Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Tục kết chạ, kết bạn trong lễ hội vùng quan họ Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.41 KB, 85 trang )

Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 1 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu để hoàn thành khóa luận, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo khoa Lịch Sử - trường ĐHSP Hà
Nội 2. Tôi xin cảm ơn sự gúp đỡ của các thầy cô, đặc biệt là hai cô giáo Th.s
Hoàng Thị Nga và Th.s Nguyễn Thị Nga, đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn
thành khóa luận. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Thư viện trường ĐHSP Hà
Nội 2, Thư viện Quốc Gia, Thư viện trường Đại học Văn hóa, Thư viện
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp cho tôi nhiều tài
liệu có giá trị để tôi hoàn thành công trình này.
Là một sinh viên lần đầu tiên nghiên cứu khoa học nên khóa luận của
tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những
đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, 5/2013
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Loan

NguyÔn ThÞ Loan

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 1 of 103.

Khoa LÞch sö



Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 2 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận này là do sự cố gắng, nỗ lực tìm
hiểu, nghiên cứu của bản thân với sự giúp đỡ nhiệt tình của hai cô giáo Th.s
Hoàng Thị Nga và Th.s Nguyễn Thị Nga. Công trình này không trùng lặp với
các kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.

Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Loan

NguyÔn ThÞ Loan

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 2 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 3 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

NỘI DUNG .................................................................................................... 8
Chương 1. Cơ sở hình thành tục kết chạ, kết bạn trong lễ hội vùng quan họ
Bắc Ninh ........................................................................................................ 8
1.1. Khái quát về vùng đất Bắc Ninh .............................................................. 8
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ......................................................... 8
1.1.2. Kinh tế - xã hội .................................................................................. 10
1.1.3. Văn hóa .............................................................................................. 15
1.2. Lễ hội vùng Quan họ ............................................................................. 22
1.2.1. Thời gian diễn ra và không gian của lễ hội ........................................ 24
1.2.1.1. Thời gian lễ hội vùng Quan họ ........................................................ 24
1.2.1.2. Không gian của lễ hội vùng Quan họ ............................................... 25
1.2.2. Cấu trúc của lễ hội .............................................................................. 26
12.2.1. Phần lễ .............................................................................................. 26
1.2.2.2. Phần hội .......................................................................................... 28
Chương 2. Tục kết chạ, kết bạn trong lễ hội vùng Quan họ Bắc Ninh .......... 30
2.1. Tục kết chạ trong lễ hội vùng Quan họ Bắc Ninh .................................. 30
2.1.1. Tên gọi của tục kết chạ ....................................................................... 30
2.1.2. Nguồn gốc hình thành tục kết chạ ....................................................... 33
2.1.3. Nguyên tắc của tục kết chạ ................................................................. 40
2.1.4. Tình hình kết chạ ở Bắc Ninh ............................................................. 41
2.1.5. Tục đón rước tiếp chạ trong ngày hội ................................................. 43
2.2. Tục kết bạn trong lễ hội vùng Quan họ Bắc Ninh .................................. 46
2.2.1. Nguồn gốc hình thành tục kết bạn Quan họ ........................................ 46

NguyÔn ThÞ Loan

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 3 of 103.

Khoa LÞch sö



Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 4 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

2.2.2. Các yếu tố của tục kết bạn Quan họ: Tổ chức “Bọn quan họ”, “Nhà
chứa” ............................................................................................................ 50
2.2.2.1. Tổ chức “Bọn Quan họ” .................................................................. 50
2.2.2.2. “Nhà chứa” ...................................................................................... 53
2.2.3. Nguyên tắc và các loại kết bạn quan họ .............................................. 54
2.2.3.1. Nguyên tắc ...................................................................................... 54
2.2.3.2. Các loại kết bạn quan họ .................................................................. 57
2.2.4. Trình tự và nghi lễ tín ngưỡng trong tục kết bạn ................................. 59
2.2.5. Mối quan hệ của các bọn Quan họ kết bạn .......................................... 61
2.2.6. Các hoạt động của Quan họ kết bạn trong ngày lễ hội làng ................. 62
2.2.6.1. Các hoạt động giao lưu giữa các bọn Quan họ làng mở hội và
những bọn Quan họ kết bạn với minh ........................................................... 62
2.2.6.2. Hoạt động của các bọn Quan họ kết bạn ở nơi khác rủ nhau đến
chơi hội ....................................................................................................... 64
2.2.6.3. Hoạt động Quan họ của các bọn Quan họ tìm gặp nhau để kết bạn .. 65
2.3. Đặc điểm và ý nghĩa của tục kết chạ, kết bạn trong lễ hội vùng Quan
họ Bắc Ninh ................................................................................................. 66
2.3.1. Đặc điểm ............................................................................................ 66
2.3.2. Ý nghĩa ............................................................................................... 70
KẾT LUẬN.................................................................................................. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78
PHỤ LỤC .................................................................................................... 79


NguyÔn ThÞ Loan

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 4 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 5 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử nhân loại, lễ hội là hoạt động xã hội mang tính phổ biến
và có từ rất lâu đời. Hầu như quốc gia nào, dân tộc nào cũng có lễ hội. Trong
quá trình tồn tại và phát triền, sinh hoạt lễ hội trở thành nhu cầu không thể
thiếu của con người và cộng đồng xã hội. Nó là nguồn động lực quan trọng
góp phần phát triển kinh tế - xã hội, là một trong những hoạt động nhằm thực
hiện sự giao lưu, hội nhập kinh tế văn hóa giữa các cộng đồng, các vùng miền
và quốc gia trong khu vực và quốc tế.
Là một vùng đất cổ Bắc Ninh - Kinh Bắc là nơi nổi tiếng thuộc hàng tứ
trấn của kinh đô Thăng Long xưa, có truyền thống văn hóa lâu đời, có giá trị
nhân văn sâu sắc, được kết tinh ở những di sản văn hóa. Nơi đây cũng đã tập
trung lưu giữ nhiều sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống, trong đó nổi bật
và tiêu biểu là sinh hoạt văn hóa lễ hội. Bắc Ninh được đánh giá là quê hương
có nhiều lễ hội tiêu biểu của người Việt ở vùng đồng bằng và trung du Bắc
Bộ. Theo thống kê bước đầu Bắc Ninh có tới hơn 300 lễ hội truyền thống diễn
ra hàng năm. Phần lớn các làng xã đều có lễ hội. Sinh hoạt lễ hội ở Bắc Ninh

diễn ra khắp bốn mùa, phần lớn vào mùa xuân. Lễ hội có một vai trò quan
trọng không thể thiếu trong đời sống nhân dân nơi đây. “Xuân thu nhị kì”
làng xã nào cũng có hội hè đình đám, đây là dịp biểu hiện tập trung rõ nhất
truyền thống văn hóa cộng đồng và sinh hoạt văn hóa dân gian, đời sống tâm
linh, tín ngưỡng…của người dân Bắc Ninh. Con người xứ Bắc vốn giản dị,
duyên dáng giàu tài năng sáng tạo trong hoạt động văn hóa nghệ thuật, cần cù
sáng tạo trong lao động sản xuất, thông minh hiếu học trong khoa cử, lịch lãm
trong ứng xử…Trong đó ta không thể không nhắc đến những sáng tạo văn
hóa Quan họ với hàng trăm làn điệu dân ca Quan họ đã làm say đắm bao lòng

