Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Đình công bất hợp pháp theo quy định pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.84 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CAO XUÂN DŨNG

ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP
THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM CÔNG BẢY

Hà Nội – Năm 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu đã nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, kết quả trong luận văn là
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Giáo viên hướng dẫn

Tác giả luận văn


TS. Phạm Công Bảy

Cao Xuân Dũng


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và sự hướng dẫn của thầy cô giáo,
gia đình, bạn bè trong suốt khóa học, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân
thành đến:
TS Phạm Công Bảy, người đã hướng dẫn tôi tận tình trong quá trình
nghiên cứu và viết luận văn này.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu nhà trường cùng
các thầy cô giáo giảng dậy, khoa sau Đại học Trường Đại học Luật Hà Nội
cũng như các thầy cô trong Hội đồng đã giúp tôi trang bị tri thức, tạo môi
trường điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận
văn này.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên cổ vũ tinh thần giúp tôi hoàn
thành tốt khóa học.
Xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đã hợp tác
chia sẻ thông tin, cung cấp cho tôi nhiều nguồn tài liệu, tài liệu hữu ích phục
vụ cho đề tài nghiên cứu này như Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung
tâm Hỗ trợ phát triển Quan hệ lao động (CIRD) Số 2 Đinh Lễ, Hà Nội.
Hà Nội, ngày 26 tháng 7 năm 2016
Tác giả
Cao Xuân Dũng


BẢNG TỪ VIẾT TẮT


BLLĐ:

Bộ luật Lao động

BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLTTDS:

Bộ luật Tố tụng Dân sự

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

EVFTA:

Hiệp định thương mại tự do Á – Âu

FTA:

Tổ chức Thương mại tự do

ILO:

Tổ chức lao động Quốc tế

NLĐ:


Người Lao động

NSDLĐ:

Người sử dụng lao động

TCLĐ:

Tranh chấp lao động

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

TPP:
WTO:
VKFTA:

Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
Tổ chức thương mại thế giới
Hiệp định thương mại tự do (Việt Nam – Hàn Quốc)


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………...1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài……………………………………….....2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài………………………...….4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………5
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………..5

6. Những điểm mới của luận văn……………………………………….6
7. Kết cấu của luận văn……………………………………………….…6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CÔNG VÀ PHÁP
LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP ………………..……………...7
1.1. Đình công …………………………………….…………………......7
1.1.1. Khái niệm…………..………………….……………………......7
1.1.2. Các dấu hiệu cơ bản của đình công……………….…….……11
1.1.3. Phân loại đình công..………………….………………………15
1.2. Đình công bất hợp pháp……………….…………………………..17
1.2.1. Khái niệm ……………….……………………………………..17
1.2.2. Ảnh hưởng ( tác động ) của đình công bất hợp pháp……...…20
1.3. Điều chỉnh pháp luật về đình công bất hợp pháp………………..21
1.3.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với đình công
bất hợp pháp…………………………………………………………...……21
1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về đình công bất hợp pháp….22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH


VỀ ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH…….38
2.1. Các trường hợp đình công bất hợp pháp và thực tiễn thi
hành………………..………………….…………………………………….38
2.2. Thẩm quyền, thủ tục tuyên bố cuộc đình công bất hợp pháp và
thực tiễn thi hành ………..…………………………………………………52
2.2.1. Thẩm quyền tuyên bố tính bất hợp pháp của cuộc đình
công…...……………….................................................................................53
2.2.2. Thủ tục tuyên bố cuộc đình công bất hợp pháp.......................53
2.3. Hậu quả pháp lý trong trường hợp đình công bất hợp pháp và
thực tiễn thi hành ……………………….…………………………….........57
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT ĐỒNG THỜI HẠN CHẾ, NGĂN NGỪA ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP

PHÁP……………..........................................................................................63
3.1. Hoàn thiện pháp luật về đình công và đình công bất hợp
pháp................................................................................................................63
3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về đình công và đình
công bất hợp pháp..........................................................................................63
3.1.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Pháp luật về đình công và
đình công bất hợp pháp..................................................................................65
3.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện nhằm hạn chế, ngăn ngừa đình
công bất hợp pháp ........................................................................................71
KẾT LUẬN………………………………………………………………....79


