa trên
1

Ph.Ăng ghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.179.


7

cơ sở các quy phạm pháp luật trong đó chỉ rõ các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
cũng như trình tự dịch chuyển tài sản từ người chết sang người còn sống và được
đảm bảo thực hiện bằng chính pháp luật. Thừa kế từ một phạm trù mang tính khách
quan đã trở thành một phạm trù mang tính chủ quan chịu ảnh hưởng của những điều
kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở các quốc gia. Thừa kế trở thành công cụ để
chuyển giao quyền lực, tiếp tục xác lập quyền thống trị của giai cấp thống trị trong
xã hội. Quyền thừa kế xuất hiện và phát triển cùng với sự phát triển của quyền sở
hữu trong sự phát triển của xã hội loài người.
1.1.1.2. Quyền thừa kế
Quyền thừa kế xuất hiện khi xã hội có Nhà nước và giai cấp, là một bộ phận
của chế định thừa kế trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.
Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa khách quan là một phạm trù pháp lý bao gồm
các quy phạm pháp luật quy định trình tự, điều kiện, hình thức dịch chuyển tài sản
từ người chết sang người còn sống đồng thời bảo vệ quyền của người để lại di sản
và người hưởng di sản thừa kế hay quyền thừa kế là pháp luật về thừa kế. Trong ý
nghĩa này: “Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di
chúc hoặc theo một trình tự nhất định đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ
và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế” 2. BLDS năm
2005 và BLDS năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 tới đây) vẫn để thừa kế là

một phần trong kết cấu của nó.
Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa chủ quan là các quyền năng dân sự cụ thể của
người để lại di sản và người nhận di sản được pháp luật bảo vệ. Các quyền năng
được ghi nhận và bảo đảm thực hiện theo các quy định của pháp luật trong đó có
pháp luật về thừa kế. Hiểu theo nghĩa này, các chủ thể của quyền thừa kế có những
quyền và nghĩa vụ nhất định: người có tài sản có thể định đoạt tài sản của mình cho
người khác, người có quyền nhận di sản có thể nhận hoặc từ chối nhận di sản thừa
kế của người có tài sản để lại và mỗi người đều có quyền ngang nhau đối với các
quyền và nghĩa vụ đó.
2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập một, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, tr.288-289.


8

Xét một cách tổng quát, dù hiểu theo nghĩa khách quan hay chủ quan quyền
thừa kế chỉ phát sinh khi người chết có di sản để lại cho những người có quyền
hưởng di sản theo quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Quyền thừa kế trong mối quan hệ với quyền sở hữu
Quyền thừa kế và quyền sở hữu là những phạm trù pháp lý, chúng tồn tại
song song với nhau trong các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người. Quyền sở
hữu chính là tiền đề của quyền thừa kế bởi pháp luật quy định cho con người có
quyền sở hữu tài sản thì con người mới có thể định đoạt được tài sản mà mình sở
hữu theo quy định về thừa kế. Ở chiều ngược lại quyền thừa kế được coi như là
cách thức để bảo về quyền sở hữu của mỗi cá nhân. Thông qua việc được tự do định
đoạt tài sản của mình cho người khác mà không phụ thuộc vào ý chí của người khác
tài sản thuộc sở hữu của mỗi cá nhân được bảo vệ tuyệt đối. Quyền thừa kế luôn có
mối quan hệ mật thiết và gắn bó chặt chẽ với quyền sở hữu dù ở trong bất kỳ một

hình thái kinh tế - xã hội nào.
Trong các hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp thống trị, thừa kế chịu ảnh
hưởng bởi ý chí của giai cấp cầm quyền. Thừa kế là biện pháp để củng cố mạnh mẽ
chế độ sở hữu tư nhân nhằm duy trì sự bóc lột và địa vị xã hội cho những người
thừa kế. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, khi không còn giai cấp thống trị và bị trị,
thừa kế trở thành phương tiện để củng cố và bảo vệ quyền sở hữu của mỗi công dân,
đảm bảo cho mọi người đều được bình đẳng trước pháp luật. Mọi công dân đều có
quyền để lại thừa kế những tài sản thuộc sở hữu của mình cho người khác. Nhà
nước không những không hạn chế về quyền thừa kế mà còn bảo vệ tuyệt đối quyền
thừa kế của mỗi công dân (các trường hợp truất quyền hưởng di sản thừa kế, không
được hưởng di sản thừa kế...).
1.1.2. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất
1.1.2.1. Khái niệm quyền sử dụng đất