NguyÔn ThÞ Loan

1

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 5 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 6 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

người, mỗi độ xuân về mà kết tinh trong đó là những phong tục lề lối in đậm
tinh thần nhân văn cao đẹp. Tiêu biểu là tục kết chạ, kết bạn Quan họ độc đáo.
Và nó được biểu hiện cụ thể sâu sắc nhất trong các lễ hội ở các làng quê vùng
Quan họ Bắc Ninh. Thông qua đó chúng ta cũng thấy được một đời sống tinh
thần phong phú, một khả năng sáng tạo thưởng thức văn hóa nghệ thuật ở

trình độ cao từ thời xa xưa của người dân Bắc Ninh. Vì thế, Quan họ đã trở
thành một di sản văn hóa đầy tự hào của người dân Kinh Bắc. Cùng với nghệ
thuật ca trù, Dân ca Quan họ đã được UNESCO công nhận là “kiệt tác văn
hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”.
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh với thiên nhiên và xã hội chủ yếu là
đấu tranh chống ngoại xâm để tồn tại và phát triển, dân tộc ta đã xây dựng cho
mình nhiều truyền thống quý báu: Yêu nước, đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau…Tinh hoa dân tộc ấy đã được kết tinh trong tục kết chạ, kết bạn ở các
làng Quan họ Bắc Ninh. Việc nghiên cứu tục kết chạ, kết bạn giữa các làng
Quan họ là một bộ phận quan trọng trong việc nghiên cứu toàn bộ sinh hoạt
cộng đồng làng xã của người Việt nói chung và người Bắc Ninh nói riêng. Nó
góp phần cung cấp một vài cơ sở để tạo nên tinh thần cộng đồng làng xã, cộng
đồng dân tộc.
Hơn thế nữa, Quan họ là một hình thức sinh hoạt văn hóa, diễn xướng
dân gian độc đáo, hấp dẫn có giá trị nghệ thuật to lớn và có sức sống lâu bền
trong lịch sử văn hóa dân tộc. Quá trình sinh hoạt văn hóa Quan họ nó gắn
liền với mỗi miền quê đã tạo nên những sắc thái văn hóa riêng bên cạnh
những cái chung tiêu biểu là các làng quê xứ Kinh Bắc xưa và nay thuộc hai
tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang.
Quan họ là hoạt động không thể thiếu trong các dịp lễ hội của vùng đất
Kinh Bắc. Lễ hội được coi là môi trường hoạt động của các sinh hoạt văn hóa
Quan họ. Trong các lễ hội đó, hoạt động sống động và tiêu biểu và đặc biệt

NguyÔn ThÞ Loan

2

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 6 of 103.

Khoa LÞch sö



Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 7 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

nhất là những phong tục kết chạ, kết bạn giữa các làng Quan họ nó có hoạt
động giao lưu của các bạn Quan họ giữa các vùng.
Tuy nhiên hiện nay, lịch sử thế giới bước sang một trang mới nhiều
biến động phức tạp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời đại của
toàn cầu hóa, hội nhập toàn cầu được coi là sự phát triển tất yếu mang tính
thời đại ở nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phát
triển kinh tế thị trường đã tạo nhiều cơ hội cũng như những thách thức đối với
việc bảo tồn và phát huy các giá trị và không gian văn hóa Quan họ.
Với biết bao tự hào khi được là một người con của vùng đất Kinh Bắc,
cùng với sự đam mê, lòng khao khát được tìm hiểu về những phong tục
truyền thống của quê hương, của dân tộc ta và nhận thức được tầm quan trọng
của nét văn hóa Quan họ, cũng như việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
Quan họ, em đã chọn đề tài “Tục kết chạ, kết bạn trong lễ hội vùng Quan họ
Bắc Ninh” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dân ca Quan họ từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người đã
không ít những công trình quy mô nghiên cứu về nó. Trước cách mạng tháng
Tám, dân ca Quan họ nói chung và việc nghiên cứu tục kết chạ kết bạn giữa
các làng Quan họ nói riêng chưa thực sự thu hút được nhiều sự quan tâm của
các nhà khoa học. Những công trình nghiên cứu thời kì này chủ yếu là các bài
báo, bút kí xuất hiện rải rác.
Năm 1962, nhóm tác giả Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn

Viêm, Tú Ngọc đã cho ra mắt công trình nghiên cứu “Dân ca Quan họ Bắc
Ninh” Nxb Văn Học. Các tác giả đã cho rằng: Tục lệ kết bạn tương thân tương
ái giữa hai thị tộc thời kì cộng đồng nguyên thủy được phát triển và thay đổi
dưới thời kì phong kiến thành tổ chức kết nghĩa với tinh thần hữu ái, cộng
đồng giữa hai xã thôn, giữa các phường họ và giữa các thành viên trong các

NguyÔn ThÞ Loan

3

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 7 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 8 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

phường họ (hội). Có thể thấy: Đây là cuốn sách có quy mô lớn, mở ra chiều
hướng cho các khám phá tiếp theo nghiên cứu về dân ca Quan họ, tìm hiểu
quê hương lề lối sinh hoạt Quan họ và giá trị nội dung, nghệ thuật.
Năm 1972, Ty văn hóa Hà Bắc xuất bản tác phẩm: “Một số vấn đề về
dân ca Quan họ” tài liệu này có thể giúp người đọc có cái nhìn tổng quát về
dân ca Quan họ với nhiều phương diện khác nhau. Trong cuốn sách này Lê
Thị Nhâm Tuyết cũng có viết về nguồn gốc của tục kết chạ như sau: Tục kết
nghĩa anh em có nguồn gốc từ những đơn vị xã hội xưa do chế độ ngoại hôn
quy định và có sự cấm đoán kết hôn rất ngặt nghèo giữa hai làng anh em. Ở

những đơn vị ấy còn giữ được truyền thống tương thân tương ái và chặt chẽ
để cho mãi về sau này thể hiện rất rõ ở điều mà chúng ta gọi là tinh thần cộng
đồng xã thôn. Và tàn dư của tục kết chạ giữa các làng như thế còn rất phổ
biến, nó được biểu hiện tập trung cao nhất ở hội làng.
Tác giả Đặng Văn Lung cũng đã lấy tên cho một công trình của mình là
“Quan họ nguồn gốc và quá trình phát triển” Nxb Khoa học xã hội xuất bản
năm 1978 làm đề tài luận án phó tiến sĩ cho mình. Trong đó tác giả đã nêu vài
nét về tục nghĩa trong Quan họ, về tục kết chạ từ tên gọi, các hình thức cho
đến các sinh hoạt Quan họ như tục kết bạn, cách đón bạn ở “nhà chứa” và
những nguyên tắc của nó. Ông đã khẳng định rằng: Tục kết bạn Quan họ là
một tục phát sinh của tục kết chạ ở Hà Bắc và tục kết chạ là một trong những
nguyên nhân để gìn giữ và phát triển của Quan họ.
Năm 2006 cuốn sách “Không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh - Bảo
tồn và phát huy” do Viện văn hóa thông tin - Sở văn hóa thông tin Bắc Ninh
xuất bản đã ra đời, tập hợp hơn 50 tham luận của nhiều tác giả trong và ngoài
nước. Cuốn sách đã nêu bật được nội dung, lề lối sinh hoạt dân ca Quan
họ...đặc biệt nhấn mạnh sự tồn tại của Quan họ trong xã hội hiện đại và phương
hướng bảo tồn, phát huy các giá trị của dân ca Quan họ trong xã hội hiện nay.