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đình công là hiện tượng tất yếu của quan hệ lao động trong nền
kinh tế thị trường. Ở các quốc gia có nền kinh tế công nghiệp phát triển,
đình công xuất hiện sớm và theo đó, hệ thống pháp luật cũng được hình
thành để đáp ứng yêu cầu thực tế. Ở Việt Nam, việc đình công đã và
đang xảy ra ngày càng phổ biến. Theo “Báo cáo tại Hội thảo Công đoàn
tham gia giải quyết tranh chấp lao động và đình công - thực trạng và
giải pháp” do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tổ chức ngày
27/01/2015 thì trong 6 năm từ 2009 đến 2014, cả nước xảy ra hơn 3000
cuộc ngừng việc tập thể và đình công, tại 40 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Tính ra, trung bình mỗi năm xảy ra từ 300 - 450 cuộc
ngừng việc tập thể và đình công1. Đây là những con số đáng phải suy
ngẫm về vấn đề đình công ở Việt Nam. Trong quan hệ lao động, bao
giờ các bên cũng có những quan điểm và lợi ích khác nhau. Bao giờ
bên sử dụng lao động cũng chiếm ưu thế nhất định. Đình công là vũ khí

cuối cùng mà tập thể lao động sử dụng để đấu tranh với người sử dụng
lao động (NSDLĐ) nhằm bảo vệ quyền lợi của mình trong quan hệ lao
động. Vì vậy, đình công sẽ giúp tập thể lao động bảo vệ được các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, đình công xảy ra cũng sẽ có
những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, đến trật tự xã hội, thậm chí là an ninh công cộng. Chính
vì vậy pháp luật các nước tuy có thừa nhận đình công nhưng đều có
những quy định nhằm đảm bảo cho cuộc đình công diễn ra theo những
trật tự nhất định.
Việt Nam đã sớm ghi nhận quyền đình công của người lao động
(NLĐ), tạo điều kiện cho phép người lao động được đình công, đồng
thời quy định cuộc đình công phải tuân theo các quy định của pháp luật.
1

/>

2

Pháp luật cũng quy định các cuộc đình công bị coi là bất hợp pháp để
người lao động tránh không vi phạm.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các cuộc đình công xảy ra trong
thời gian qua hầu hết đều là đình công bất hợp pháp. Điều đó cho thấy
giữa quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện về đình công còn
một khoảng các khá xa. Chính vì vậy, việc xử lý hậu quả của cuộc đình
công bất hợp pháp còn nhiều khó khăn; việc áp dụng các giải pháp hạn
chế, ngăn ngừa đình công bất hợp pháp chưa đem lại hiệu quả, tác động
tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của vấn đề đình công và đình công bất hợp pháp; trên cơ sở đó đưa
ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đình công bất hợp pháp

là một nhu cầu cấp thiết; góp phần hạn chế, ngăn ngừa đình công bất
hợp pháp, xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, lành mạnh. Vì lẽ đó, tôi
chọn đề tài Đình công bất hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt
Nam làm đề tài Luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lĩnh vực đình công luôn được sự quan tâm, chú ý của các nhà
nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về đình công được các nhà
nghiên cứu khai thác, phân tích trong các công trình, bài viết của mình,
có thể kể đến một số công trình như sau:
* Sách
- Tìm hiểu pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động, tác giả
Đặng Đức San, năm 1996;
- Pháp luật về đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam, tác
giả Đỗ Ngân Bình, năm 2006, NXB Tư pháp.
* Hội thảo, tạp chí
- Mấy ý kiến về tranh chấp lao động và đình công ở Việt Nam,
tác giả Nguyễn Kim Phụng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội, 4/2004.