Chế độ sở hữu đất đai ở các nước theo con đường tư bản chủ nghĩa là đa sở
hữu trong đó có cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước. Do vậy, tài sản là đất đai
thuộc sở hữu tư nhân không khác so với những tài sản khác. Tuy nhiên, ở Việt Nam
mô hình xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng dựa trên chế độ công hữu về


9

tư liệu sản xuất. Theo đó Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng
biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý”. Do vậy, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, các chủ thể sử dụng đất
được Nhà nước (đại diện cho toàn dân) trao cho một số quyền để sử dụng và khai
thác lợi ích từ đất. BLDS năm 2005 xác định: “Người không phải chủ sở hữu chỉ có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình

theo thỏa thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật” và
“Các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản bao gồm: QSDĐ
...”. Vì vậy, các chủ thể sử dụng đất chỉ có QSDĐ chứ không có quyền sở hữu đất.
QSDĐ được hiểu là quyền của chủ thể trong việc sử dụng và khai thác các
công dụng đối với đất. Cách hiểu này không hẳn là chính xác nhưng xét trong hệ
thống pháp luật Việt Nam từ khi giành độc lập cho đến nay, mặc dù đã trải qua
nhiều lần ban hành, sửa đổi hệ thống pháp luật dân sự nói chung và đất đai nói
riêng, khái niệm này vẫn chưa được xây dựng và luật hóa để có thể sử dụng một
cách chuẩn xác.
Thực tế hiện nay, QSDĐ đang được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới
góc độ khoa học pháp lý, QSDĐ là một quyền năng của các chủ thể. Về góc độ này,
“QSDĐ là quyền khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để phục vụ cho các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước”3. Khái niệm này gần giống với khái
niệm quyền sử dụng đất đai của Nhà nước trong Từ điển giải thích thuật ngữ luật
học: “Quyền khai thác các thuộc tính có ích từ đất để phục vụ cho các mục đích
phát triển kinh tế và đời sống xã hội” bên cạnh khái niệm QSDĐ của tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân: “quyền khai thác các thuộc tính có ích từ đất nhằm thỏa mãn nhu
cầu của người sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất”. Có ý kiến cho rằng khái
niệm về QSDĐ như vậy là không đầy đủ khi không bao hàm cả nhu cầu của người
sử dụng đất. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện có thể nhận thấy rằng Nhà nước với
tư cách đại diện chủ sở hữu đất đai, không phải là đối tượng trực tiếp sử dụng đất.
3

Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.92.


10

Thông qua quyền năng của chủ sở hữu, Nhà nước trao lại QSDĐ cho các tổ chức,
cá nhân, hộ gia đình sử dụng theo kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất của Nhà nước