NguyÔn ThÞ Loan

4

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 8 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 9 of 103.


Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Cùng thời gian này cuốn sách “Vùng văn hóa Quan họ” đã ra mắt công
chúng. Đây là kết quả của chương trình hợp tác giữa Bộ Văn hóa - Thông tin,
và Tỉnh ủy, UBND Tỉnh Bắc Ninh xây dựng bộ hồ sơ đệ trình UNESSCO
công nhận Quan họ Bắc Ninh là kiệt tác di sản truyền miệng và phi vật thể
của nhân loại. Cuốn sách đã tập hợp những bài nghiên cứu tổng hợp của nhiều
tác giả có liên quan tới Quan họ. Phần I: Vùng văn hóa Kinh Bắc: Các tác giả
đã tập trung tìm hiểu về lịch sử, kinh tế, văn hóa vùng Kinh Bắc. Phần II: Văn
hóa Quan họ: Các tác giả cũng đã nêu lên các lối chơi Quan họ nội dung, hình
thức hát Quan họ, cách giao tiếp của người Quan họ, tục kết chạ, kết bạn
Quan họ…
Cùng với những công trình nghiên cứu về dân ca Quan họ trên nhiều
lĩnh vực như âm nhạc, văn hóa…Các nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu
và công bố kết quả trong nhiều công trình khảo cứu như: “Địa chí Hà Bắc”
do Ty Văn hóa Thông Tin - Thư viện tỉnh XB năm 1982. Tác phẩm cũng đã
nêu rất rõ về tục kết nghĩa giữa các làng xã ở Bắc Ninh nói chung và giữa các
làng Quan họ nói riêng. Năm 2005 tác phẩm “Lễ hội và Nhân sinh” của Nxb
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cũng đã ra mắt công chúng.
Tuy nhiên, những tài liệu kể trên chưa có tài liệu nào nghiên cứu
chuyên sâu về tục kết chạ, kết bạn trong lễ hội vùng Quan họ Bắc Ninh. Vì
vậy, trên cơ sở những tài liệu trên, nhất là dựa theo những tài liệu của Trung
tâm Văn hóa - Thông tin tỉnh Bắc Ninh, cũng như thu thập được trong thực tế
em đã nghiên cứu và tổng hợp để hoàn thành khóa luận này. Đó sẽ như một
sự bổ khuyết vào việc tìm hiểu và giữ gìn một trong những nét văn hóa đặc
sắc nhất của vùng quê Kinh Bắc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Đề tài này nhằm tìm hiểu tục kết chạ trong các làng xã nói chung và

NguyÔn ThÞ Loan

5

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 9 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 10 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

các làng Quan họ Bắc Ninh nói riêng và tục kết bạn Quan họ trong lễ hội
vùng Quan họ Bắc Ninh.
* Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu từ nguồn gốc hình thành tập
tục kết chạ của các làng xã ở Bắc Ninh, cho đến việc kéo theo sự ra đời của
tục kết bạn Quan họ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Về không gian: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu là các lễ hội ở các
làng Quan họ xứ Kinh Bắc xưa chủ yếu là Bắc Ninh ngày nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Đề tài nhằm tìm hiểu một cách khách quan về tục kết chạ, kết bạn trong
lễ hội vùng Quan họ Bắc Ninh. Trong đó sẽ đi sâu tìm hiểu làm rõ về nguồn
gốc ra đời của những tập tục này, những nguyên tắc gắn kết giữa hai tập tục

và những biểu hiện của những phong tục đó trong lễ hội. Qua đó thấy được ý
nghĩa của những phong tục truyền thống của người dân Việt nói chung và
người Bắc Ninh nói riêng.
* Nhiệm vụ
Đề tài nhằm giải quyết nhiệm vụ: Khái quát một cách cụ thể nhất về
nguồn gốc, nguyên tắc, những biểu hiện của tập tục kết chạ, kết bạn trong lễ
hội vùng Quan họ Bắc Ninh. Từ đó rút ra những đặc điểm và ý nghĩa của của
những phong tục đó trong đời sống của người dân Bắc Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ
đạo của Đảng ta trong nghiên cứu sử học.
Về phương pháp nghiên cứu, người viết sử dụng phương pháp lịch sử
kết hợp với phương pháp lôgic, phương pháp thu thập tài liệu, hương pháp

NguyÔn ThÞ Loan

6

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 10 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 11 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2


phân tích tổng hợp, phương pháp nghiên cứu liên ngành, phương pháp xã hội
học…để làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu.
Ngoài ra do yêu cầu của đề tài phải sưu tầm chọn lọc, sử dụng nhiều
loại tư liệu khác nhau và liên quan đến phong tục trong Quan họ, để thấy
được ý nghĩa của nó đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh. Do
vậy đề tài còn sử dụng phương pháp luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, để đảm bảo tính khoa học của đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
* Về mặt lí luận:
Đề tài đã cung cấp những kiến thức cơ bản về nét văn hóa của tục kết
chạ, kết bạn trong lễ hội vùng Quan họ Bắc Ninh, góp một tiếng nói mang
tính khoa học hòa chung vào các công trình nghiên cứu trước đây về văn hóa
Bắc Ninh nhằm làm sâu sắc hơn phong tục truyền thống trong Quan họ.
* Về mặt thực tiễn:
Đề tài này cũng góp phần vào quảng bá rộng rãi hơn các giá trị văn hóa
Quan họ tới bạn bè trong và ngoài nước, cũng như việc tìm hiểu và khai thác
giá trị văn hóa của dân ca Quan họ Bắc Ninh. Và đề tài cũng đã cung cấp kiến
thức thực tiễn về tục kết chạ, kết bạn trong lễ hội vùng Quan họ Bắc Ninh đáp
ứng nhu cầu tìm hiểu của những người quan tâm tới loại hình nghệ thuật này.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phần nội dung có hai chương:
Chương I: Cơ sở hình thành tục kết chạ kết bạn trong lễ hội vùng Quan
họ Bắc Ninh
Chương 2: Tục kết chạ, kết bạn trong lễ hội vùng Quan họ Bắc Ninh

NguyÔn ThÞ Loan

7


Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 11 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 12 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TỤC KẾT CHẠ, KẾT BẠN
TRONG LỄ HỘI VÙNG QUAN HỌ BẮC NINH
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT BẮC NINH
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Dân ca Quan họ Bắc Ninh vốn là một thành tố văn hóa làm nên bản sắc
văn hóa xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh và đã trở thành một trong những di sản văn
hóa độc đáo, quý giá của nước ta và thế giới. Dân ca Quan họ không chỉ đơn
thuần là lời ca, tiếng hát giai điệu mà đi kèm với nó còn là những sinh hoạt
mang tính tập tục. Vì vậy, nó tự tạo thành một loại hình sinh hoạt văn hóa
được coi là văn hóa Quan họ. Để nghiên cứu về văn hóa Quan họ với những
tập tục văn hóa tiêu biểu trước hết chúng ta phải có sự tìm hiểu về vùng đất
con người nơi mà đã sản sinh ra loại hình văn hóa đặc biệt này. Bắc Ninh xưa
là vùng đất phía Bắc của kinh thành Thăng Long - Đông Đô, Hà Nội ngày
nay. Là cái nôi sinh thành dân tộc và văn hóa của người Việt cổ tức nền văn
minh sông Hồng. Trải qua trường kì lịch sử đất nước và dân tộc, vùng đất này
mang những tên gọi khác nhau và địa bàn rộng hẹp khác nhau. Đó là đất bộ
Vũ Ninh của quốc gia Văn Lang - Âu Lạc dưới triều Hùng Vương - An