3

- Về khái niệm đình công và giải quyết đình công theo dự thảo
pháp lệnh đình công và thủ tục giải quyết đình công”, tác giả Phạm
Công Bảy, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2, năm 2005;
- Một số suy nghĩ về pháp luật đình công và giải quyết đình công
ở nước ta, tác giả Phạm Kim Anh, Báo cáo tại Hội thảo quốc gia “Pháp
luật về đình công” tại Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005.
- Vấn đề tranh chấp lao động và đình công ở Việt Nam 10 năm
qua (2000-2010), tác giả Lê Thanh Hà, Báo cáo tại Hội thảo khoa học

do Viện Tâm lý học tổ chức ngày 25/3/2011 tại Hà Nội về “TCLĐ và
đình công trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta: Thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp”;
- Thực trạng tranh chấp lao động, đình công và kiến nghị việc
sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo BLLĐ sửa đổi, bổ sung, tác giả Phạm
Công Bảy, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10/2012;
- Những điểm mới về đình công trong BLLĐ năm 2012, tác
giả Trần Thị Thúy Lâm, Tạp chí Luật học.
* Luận án, luận văn
- Đình công và việc giải quyết đình công - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, luận văn thạc sỹ luật học, tác giả Trần Hồng Hà, năm
1996;
- Đình công và giải quyết đình công theo pháp luật lao động hiện
hành, luận văn thạc sỹ luật học, tác giả Đinh Văn Sơn, năm 2002;
- Pháp luật về đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ
Luật học của tác giả Đỗ Ngân Bình, năm 2005;
- Đình công và giải quyết đình công theo pháp luật lao động Việt
Nam, luận văn thạc sỹ luật học, tác giả Trần Hồng Hạnh, năm 2008;
Sau khi Bộ luật lao động năm 2012 (BLLĐ 2012) có hiệu lực
thi hành, vấn đề đình công tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu, có thể kể đến các công trình như:
- Những điểm mới về tranh chấp lao động và đình công trong Bộ


4

luật Lao động năm 2012, luận văn thạc sỹ Luật học, tác giả Chữ Thị
Xuyên;
- Đình công và giải quyết đình công theo Bộ luật lao động năm

2012, luận văn thạc sỹ Luật học, tác giả Hà Thị Hoa Phượng, năm
2013;
- Đình công theo BLLĐ năm 2012, luận văn thạc sĩ Luật học của
tác giả Nguyễn Thị Nhàn, năm 2013…
Có thể thấy vấn đề đình công không còn là vấn đề khá mới mẻ
trong giới nghiên cứu Luật học, việc nghiên cứu chưa thực sự nhiều.
Hơn nữa, hầu hết các công trình nghiên cứu tập trung vào việc nghiên
cứu một cách tổng quát về đình công, đình công theo quy định của pháp
luật, nghiên cứu đình công trong mối liên hệ với giải quyết tranh chấp
lao động (TCLĐ) và việc giải quyết các cuộc đình công…Cho tới nay,
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu các khía cạnh của đình công
bất hợp pháp, các dấu hiệu của đình công bất hợp pháp từ đó chỉ ra
những biện pháp, giải pháp ngăn ngừa, hạn chế đình công bất hợp pháp.
Trong khi đó, đình công bất hợp pháp là phổ biến trong các cuộc đình
công ở Việt Nam hiện nay, nhưng lại chưa có những quy định cụ thể
trong pháp luật Việt Nam. Do đó đề tài nghiên cứu về “đình công bất
hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam” vẫn mang tính mới
nhất định cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về
đình công bất hợp pháp, phân tích các quy định pháp luật Việt Nam
hiện hành về đình công bất hợp pháp, trên cơ sở đó đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đình công bất hợp pháp cũng như
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đình công bất hợp pháp trên thực
tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả thực hiện việc



5

nghiên cứu tập trung vào các nội dung sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đình công, đình công bất
hợp pháp cũng như sự điều chỉnh pháp luật về đình công bất hợp pháp;
- Phân tích đánh giá các quy định Việt Nam hiện hành về đình
công bất hợp pháp và thực tiễn áp dụng;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
đình công bất hợp pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành
về đình công bất hợp pháp như BLLĐ 2012 và các văn bản hướng dẫn
thi hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đình công nói chung, đình công bất hợp pháp nói riêng là hiện
tượng kinh tế xã hội nên có thể được nghiên cưú dưới nhiều góc độ
khác nhau. Luận văn này nghiên cứu đình công bất hợp pháp dưới góc
độ pháp lý (mà cụ thể là pháp luật lao động) ở các khía cạnh:quan niệm
về đình công bất hợp pháp, các trường hợp đình công bất hợp pháp, thủ
tục tuyên bố đình công bất hợp pháp, hậu quả của đình công bất hợp
pháp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện bằng nhiều phương pháp
nghiên cứu khoa học khác nhau: phương pháp tổng hợp và phân tích,
phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, phương
pháp kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Các phương pháp nghiên
cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, dựa trên các quan điểm, đường lối về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng và Nhà nước trong quản lý Nhà

nước nói chung và quản lý Nhà nước đối với hoạt động đình công bất
hợp pháp nói riêng.