đã xây dựng và ban hành. Và giá trị cốt lõi cuối cùng là các chủ thể sử dụng đất đều
được thỏa mãn nhu cầu cũng như đem lại cho họ những lợi ích vật chất cụ thể từ sự
phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước.
Dưới góc độ kinh tế, QSDĐ được coi là hàng hóa, một loại hàng hóa đặc
biệt. Với chế độ pháp lý về đất đai là thuộc sở hữu toàn dân, mỗi chủ thể có QSDĐ
khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất không phải là chủ sở hữu đất. Vậy làm thế
nào để dịch chuyển QSDĐ, coi đất là một loại hàng hóa trong nền kinh tế. Thực tiễn
cho thấy khi đất đai được đưa vào lưu thông dân sự thì các chủ thể tham gia quan
tâm tới nó không phải là nó thuộc sở hữu của Nhà nước hay của cá nhân nào mà
chính là quyền khai thác, sử dụng và thực hiện các giao dịch đối với nó như thế nào.
Đó mới là những nội dung quyết định đến giá trị sử dụng và giá cả của đất đai trên
thị trường về QSDĐ. QSDĐ với tư cách là một loại hàng hóa được lưu thông trong
thị trường này. Việc dịch chuyển QSDĐ giữa các chủ thể trên thị trường xét cho
đến cùng là nhằm mục đích đem lại lợi ích vật chất cho các chủ thể tham gia và
thông qua đó đóng góp những lợi ích gián tiếp cho Nhà nước, xã hội.
Dưới góc độ thực tiễn pháp lý, QSDĐ là một chế định quan trọng của hệ
thống pháp luật đất đai, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng đất như: căn cứ phát sinh; cách thức thực
hiện hiện quyền, nghĩa vụ; tranh chấp và giải quyết tranh chấp ...
Tại Điều 192 BLDS năm 2005 đưa ra khái niệm về quyền sử dụng: “Quyền
sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi ích từ tài sản”. LĐĐ năm
2013 cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về QSDĐ. BLDS năm 2015 (có hiệu lực
ngày 01/01/2017 tới đây) khi quy định về quyền tài sản: “Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
QSDĐ và các quyền tài sản khác” đã ghi nhận QSDĐ là một loại quyền tài sản hay
nói cách khác QSDĐ là quyền có thể trị giá được bằng tiền. LĐĐ năm 2013 hiện
hành cũng không đưa ra khái niệm về QSDĐ mà chỉ định nghĩa về một số thuật ngữ
liên quan tại Điều 3 như: chuyển QSDĐ, giá trị QSDĐ … Ví dụ giá trị QSDĐ được



11

hiểu là: “giá trị bằng tiền của QSDĐ đối với một diện tích đất xác định trong thời
hạn sử dụng đất xác định”. Như vậy, quyền sử dụng đất có thể được hiểu là: quyền
tài sản của chủ thể sử dụng đất thể hiện quyền năng đối với đất đai có thể trị giá
bằng tiền và được lưu thông dân sự.
1.1.2.2. Đặc điểm của quyền sử dụng đất
Nhà nước ta với bản chất là nhà nước của dân, do dân, vì dân nên đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Việc Nhà nước đứng ra làm
đại diện cho chủ sở hữu đất đai sẽ tạo điều kiện thực hiện công bằng xã hội, tránh
đầu cơ tích trữ đất đai và tình trạng người bóc lột người. Nhà nước thực hiện các
quyền của chủ sở hữu thông qua các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Tuy
nhiên, Nhà nước không thể tự mình thực hiện quyền năng này mà giao QSDĐ cho
người dân sử dụng lâu dài, ổn định. Bởi vậy, QSDĐ có những đặc điểm rất riêng
biệt, cụ thể:
QSDĐ là một tài sản. Bản chất của thừa kế là việc dịch chuyển tài sản thuộc sở
hữu của người hết sang cho người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật. Theo quy
định tại Điều 163 BLDS năm 2005: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản”. Như vậy, QSDĐ là một quyền tài sản cho nên người được giao đất có
quyền lập di chúc cho người khác hưởng TKQSDĐ của mình hoặc để lại thừa kế theo
pháp luật cho những người thừa kế. QSDĐ là một loại tài sản đặc biệt, bởi nó là tài sản
của một chủ thể duy nhất được quyền sở hữu, đó là Nhà nước. Người sử dụng đất, tuy
không phải là chủ sở hữu nhưng lại có gần như đầy đủ các quyền tương tự như các
quyền của một chủ sở hữu tài sản. Chính vì thế, TKQSDĐ không hoàn toàn giống như
thừa kế các tài sản khác thuộc sở hữu của cá nhân.
QSDĐ là một quyền năng phái sinh trên cơ sở quyền sở hữu. Trong mối
quan hệ với quyền sở hữu đất đai thì QSDĐ thực chất là một hình thức thực hiện
quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai. Nhà nước là đại diện của nhân dân, thay mặt
nhân dân thực hiện quyền năng của chủ sở hữu thông qua việc giao đất, cho thuê đất
đối với chủ sử dụng. QSDĐ đối với Nhà nước là quyền năng của chủ sở hữu, còn

đối với các cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước giao đất cho thuê đất là quyền sở
hữu QSDĐ.