Dương Vương và đến thời Bắc thuộc là vùng đất thuộc huyện Luy Lâu - Long
Biên của quận Giao Chỉ sau là Giao Châu. Thời Lý - Trần là Bắc Giang đạo.
Thời Lê là Kinh Bắc đạo sau đổi là trấn rồi xứ Kinh Bắc. Thời Nguyễn là trấn
Bắc Ninh sau đổi là tỉnh Bắc Ninh. Thời Pháp thuộc là hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc
Giang. Từ năm 1963 đến năm 1996 là tỉnh Hà Bắc, từ năm 1997 hai tỉnh Bắc
Ninh, Bắc Giang được tái lập. Song nói đến xứ Bắc - Kinh Bắc thì tỉnh Bắc
Ninh ngày nay là địa bàn cốt lõi của xứ Bắc - Kinh Bắc xưa. Đây là một vùng

NguyÔn ThÞ Loan

8

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 12 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 13 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

đất rộng, nằm trong vùng văn hóa, văn minh châu thổ sông Hồng, sông Thái
Bình, giáp ranh với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Thái, Hải Hưng ngày nay.
Bắc Ninh ngày nay phía Bắc giáp với Bắc Giang, phía Nam giáp với
Hưng Yên và Hà Nội, phía Đông giáp với Hải Dương, phía Tây giáp với Vĩnh
Phúc, Hà Nội.
Địa hình của vùng đất Kinh Bắc vươn dài bao bọc lấy Thăng Long.
Miền đất này xứng đáng được lịch sử và cả nước giao cho trọng trách là “Đất

phên dậu phía Bắc của Thăng Long” [20; 11]. Nơi đây là quê hương và điểm
xuất phát của nhà Lý dòng tộc đầu tiên biết xây dựng nhà nước hoàn chỉnh,
tôn giáo nguyên thủy và ngoại lai cũng lấy mảnh đất này khai hoa kết quả.
Bắc Ninh có hệ thống giao thông thủy bộ thuận lợi với mạng lưới sông
ngòi dày đặc. Tiêu biểu là ba hệ thống sông lớn chảy qua gồm sông Đuống,
sông Cầu, sông Thái Bình. Ngoài ra còn có các con sông cổ như sông Ngũ
Huyện Khê, sông Tiêu Tương, sông Dân. Những dòng sông cổ hiền hòa đầy
ắp phù sa này đã bồi đắp nên những cánh đồng màu mỡ và đã tạo nên nét đẹp
của nền văn hóa sông nước chất duyên dáng lãng mạn cho dân ca Quan họ. Vì
vậy, đã sớm thu hút cư dân Việt cổ về đây sinh cơ lập nghiệp. Theo sách
“Không gian văn hóa Quan họ bảo tồn và phát huy”cũng có ghi: “Chính ở
vào vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên thuận lợi khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa ít
bão lụt lớn nên con người vùng đất này sớm tạo dựng nên làng mạc trù phú
và văn hiến” [11; 699]. Đây chính là nôi để người dân vùng Quan họ sáng tạo
nên những giá trị văn hóa cho riêng mình .
Vùng đất này còn là nơi gặp gỡ, giao hội của các mạch giao thông thủy
bộ Nam - Bắc, Đông - Tây nó đã tạo cho nơi đây sớm có mối quan hệ giao
thông trao đổi tiếp xúc kinh tế văn hóa với nhiều vùng của đất nước, kể cả
nước ngoài như Trung Quốc, Ấn Độ và vài nước phương Tây. Điển hình là
Luy Lâu là một trung tâm giao thương từ rất sớm của vùng Bắc Ninh. Việc

NguyÔn ThÞ Loan

9

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 13 of 103.

Khoa LÞch sö



Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 14 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

trao đổi buôn bán thương nghiệp nó không đơn thuần là nhu cầu trao đổi hàng
hóa mà còn xuất hiện nhiều yếu tố văn hóa để sau đó tác động vào đời sống
con người. Hơn nữa đến khi hình thành những làng nghề thủ công truyền
thống chuyên sản xuất một mặt hàng đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng thì
càng chứng tỏ sự phát triển của nền kinh tế với những sự thay đổi phong phú
và năng động của quan hệ sản xuất hàng hóa. Do vậy đây là tiền đề vật chất
quan trọng để phát sinh, phát triển những nhu cầu văn hóa tinh thần không thể
thiếu của con người. Đó là việc giao lưu văn hóa với nhau trong đó có văn
hóa Quan họ.
1.1.2. Kinh tế - xã hội
Dù ở bất kỳ thời kỳ lịch sử nào thì kinh tế bao giờ cũng là yếu tố nền
tảng quyết định và quy định đời sống tinh thần xã hội.
Nếu xứ Đoài mang tính bán sơn địa với địa hình, cảnh quan về kinh tế
và văn hóa nương rẫy thì xứ Bắc chủ yếu là vùng đồng bằng trung châu xen
kẽ đồi núi thấp. Cảnh quan thiên nhiên đẹp, có núi sông có đồng bằng rộng,
bằng phẳng mở rộng về xứ Đông và Nam. Vì thế mà Bắc Ninh có tiềm năng
cả về đất đai sông ngòi, núi rừng nên sớm trở thành một vùng kinh tế có cả
thế mạnh về đồng bằng, trung du, miền núi và đặc biệt quan trọng là cư dân
Bắc Ninh có truyền thống cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động..
Ở Bắc Ninh với điều kiện tự nhiên ưu đãi như đất đai, sông ngòi, vị trí
địa lí và nhiệt độ nên nơi đây sớm được con người tụ cư định cư khai thác
kinh tế nông nghiệp lúa nước từ khá sớm.
Từ mấy ngàn năm trước, người Việt cổ đã cư trú lập làng ở ven sông
Cầu, sông Dâu…nay còn lại hệ thống các di chỉ khảo cổ học thuộc các nền

văn hóa Đồng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn phân bố rộng khắp
với nhiều loại hình phong phú: Di chỉ cư trú xưởng thủ công, mộ táng…Đó là
dấu tích những làng xã của cư dân Việt cổ sống chủ yếu bằng nghề canh tác

NguyÔn ThÞ Loan

10

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 14 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 15 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

nông nghiệp trồng lúa nước. Căn cứ vào các hạt gạo cháy và mảnh trấu tại các
di chỉ khảo cổ học có niên đại cách ngày nay trên dưới 3 nghìn năm. Chúng ta
biết được rằng Bắc Ninh là một trong các địa phương có nghề trồng lúa nước
rất sớm ở nước ta.
Xứ Bắc hay Kinh Bắc được dân gian ca ngợi là một vùng quê trù phú:
“Ai lên xứ Bắc mà trông
Đất lành gạo trắng nước trong thay là”
[11; 700]
Bắc Ninh nổi tiếng với hàng chục giống lúa Thơm, lúa tốt cùng với
những cây hoa màu như: Lạc, đỗ, vừng, thuốc lá, dâu tằm và các cây ăn quả
khác. Đã có một vùng cư dân chuyên trồng dâu chăn tằm được mang tên

vùng Dâu (làng Dâu) tức trung tâm Luy Lâu, nay thuộc huyện Thuận Thành ở
bờ Nam sông Đuống.
Người dân ở đây có nhiều kinh nghiệm canh tác lại cần cù lao động nên
năng suất lúa ở đây khá cao so với các địa phương khác trên đất nước. Chính
năng suất lúa cao đã tạo cho cơ sở vật chất ở đây tương đối sung túc đến một
mức độ tạo thuận lợi cho sự phát triển văn hóa. Trong đó hội hè nở rộ tưng
bừng vào bậc nhất trong cả nước trong những ngày hội xuân thu nhị kì sinh
hoạt văn hóa Quan họ là hoạt động trung tâm nổi bật rộng khắp trong toàn
vùng Quan họ.
Nghề nông phát triển đã kéo theo sự phát triển của các ngành nghề thủ
công vào bậc nhất nước ta. Người ta đã tìm thấy ở chân núi Tiêu (Từ Sơn) di
chỉ xưởng chế tác đồ trang sức bằng đá với những mũi khoan, hạt chuỗi, hoa
tai bằng đá ngọc. Đây là di chỉ xưởng chế tác đồ trang sức bằng đá lớn nhất
tìm thấy được ở nước ta thuộc văn hóa Phùng Nguyên (cách đây trên dưới 4
nghìn năm). Đặc biệt, ngay trong thành cổ Luy Lâu trung tâm của vùng Dâu
đã tìm thấy mảnh khuôn đúc trống đồng và hàng loạt di vật bằng đồng như:

NguyÔn ThÞ Loan

11

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 15 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 16 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp


Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Trống đồng, dao găm, dìu với hoa văn đẹp độc đáo hay căn cứ vào những viên
chì lưới bằng đất nung tìm thấy dưới lòng sông Dâu và những di vật trên công
trường đá Bãi Tự ngày nay cho ta biết được người xứ Bắc đã tinh xảo trong
nghề thủ công đúc đồng, chế tác đồ trang sức, làm gốm từ cách đây rất lâu.
Sử sách cũng đã ca ngợi Bắc Ninh là vùng đất “Trăm nghề”. Sách
“Kinh Bắc phong thổ” được viết vào thời Lê Trung Hưng đã ghi lại trăm làng
nghề của xứ Kinh Bắc. Nhiều nơi hình thành các làng nghề sản phẩm bán ra
cả vùng và cả nước, đội ngũ thợ thủ công đông đảo nhiều người có tay nghề
cao. Chúng ta phải kể đến các làng nghề như gốm Thổ Hà, Đại Tâm, đúc
đồng Đại Bái, rèn sắt ở Đa Hội, Quế Nham, cày bừa ở Đông Xuất, làng thợ nề
Viêng Tiêu, nghề mộc chạm khắc gỗ ở Tiên Sơn, Phù Khê…Hiện nay, nghề
thủ công mĩ nghệ truyền thống ở Đồng Kị đã xuất khẩu đi nhiều nơi như
Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và một số thị trường khác hiện nay, nghề
làm tranh dân gian Đông Hồ với những nguyên liệu vẽ tranh làm từ tự nhiên
trên giấy Gió phát triển.
Nhiều làng nghề truyền thống còn tồn tại và phát triển cho đến ngày
nay và trở thành một thành phần kinh tế mũi nhọn của địa phương như: Trạm
khắc gỗ Đồng Kị, giấy Phong Khê, đúc đồng Đại Bái, rèn sắt Đa Hội, đem lại
cuộc sống sung túc cho người dân nơi đây.
Nghề nông và các nghề thủ công nghiệp phát triển lại nằm ở đầu mối
giao thông thuận lợi nên từ xa xưa nơi đây đã phát triển giao lưu buôn bán.
Thời Hùng Vương bộ Vũ Ninh cũng là đầu mối thông thương kinh tế
phát đạt. Thời Bắc thuộc Luy Lâu - Long Biên là trung tâm đô hộ của Hán tộc
là cửa ngõ thông thương với phương Bắc. Thời phong kiến tự chủ cũng như
thời Pháp thuộc Kinh Bắc nằm kế cận Thăng Long - Hà Nội. Đây đều là các
trung tâm buôn bán lớn với nhiều loại hàng hóa phong phú và đa dạng. Vì
vậy, những vùng đất này đã thu hút rất nhiều khách buôn cả trong nước cũng
như ngoài nước.


NguyÔn ThÞ Loan

12

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 16 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 17 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Đặc biệt ở nông thôn của Bắc Ninh, hệ thống chợ làng, chợ vùng, đình
chùa rất phát triển. Tính ra cả tỉnh Hà Bắc (cũ) gần đây thống kê được có gần
150 chợ to nhỏ các loại. Chợ là nơi tụ họp, phản ánh rõ nhất sự phát triển của
vùng đó. Hàng hóa được đem ra chợ bán chủ yếu là lúa gạo, nông, lâm sản và
hàng thủ công do dân địa phương và các vùng sản xuất mang tới trao đổi mua
bán. Tiêu biểu có nhiều chợ lớn như: Chợ Giàu (huyện Tiên Sơn), chợ Chờ
(huyện Yên Phong), chợ Đáp Cầu (Bắc Ninh)…Tầng lớp tiểu thương buôn
bán ở chợ quê khá đông đảo góp phần kích thích sản xuất vùng phát đạt.
Chợ không chỉ phản ánh sự phát triển kinh tế mà còn mang ý nghĩa tín
ngưỡng, tôn giáo. Chợ đình tuy không nhiều nhưng gắn liền với phong tục tập
quán của địa phương và đặc điểm thờ Thành Hoàng làng như chợ Ó ở Tiên
Sơn, chợ Đình Kim ở Thị Cầu…được gọi là chợ âm - dương: Chợ chỉ họp vào
lúc chạng vạng tối (18 giờ). Người ta cho rằng đây là thời gian người và ma
hoặc quỷ thần gặp gỡ, trao đổi thông qua việc mua bán…

Có thể thấy ngoài hoạt động kinh tế ở chợ thì chợ còn phản ánh đậm
nét văn hóa của người Việt ở vùng đất này. Hoạt động kinh tế của người Việt
ở Bắc Ninh sớm phát triển trên cả ba phương diện: Không thuần túy là chỉ sản
xuất nông nghiệp lúa nước - trồng trọt - chăn nuôi mà còn phát triển ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp; và giao thương buôn bán chợ búa - nội, ngoại
thương. Đây là ba đặc điểm chính về kinh tế, đồng thời nó còn là nền tảng, là
cơ sở cho sự phát triển văn hóa, xã hội như phong tục tập quán, tôn giáo tín
ngưỡng, văn hóa nghệ thuật trên vùng đất truyền thống của cư dân Việt.
Một điểm đặc biệt khi nghiên cứu về tỉnh Bắc Ninh xưa ta thấy nền
kinh tế dựa trên cơ sở nông nghiệp ruộng nước kết hợp chặt chẽ với thủ công
nghiệp trong từng làng. Với lối canh tác nông nghiệp ruộng nước đó trên địa
hình sản xuất cánh đồng không được bằng phẳng và đặc biệt cần có hệ thống
tưới tiêu nước đòi hỏi phải có sự hợp tác nhất định giữa những người sản xuất