12

QSDĐ là một quyền dân sự đặc thù. QSDĐ là quyền khai thác những giá trị
sử dụng của đất đai nhằm thỏa mãn những nhu cầu về sinh hoạt vật chất hoặc tinh
thần cho bản thân mình trong phạm vi pháp luật cho phép. Con người dựa vào tính
năng của đất đai mà khai thác nó phục vụ cho những nhu cầu trong sản xuất, kinh
doanh. Nói QSDĐ là một quyền dân sự đặc thù vì đó là quyền tài sản gắn liền với
một tài sản không phải của chủ sở hữu tài sản; Quyền năng của chủ thể bị hạn chế ở
một phạm vi nhất định và hình thức, thủ tục thực hiện các quyền năng của người sử
dụng đất được pháp luật quy định rất chặt chẽ.
QSDĐ là di sản thừa kế thể hiện dưới dạng quyền. Theo quy định tại Điều
634 BLDS năm 2005 thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản trong khối tài sản chung với người khác”. Như đã phân tích ở trên QSDĐ là tài
sản nên nó thuộc di sản thừa kế theo quy định của BLDS. Tuy nhiên QSDĐ không
giống với các di sản bình thường khác:
Thứ nhất, di sản QSDĐ thuộc đối tượng điều chỉnh đồng thời bởi BLDS và
LĐĐ. Để thừa kế di sản là QSDĐ cần tuân theo những quy định chung về thừa kế
của BLDS: các nguyên tắc thừa kế; các quy định để di chúc được coi là hợp pháp
hoặc những quy định về hàng thừa kế, thừa kế thế vị…Đồng thời, phải tuân thủ
những quy định theo phương pháp hành chính mệnh lệnh phục tùng của LĐĐ như
phải có giấy chứng nhận, đất không có tranh chấp trong thời hạn sử dụng đất, điều
kiện đối với người thừa kế theo di chúc và theo pháp luật…
Thứ hai, không phải mọi QSDĐ đều có thể trở thành di sản thừa kế và không
phải mọi chủ thể đều có quyền để lại di sản mà phải tuân theo những điều kiện đối
với chủ thể, loại đất, điều kiện trình tự, thủ tục để thừa kế nên pháp luật đã đặt ra
những quy định rất chặt chẽ so với tài sản thông thường khác.

1.1.2.3. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất
Theo quy định của pháp luật dân sự, đất đai (QSDĐ) là một loại tài sản mà
đối tượng của quyền thừa kế chính là tài sản nên khi người có QSDĐ chết đi thì
những người thừa kế của họ có quyền nhận thừa kế theo quy định của pháp luật về
thừa kế. Khái niệm TKQSDĐ được luật hóa đầu tiên trong BLDS năm 1995:
“TKQSDĐ là việc chuyển QSDĐ của người chết sang cho người thừa kế theo di


13

chúc hoặc theo pháp luật phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật đất
đai”. BLDS năm 2005 ra đời và khái niệm về TKQSDĐ vẫn được giữ nguyên
nghĩa trước đó: “TKQSDĐ là việc chuyển QSDĐ của người chết sang cho người
thừa kế theo quy định của BLDS và pháp luật đất đai”. Tuy nhiên, về mặt nội hàm
của khái niệm thì không hoàn toàn giống nhau. Trước đây, BLDS năm 1995, LĐĐ
năm 1993 quy định việc dịch chuyển QSDĐ chặt chẽ hơn so với việc thừa kế các
loại tài sản thông thường khác. “Tính chặt chẽ này thể hiện ở các điểm sau đây:
- Không phải cá nhân hay tổ chức nào cũng được TKQSDĐ.
- Không phải ai có QSDĐ đều có quyền để lại thừa kế.
- Việc định đoạt QSDĐ thông qua việc để lại thừa kế không hoàn toàn theo ý
chí của người “có đất”.
(Điều 740-744 BLDS năm 1995 và Điều 76 LĐĐ năm 1993)
Hiện nay, những quy định của pháp luật đất đai cũng như BLDS năm 2005
đều mở rộng thêm quyền cho các chủ thể trong quan hệ thừa kế, đồng thời mở rộng
thêm đối tượng được hưởng di sản thừa kế là QSDĐ” 4. Do vậy, khái niệm mặc dù
tương tự nhau nhưng cách thức quy định theo từng Bộ luật là khác hẳn nhau.
Tóm lại, TKQSDĐ là việc dịch chuyển QSDĐ của người chết cho người
thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, theo đó người thừa kế trở thành chủ sử
dụng QSDĐ do được thừa kế và có các quyền và nghĩa vụ của chủ sử dụng QSDĐ.
1.2. Đặc điểm của thừa kế quyền sử dụng đất

TKQSDĐ về mặt bản chất là quan hệ thừa kế tài sản, chỉ khác với thừa kế
các tài sản khác về đối tượng là QSDĐ (loại tài sản đặc biệt). Chính vì vậy,
TKQSDĐ vừa mang những đặc điểm chung về thừa kế tài sản lại vừa có những đặc
điểm riêng của nó.
1.2.1. Đặc điểm chung
TKQSDĐ mang những đặc điểm chung của thừa kế tài sản như:
Hình thức thừa kế gồm: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.

4

Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập hai, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.371-372.


14

Người để lại di sản thừa kế là người có tài sản sau khi chết để lại cho người
còn sống theo ý chí của họ. Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân không phân
biệt bất cứ điều kiện nào (thành phần xã hội, mức độ năng lực hành vi ...)
Người thừa kế là người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc mà người để
lại di sản thừa kế chỉ định hoặc hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế
là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế, người đã thành thai vào thời
điểm mở thừa kế và sinh ra mà còn sống. Đối với pháp nhân thì phải còn tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế.
Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế. Mọi cá nhân đều có quyền hưởng di
sản thừa kế. Pháp luật cũng cho phép người thừa kế từ chối quyền nhận di sản thừa
kế, trừ trường hợp trốn tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại với
người khác. Bên cạnh việc có các quyền thì người nhận thừa kế cũng phải thực hiện
các nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác. Cá nhân hay pháp nhân khi hưởng di sản do người chết để lại đều

phải thực hiện nghĩa vụ tài sản kể cả là Nhà nước.
Thời điểm và địa điểm mở thừa kế. “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh
quan hệ thừa kế”. Đó chính là mốc thời gian mà kể từ thời điểm đó phát sinh quyền và
nghĩa vụ của những người thừa kế do người chết để lại. Theo quy định tại Điều 633 của
BLDS năm 2005 thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.
Địa điểm mở thừa kế được xác định là nơi cư trú cuối cùng của người để lại
di sản theo đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn). Trường hợp không
xác định được nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, thì địa điểm mở thừa kế
là nơi có toàn bộ di sản. Trường hợp di sản ở nhiều nơi thì nơi nào có phần lớn tài
sản nơi đó được xác định là nơi mở thừa kế.
1.2.2. Đặc điểm riêng của thừa kế quyền sử dụng đất
QSDĐ là một loại tài sản đặc thù (do tính chất đặc thù của đất đai) nên việc
TKQSDĐ cũng có những đặc thù riêng:
Thứ nhất, TKQSDĐ chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự nói chung và
pháp luật đất đai nói riêng.


15

Như tác giả đã phân tích ở phần trên thì QSDĐ là di sản thừa kế dưới dạng
quyền là đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự và pháp luật đất đai. Nếu chỉ căn
cứ vào pháp luật dân sự hoặc pháp luật đất đai thì sẽ không thể thực hiện được việc
TKQSDĐ. Pháp luật đất đai ở mỗi quốc gia là khác nhau và trong một quốc gia ở
mỗi một giai đoạn lại có những quy định khác nhau về chính sách đất đai. Chính vì
vậy, TKQSDĐ phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đất đai của mỗi quốc gia.
Thứ hai, di sản TKQSDĐ có giá trị đặc biệt.
Đất đai không thuộc sở hữu của từng chủ thể sử dụng đất mà thuộc sở hữu
của toàn dân. Mặc dù vậy khi được Nhà nước trao cho quyền sử dụng ổn định và
lâu dài thì đất đai đã trở thành một loại tài sản có giá trị đặc biệt và có ý nghĩa rất
lớn trong cuộc sống của mỗi người. Con người không thể tự tạo cho mình đất đai