NguyÔn ThÞ Loan

13

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 17 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 18 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

với nhau ở một chừng mực nhất định. Sản xuất trong điều kiện tự nhiên mưa,

nắng thất thường, sâu bệnh, cuộc sống không ổn định, thêm vào đó là nạn
cướp, chiến tranh luôn xảy ra làm cho cuộc sống của người nông nhân luôn
bấp bênh.
Bên cạnh chế độ tư hữu về ruộng đất rất phát triển còn tồn tại chế độ sở
hữu công cộng dưới nhiều hình thức khác nhau sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau
còn chặt chẽ giữa các thành viên trong một xã thôn. Sự lưu hành của luật tục,
tôn giáo cũng có nhiều tác dụng để đoàn kết các thành viên trong xã thôn lại.
Để sản xuất nông nghiệp các thành viên trong làng xã đã có sự cố kết chặt chẽ
với nhau. Đoàn kết chính là yêu cầu thường xuyên trong cuộc sống.
Qua những chứng tích khảo cổ và lịch sử văn hóa ở Bắc Ninh ngày nay
cho thấy. Nơi đây thuộc địa bàn sinh tụ chủ yếu của người Việt cổ ở đồng
bằng Bắc Bộ, trở thành nôi sinh thành của dân tộc Việt, bộ phận trọng yếu của
quốc gia Văn Lang - Âu Lạc, đồng thời là nơi hình thành tảng nền văn hóa,
văn minh Việt Nam. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước với cơ tầng
văn hóa xóm làng. Ý thức cội nguồn và mối quan hệ họ hàng (gia đình) - làng
nước được hình thành từ rất sớm và ngày càng được củng cố. Nhờ đó, tạo nên
nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc, xây dựng quốc gia, nảy nở và phát
triển ý thức tự chủ tinh thần quả cảm trong cuộc đấu tranh chống thiên tai
địch họa. Tất cả những giá trị tinh thần đó đều được người dân Bắc Ninh lưu
giữ và đặc biệt nó được biểu hiện phong phú hơn bất cứ địa phương nào trên
đất nước ta thông qua tục kết chạ, kết bạn giữa các làng nó thể hiện đậm nét
truyền thống tinh thần cộng đồng xã thôn muôn màu muôn vẻ đó. Theo số
lượng thống kê năm 2010, tỉnh Bắc Ninh có diện tích tự nhiên là 823 km2.
Với dân số năm 2010 là 1.038.299 người, gồm 8 dân tộc chính: Việt - Nùng Tày - Cao - Lan - Sán - Dao - Hoa. Trong đó người Việt chiếm hơn 90%.
Phân bố dân cư Bắc Ninh mang đậm sắc thái nông nghiệp, nông thôn với tỉ

NguyÔn ThÞ Loan

14


Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 18 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 19 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

lệ 72,8%, dân số sống ở khu vực thành thị chỉ chiếm 27,2%, thấp hơn so tỉ lệ
dân đô thị của cả nước (29,6%). Mật độ dân số trung bình năm 2010 của tỉnh
là 1257 người/km2. Dân số phân bố không đều giữa các huyện, thành phố.
Mật độ dân số của Quế Võ và Gia Bình chỉ bằng khoảng 1/3 của Từ Sơn và
1/3 của thành phố Bắc Ninh.
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, Bắc Ninh
không chỉ được biết đến với những làng nghề nổi tiếng, những làn điệu dân ca
trữ tình làm say đắm lòng người mà Bắc Ninh còn đang được biết đến như
một điểm sáng về phát triển kinh tế - xã hội. Bắc Ninh đang chuyển mình
mạnh mẽ với những bước đi dài trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phấn
đấu để đạt mục tiêu 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp.
1.1.3. Văn hóa
Bắc Ninh là một miền quê giàu đẹp của đất nước ta, được mệnh danh là
vùng đất giàu truyền thống văn hóa, là cái nôi văn hóa của người Việt. GS.
Trần Quốc Vượng đã có nhận xét: “Hà Bắc - Kinh Bắc là cái nôi - cốt lõi, là
hạt nhân của người Kinh - Việt, là vùng đất chính và chủ yếu của xứ Bắc nằm
trong không gian hình bình hành với giới hạn đôi bờ sông Cà Lồ phía Bắc,
đôi bờ sông Dâu, sông Đuống ở phía Nam, đôi bờ Nhị Hà ở phía Tây, và quá
lên là đôi bờ sông Phú Lương - Nguyệt Đức, phía Đông là không gian Tày

nước cổ hòa trộn với không gian Mã Lai cổ” [28; 6-9]. Nền văn hóa cổ
truyền Việt Nam được thể hiện ở những di sản văn hóa vật chất cộng đồng
như đình, chùa và văn hóa tinh thần như phong tục tập quán, lễ hội. Đó cũng
là những thành tố văn hóa góp phần tạo nên văn hóa xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh.
Kinh Bắc là đất văn hiến, có nền văn hóa, nghệ thuật phát triển khá cao,
tiêu biểu cho nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh dòng văn hóa ấy trong
điều kiện nhân dân vẫn còn tươi rói sống động những sinh hoạt văn hóa dân
gian. Dòng văn hóa đó phản ánh trung thực cuộc sống lao động sản xuất, cuộc

NguyÔn ThÞ Loan

15

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 19 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 20 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

đấu tranh dựng nước và giữ nước, phản ánh trí tuệ, tri thức, tình cảm tâm hồn,
lý tưởng thầm mĩ của con người.
Kinh Bắc - Bắc Ninh là vùng đất có thế núi hùng vĩ linh thiêng, hội tụ
đất trời nên sớm là địa bàn dân cư sinh cơ lập nghiệp và sinh ra nhiều nhân tài
cho đất nước. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của nhà sử học Phan Huy
Chú viết vào đầu thời Nguyễn, đã ghi nhận về núi sông hùng vĩ của xứ Kinh

Bắc đại thể như: Kinh Bắc có mạch núi cao, nhiều sông núi vòng qua. Mạch
đất tụ vào đấy, càng nhiều chỗ có dấu tích đẹp, tinh hoa họp vào đất, nên sinh
ra nhiều nhân tài, là khí hồn ở phương Bắc phát ra nên khác với mọi nơi. Quả
vậy, Bắc Ninh là mảnh đất có bề dày ngàn năm lịch sử, văn hiến và đã hội tụ
tỏa sáng ở bản sắc văn hóa.
Hàng nghìn năm trong lịch sử chống ngoại xâm, vùng đất và con người
thuộc Bắc Ninh ngày nay đã được lịch sử ghi nhận nơi đây là địa bàn trọng
yếu. Nguyễn Trãi đã từng đánh giá đây là “địa bàn trọng yếu trấn thứ tư
trong bốn kinh trấn và đứng đầu phên dậu phía Bắc” [10; 6]. Trong bốn trấn
duy chỉ có Bắc Ninh được mang tên Kinh Bắc để sánh với Kinh đô Thăng
Long, đã khẳng định vị trí vai trò đặc biệt quan trọng của Bắc Ninh trong lịch
sử dựng nước và giữ nước, xây dựng, phát triển văn minh Đại Việt. Có thể
thấy Bắc Ninh là một trung tâm quan trọng của đất nước, là địa bàn chủ yếu
diễn ra cuộc đấu tranh chống xâm lược đồng hóa, bảo tồn và phát triển văn
hóa tiến tới giành lại quyền độc lập dân tộc.
Qua trường kì đấu tranh chống xâm lược và đồng hóa làng xã Bắc Ninh
đã được củng cố và thể hiện sự liên kết bền vững, trở thành pháo đài chống
trả thắng lợi sự kìm kẹp và đồng hóa của kẻ thù xâm lược. Mối quan hệ cộng
đồng họ hàng - làng - nước ngày càng bền chặt, tạo thành sức mạnh cộng
đồng để tiến lên giành lại nền độc lập dân tộc. Nước tuy mất nhưng làng
không mất. Người dân vẫn bám chắc mảnh đất quê hương và kiên trì liên kết
đấu tranh bảo vệ làng xóm. Chính vì vậy, bằng sức mạnh cộng đồng dân tộc

NguyÔn ThÞ Loan

16

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 20 of 103.

Khoa LÞch sö



Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 21 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

tiến lên giành lại nước. Đó là hiện thực và kinh nghiệm lịch sử làng quê Bắc
Ninh, trở thành điển hình cho làng quê Việt Nam.
Cũng chính thế đứng và trọng trách lịch sử ấy đã hun đúc nên phẩm
chất anh hùng, mưu lược, quyết chiến quyết thắng của người dân Bắc Ninh và
viết lên những trang sử chói lọi về lịch sử chống ngoại xâm của Bắc Ninh để
lại những dấu ấn khó phai mờ trong đời sống tinh thần của cư dân nơi đây.
Người Bắc Ninh sớm có truyền thống yêu nước đánh giặc, thời nào
cũng có những bậc anh hùng hào kiệt cùng nhân dân đánh giặc giữ nước.
Truyền thống đoàn kết các dân tộc từ xưa đến nay đã được phát huy trong các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm từ thời kì phong kiến độc lập đến thời kì
chống giặc Mĩ xâm lược. Sử sách và dân gian còn mãi truyền tụng về Thánh
Gióng người xứ Kinh Bắc, là anh hùng đầu tiên cầm quân đánh giặc giữ nước.
Và tự hào thay cho nhân dân tỉnh Bắc Ninh là những người đầu tiên viết nên
trang sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Những thế kỉ đầu công nguyên phong kiến phương Bắc xâm lược nước
ta áp bức, bóc lột nhân dân dã man. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng nhân dân Bắc Ninh đã đứng lên khởi nghĩa giải phóng đất nước. Vào
thế kỉ VI, dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Lý Nam Đế và danh tướng Triệu
Quang Phục nhân dân Bắc Ninh cũng tham gia vào cuộc khởi nghĩa đánh đuổi
quân Lương. Các danh tướng họ Trương, Trương Hống, Trương Hát quê Vân
Mẫu, (Vân Dương, Quế Võ) đã nêu cao tư tưởng trung quân ái quốc đã được
nhân dân các làng xã dọc sông Cầu thờ làm Thần Hoàng làng gọi là “Thánh

Tam Giang”. Đến thế kỉ XI, vương triều nhà Lý có công lao “Bình Chiêm,
phạt Tống”. Đặc biệt, cuộc khởi nghĩa chống Tống trên sông Như Nguyệt của
Lý Thường Kiệt, bản tuyên ngôn đầu tiên của nhân dân ta cũng được khai
sinh. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thế kỉ XIII với sự
chỉ đạo của Trần Quốc Tuấn nhân dân Bắc Ninh cùng nhân dân cả nước đã
đập tan ba lần tiến quân của quân Mông - Nguyên. Có thể thấy Bắc Ninh còn

NguyÔn ThÞ Loan

17

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 21 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 22 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

nổi tiếng là đất của các bậc anh hùng hào kiệt có công đánh giặc giữ nước.
Tiếp theo đó là chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang kết thúc thắng lợi 10 năm
kháng chiến chống quân Minh thế kỉ XV.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ nhân dân Bắc Ninh vẫn
luôn kiên cường kháng chiến chống giặc giữ nước đi theo con đường Hồ Chí
Minh đã chọn với tên tuổi của các anh hùng đã trở thành bất tử như: Nguyễn
Văn Cừ, Ngô Gia Tự…Nhân dân Bắc Ninh đã đóng góp nhiều công sức
xương máu góp phần cùng cả nước giành độc lập dân tộc thống nhất.

Gian khổ nhiều, mất mát hy sinh nhiều cho sự sống còn của quê
hương, đất nước suốt chiều dài lịch sử nên con người ở quê hương này còn
được lịch sử hun đúc phẩm chất, tình cảm yêu thương sự sống, yêu thương
con người một phẩm chất cơ bản của người anh hùng và người nghệ sĩ.
Chính những phẩm chất, tình cảm cao quý này sẽ chi phối mọi sáng tạo của
người dân xứ Bắc trong mọi lĩnh vực nhất là lĩnh vực văn hóa nghệ thuật
trong đó có Quan họ.
Bản sắc văn hóa đất Bắc Ninh còn được thể hiện đậm nét ở truyền
thống hiếu học khoa bảng. Kinh Bắc - Bắc Ninh có một vị trí lịch sử và địa
văn hóa thuận lợi cho nên “nhân tài Kinh Bắc đã nảy nở một cách rực rỡ”
[11; 26]. Nơi đây là vùng đất khởi sắc nhiều nhân tài trong đó có đội ngũ trí
thức khá đông đảo những nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ nối tiếp nhiều thế hệ.
Vì vậy trong dân gian đã có câu: “Một giỏ sinh đồ, một bồ ông cống, một
đống trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn” [11; 27] để miêu tả truyền thống
khoa bảng của vùng đất này.
Trong lịch sử khoa bảng của các triều đại, kể từ khoa thi đầu tiên 1075
dưới triều Lý đến khoa thi cuối cùng 1919 triều Nguyễn, người Bắc Ninh có
gần 700 vị đỗ tiến sĩ, chiếm hơn 1/4 tiến sĩ cả nước, có hơn 1/3 số trạng
nguyên trong cả nước. [20; 13 - 14].
Lấy học vị đại khoa (Thái học sinh, tiến sĩ, tam khôi) là mốc để xét thì

NguyÔn ThÞ Loan

18

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 22 of 103.