mà chỉ có được do chính sách đất đai của Nhà nước. Sự thay đổi các quy định của
pháp luật đất đai theo hướng ngày càng ghi nhận giá trị của đất đai càng làm cho giá
trị của QSDĐ tăng lên. Chính vì vậy mà thừa kế di sản là QSDĐ của ông cha mình
để lại là một vấn đề luôn tiềm ẩn những tranh chấp khó lường.
Thứ ba, di sản thừa kế là QSDĐ không phải tồn tại vĩnh viễn.
Các loại tài sản thông thường có thể truyền từ đời này sang đời khác nhưng
QSDĐ là loại tài sản có thể bị giới hạn bởi thời hạn sử dụng. Các chính sách pháp
luật đất đai chia đất đai ra làm nhiều loại và mỗi loại lại có thời hạn sử dụng khác
nhau. Và do có sự giới hạn về thời hạn sử dụng đất mà di sản thừa kế là QSDĐ
không thể tồn tại vĩnh viễn. Người TKQSDĐ có thời hạn chỉ được sử dụng đất
trong thời hạn còn lại của thời hạn sử dụng đất mà Nhà nước cho phép.
Thứ tư, không phải ai cũng có thể trở thành người TKQSDĐ.
Việc TKQSDĐ có sự hạn chế nhất định đối với trường hợp người thừa kế là
người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Bởi những đối tượng
này có hạn chế nhất định trong việc sử dụng đất so với các chủ thể khác. Do vậy
không thể đảm bảo cho việc thực hiện các chính sách đất đai của Nhà nước một
cách hiệu quả, không thể phát huy tối đã nguồn lực đất đai đối với việc phát triển
kinh tế xã hội của đất nước. Đối với các trường hợp như người Việt Nam định cư ở


16

nước ngoài muốn nhận thừa kế tài sản là QSDĐ ở Việt Nam phải đáp ứng những
điều kiện nhất định theo pháp luật Việt Nam.
Thứ năm, hạn chế quyền tự định đoạt của người để lại di sản thừa kế.
Đối với các tài sản thông thường việc người để lại di sản thừa kế định đoạt
cho người thừa kế bất kỳ là quyền tối cao của họ. Tuy nhiên, đối với di sản thừa kế
là QSDĐ thì quyền tự định đoạt bị hạn chế. Đặc điểm này cũng do đặc điểm thứ tư
ở trên bởi người thừa kế phải có đủ các điều kiện để nhận thừa kế về QSDĐ mới
được nhận thừa kế. Trường hợp không đủ điều kiện chỉ được nhận phần giá trị của

QSDĐ mà thôi.
Thứ sáu, TKQSDĐ bắt buộc phải đăng ký.
Đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân và được chủ thể sở hữu là Nhà nước
trao cho các chủ thể sử dụng đất. Đăng ký QSDĐ là cách thức xác nhận QSDĐ của
các chủ thể sử dụng đất. TKQSDĐ là việc chuyển dịch QSDĐ từ người chết sang
người còn sống do đó việc đăng ký tài sản thừa kế khi thực hiện nhận di sản
TKQSDĐ là bắt buộc đối với người thừa kế. Nếu không thực hiện việc đăng ký thì
không phát sinh quyền của người thừa kế đối với di sản thừa kế là QSDĐ.
Thứ bảy, thủ tục giải quyết tranh chấp TKQSDĐ
Việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế tài sản thông thường được thực
hiện theo thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Đối với
các tranh chấp về TKQSDĐ, Nhà nước khuyến khích các bên tự hòa giải, trường
hợp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất để hòa giải. Sau
khi đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Trường hợp có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy
định tại Điều 100 của LĐĐ năm 2013 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì
do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Trường hợp không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại
giấy tờ quy định tại Điều 100 của LĐĐ năm 2013 thì chỉ được lựa chọn một trong
hai hình thức giải quyết theo quy định sau đây:


17

a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân
dân cấp có thẩm quyền;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự;
1.3. Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
1.3.1. Khái niệm di sản thừa kế

Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại cho những người thừa kế. Di
sản thừa kế bao gồm toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết. Tuy nhiên,
cách hiểu về di sản thừa kế theo pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau, thậm chí
ở cùng một quốc gia thì tùy theo các giai đoạn khác nhau mà cách hiểu cũng khác
nhau. “Điều đó chứng tỏ rằng việc quy định về di sản thừa kế phụ thuộc nhiều vào
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Xã hội càng phát triển, số lượng, chủng
loại và phạm vi của cải thuộc sở hữu của cá nhân càng tăng thì phạm vi di sản càng
lớn và càng phong phú, phức tạp. Tuy nhiên, ở bất kỳ quốc gia nào và trong bất kỳ
giai đoạn nào của một quốc gia thì khi nói đến di sản thừa kế đều phải nói đến các
tài sản thuộc quyền sở hữu mà cá nhân đã để lại sau khi chết”5.
Di sản thừa kế theo quan điểm của PGS.TS Trần Thị Huệ được xây dựng
trên các phương diện:
“- Xét trên phương diện đạo đức – xã hội: Di sản thừa kế là của cải vật chất
(tài sản), là phương tiện thực hiện bổn phận tiếp theo của người chết nhằm gây
dựng và chăm lo cho tương lai đối với những người hưởng thừa kế.
- Xét trên phương diện kinh tế: Di sản thừa kế là của cải vật chất (tài sản)
của người chết để lại cho những người khác còn sốn để dùng vào mục đích sản
xuất, kinh doanh, sinh hoạt và tiêu dùng.
- Xét trên phương diện khoa học luật dân sự: Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản
thuộc sở hữu của người chết để lại, là đối tượng của quan hệ dịch chuyển tài sản của
người đó sang cho những người hưởng thừa kế, được Nhà nước thừa nhận và bảo
5

Phạm Văn Tuyết (2007), Thừa kế quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.61-62.


18

đảm thực hiện”6. Chúng tôi nhất trí quan điểm trên bởi dù xem xét ở góc độ nào thì di

sản thừa kế cũng được hiểu là tài sản của người chết để lại cho người còn sống.
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm di sản
thừa kế mà chỉ quy định về thành phần của di sản thừa kế. Điều 634 BLDS năm
2005 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác”. Tài sản riêng hay phần tài sản
chung với người khác đều là tài sản mà theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005
thì tài sản bao gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Quy định như
vậy xác định đã xác định cụ thể những loại vật thể và quyền tài sản được coi là tài
sản nhưng khái niệm chung nhất về tài sản thì chưa được pháp luật quy định. Theo
quan điểm của chúng tôi, tài sản là toàn bộ của cải vật chất do con người chiếm hữu
và chịu sự chi phối của con người, được con người khai thác nhằm tạo ra những giá
trị vật chất hoặc tinh thần phục vụ cho đời sống của con người. Và “tài sản của một
người thành ra di sản khi người đó chết”.
1.3.2. Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất
Trước Hiến pháp năm 1980, công dân có quyền sở hữu đất đai và được pháp
luật bảo hộ. Từ sau Hiến pháp năm 1980 đến nay, nhằm phục vụ cho mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chế độ sở hữu đất đai đã thay đổi: đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đất đai và
giao lại cho các cá nhân, hộ gia đình và những chủ thể sử dụng đất khác QSDĐ. Khi
các chủ thể này chết thì QSDĐ được dịch chuyển cho những người thừa kế theo di
chúc hoặc theo pháp luật. QSDĐ lần đầu tiên được coi là di sản thừa kế theo quy
định của pháp luật dân sự khi Nhà nước ban hành BLDS năm 1995. Tại Điều 637
quy định: “QSDĐ cũng là di sản thừa kế”. Hiện nay, theo quy định của BLDS năm
2005 và BLDS năm 2015 có hiệu lực vào ngày 01/01/2017 tới đây, QSDĐ được xác
định là một loại quyền tài sản (tài sản) nên QSDĐ cũng thuộc di sản thừa kế và
được để lại thừa kế.
QSDĐ là tài sản riêng của người chết
6

Trần Thị Huệ (2007), Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Trường

Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.42.


×