Khoa LÞch sö



Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 23 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

đất Hà Bắc một thời ngót nghìn năm đã có số lượng đỗ nhiều nhất, nhiều
người đỗ cao nhất, nhiều người đỗ trẻ nhất so với cả nước. Tiêu biểu như
người đỗ thủ khoa thi đầu tiên dưới triều Lý là Lê Văn Thịnh, vị trạng nguyên
đầu tiên Nguyễn Quán Quang, đậu tiến sĩ trẻ tuổi nhất nước ta là Nguyễn
Nhân Thiếp năm 15 tuổi.
Các làng vốn có truyền thống khoa bảng như họ Nguyễn, họ Phạn làng
Kim Đôi (nay thuộc huyện Quế Võ), làng Tam Sơn (nay thuộc huyện Tiên
Sơn), họ Ngô ở (Tam Giang)…Các nhân tài của Kinh Bắc - Bắc Ninh đã làm
rạng rỡ những trang sử dân tộc bằng tài năng đức độ, lòng yêu nước của mình.
Đó là những tài năng đóng góp vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
xây dựng phát triển văn hóa Việt Nam. Nền văn hiến Kinh Bắc đã được quốc
sử ghi công và ca ngợi, nhân dân nhớ ơn thờ cúng, nhiều nước lân bang khâm
phục kính nể. Đặc biệt chính nơi đây chưa có vùng nào lại xuất hiện nhiều nữ
trí thức như đất Bắc Ninh. Thời nhà Lý có Ỷ Lan, thời nhà Lê có Ngô Chí
Lan. Thời Tây Sơn có Lê Ngọc Hân…Họ là những người tiêu biểu cho đức
tính phẩm hạnh và nhân cách của người Bắc Ninh cần cù, khéo léo, năng
động trong làm ăn, hiếu học, thông minh, thành đạt trong khoa bảng, thủy
chung lịch lãm trong quan hệ ứng xử với bạn bè, quý khách yêu say và giàu
năng lực sáng tạo trong hoạt động văn hóa nghệ thuật.
Bắc Ninh thực sự là một vùng văn hiến được nhân dân trong nước thừa
nhận ca ngợi và lưu truyền:
“Tỉnh Bắc Ninh có lịch, có lề
Có nghề buôn bán có nghề cửi canh
Có nghề xe chỉ học hành

Có nghề tô vẽ tờ tranh bốn mùa”
(Ca dao) [11; 442]
Bắc Ninh còn là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng một kho tàng văn hóa,

NguyÔn ThÞ Loan

19

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 23 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 24 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

văn nghệ dân gian phong phú. Xứ Kinh Bắc thực sự là một tiểu vùng văn
hóa, văn học dân gian đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vùng đất này
đầy ắp những truyền thuyết, huyền thoại, giai thoại, sử thi, thơ ca, hò
vè…Dọc sông Cầu còn có hệ thống truyền thuyết về Trương Hống, Trương
Hát với tục hội thờ Thánh Tam Giang của trên 300 làng xóm nơi đây hay
truyền thống về chiến thắng sông Như Nguyệt, Đền Xá…
Hệ thống thần thoại, truyền thuyết, truyện kể dân gian của xứ Kinh Bắc
đã phản ánh ý thức con người nơi đây về tự nhiên - xã hội - con người ở mọi
góc độ đấu tranh, chinh phục tự nhiên và cả tình yêu đôi lứa. Đây là nơi hội tụ
nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền đặc sắc như: Hát trống quân, ca
trù… Đặc biệt là dân ca Quan họ ở đây không những là một loại hình văn hóa

nghệ thuật đặc đáo với hàng trăm làn điệu, hàng nghìn lời ca ngọt ngào đằm
thắm mà còn mang những giá trị thẩm mĩ cao được thể hiện ở nhiều mặt: Từ
quan hệ giao tiếp cho đến lời ca tiếng hát. Những liền anh liền chị Quan họ
trong giao tiếp hay ca hát bao giờ cũng là người thanh lịch, hào hoa tế nhị,
trọng tình nặng nghĩa và đây chính là một nét đẹp văn hóa của người Bắc Ninh.
Bắc Ninh còn được sử sách và dân gian ca ngợi truyền tụng là xứ sở
của đình chùa, lễ hội. “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài” [11; 267] xứ Bắc hay
Kinh Bắc - Bắc Ninh tự hào là một trong các xứ sở của đình chùa và lễ hội.
Tiêu biểu là những ngôi chùa nổi tiếng trong hệ thống chùa Tứ Pháp (huyện
Thuận Thành) từng là trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta cùng với đó là
những di sản văn hóa quý giá như chùa Dặm, chùa Phật Tích, chùa Tiêu…
Bắc Ninh là nơi có sự giao hòa Việt - Hán từ rất sớm. Với sự giao hòa
ấy, ở thời kì ngàn năm Bắc thuộc, sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xã được
phản ánh chủ yếu ở lễ hội đền chùa. Mỗi dịp mở hội là cư dân Việt biểu lộ sự
sùng bái và diễn lại sự tích các anh hùng dân tộc như: Thánh Gióng, Thánh
Tam Giang…Các vị này đã trở thành thần Thành Hoàng của nhiều xóm.

NguyÔn ThÞ Loan

20

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 24 of 103.

Khoa LÞch sö


Header Page -Header Page -Header Page - Header Page -Header Page -Header Page 25 of 103.

Khãa luËn tèt nghiÖp


Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Không chỉ có thế, sinh hoạt lễ hội ở làng xã của người Việt ở nơi đây còn
phản ánh đậm nét tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa
nước, còn thể hiện tinh thần ý nghĩa Phật giáo được Việt hóa như Phật Mẫu
Man Nương ở lễ hội chùa Dâu.
Bên cạnh những ngôi chùa nổi tiếng đó còn có nhiều ngôi đình nổi
tiếng như dân gian đã từng ca ngợi “thứ nhất là đình Đông Khang, thứ nhì
Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm” [11; 702]. Những ngôi đình nổi tiếng này đều
của các làng xã vùng quê Quan họ. Đó là những trung tâm sinh hoạt văn hóa
sầm uất với những hội hè đình đám, với những cuộc rước sách tế lễ thần
thánh, những cuộc họp bàn bạc và quyết định việc làng. Vào những ngày lễ
hội văn hóa Quan họ tham gia cả vào phần lễ và phần hội.
Xứ Bắc còn là quê hương của những ngôi đền thờ Mẫu và đặc biệt hơn
nữa những ngôi đền này tập trung chủ yếu ở vùng có những làng Quan họ
gốc: Đền thờ bà thủy tổ Quan họ ở Làng Viêm Xá (Diềm), đền thờ bà Chúa
Kho (Cổ Mễ)…
Đình chùa xứ Kinh Bắc còn nổi tiếng với những lễ hội lớn. Theo thống
kê của Sở Văn hóa Thông Tin tỉnh thì trong một năm ở Bắc Ninh có đến hơn
500 lễ hội diễn ra suốt cả bốn mùa, “xuân thu nhị kì làng nào cũng có hội sự
lệ đình đám” [10; 7]. Tiêu biểu như hội Lim, hội Diềm, hội Đền Đô, hội
Ó…đã kết tinh ở đó hàng ngàn năm những tinh hoa văn hóa Kinh Bắc - Bắc
Ninh. Cùng với hội hè phổ biến, tôn giáo, hát Quan họ đi kèm theo là tục kết
bạn Quan họ không những làm tăng thêm vui tươi thắt chặt thêm tinh thần
cộng đồng mà còn tạo ra, củng cố các mối quan hệ cộng cảm thân thuộc giữa
các thành viên của một làng, một xã hay giữa các làng với nhau.
Như vậy, ở Bắc Ninh xưa có nhiều điều kiện để tạo nên quan hệ giữa
xã này với xã khác. Xã thôn đó không hoàn toàn tồn tại một cách biệt lập
hoàn toàn. Tuy vậy, quan hệ với bên ngoài của một làng không được rộng rãi


NguyÔn ThÞ Loan

21

Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page -Footer Page 25 of 103.

Khoa LÞch sö


×