6

6. Những điểm mới của Luận văn
Luận văn có những điểm mới sau đây:
- Luận văn đã góp phần làm rõ hơn và hoàn thiện hơn nữa những
vấn đề lý luận về đình công bất hợp pháp;
- Xác định được những nội dung cơ bản của sự điều chỉnh pháp
luật về đình công bất hợp pháp;
- Phân tích được thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về
đình công bất hợp pháp và thực tiễn thi hành;
- Đưa ra được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
đình công nói chung, đình công bất hợp pháp nói riêng cũng như
những giải pháp nhằm hạn chế đình công bất hợp pháp.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đình công và pháp luật về
đình công bất hợp pháp;
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về đình
công bất hợp pháp và thực tiễn thi hành;
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đồng thời
hạn chế, ngăn ngừa đình công bất hợp pháp.


7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÌNH CÔNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP
1.1. Đình công
1.1.1. Khái niệm
Xét về bản chất, quan hệ lao động là quan hệ mua bán sức lao
động, ở đó NLĐ muốn bán sức lao động với giá cao trong một điều
kiện thuận lợi, ngược lại, NSDLĐ muốn mua sức lao động với giá thấp
trong một môi trường làm việc kém thuận lợi hơn, ít chi phí đầu tư.
Chính vì vậy, quan hệ lao động vừa là quan hệ đối lập (sự đối lập có thể
dẫn tới xung đột) nhưng đồng thời là quan hệ hợp tác (hợp tác hai bên
cùng có lợi). Khi lợi ích không được dung hòa, sự đối lập ngày càng
tăng cao, một trong các bên có xu hướng sử dụng những biện pháp có
thể hợp pháp hoặc không hợp pháp để đạt được mục đích của mình.
Đình công là một trong những biện pháp mà NLĐ sử dụng để
gây áp lực với NSDLĐ với mong muốn đạt được những yêu cầu nhất
định. Vì vậy, đình công có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau:
Dưới góc độ kinh tế, đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế
được thực hiện bởi những NLĐ nhằm gây sức ép đối với NSDLĐ nhằm
đạt được những yêu sách nhất định. Các yêu sách đó có thể liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích của NLĐ trong quan hệ lao động, cũng có
thể là các yêu sách liên quan đến vấn đề xã hội, kinh tế diễn ra trong
đời sống mà NLĐ quan tâm. Khi NLĐ sử dụng đình công như một biện
pháp gây sức ép đối với NSDLĐ thì việc ngưng trệ sản xuất, đảo lộn
trật tự quản lý doanh nghiệp, làm giảm năng suất, ảnh hưởng uy tín
doanh nghiệp diễn ra là điều dễ hiểu. Chính vì lý do đó mà có nhiều ý
kiến cho rằng đình công có thể ví như mặt trái của nền kinh tế thị
trường.
Dưới góc độ xã hội, đình công có thể được xem xét là hiện tượng

có khả năng gây mất ổn định đối với trật tự xã hội. Với các cuộc đình


8

công diễn ra ở quy mô nhỏ, hành vi ngừng việc diễn ra một cách hòa
bình, mức độ ảnh hưởng đến trật tự xã hội sẽ không lớn. Nhưng với các
cuộc đình công diễn ra ở phạm vi rộng, thu hút sự tham gia đông đảo
của hàng nghìn NLĐ, kèm theo hành vi ngừng việc là những hành động
quá khích như la hét phản đối, đập phá máy móc hay xô xát với người
NSDLĐ thường gây những bất ổn xã hội. Trong nền kinh tế thị trường,
sức lao động được coi là một dạng hàng hóa đặc biệt, các bên được tự
do thỏa thuận quyền và nghĩa vụ. Quan hệ lao động vừa mang tính hợp
tác, vừa mang tính đối lập. Hợp tác tạo ra những lợi ích chung thỏa mãn
nhu cầu của cả hai bên khi tham gia quan hệ lao động. Đối lập do quyền
của bên này là nghĩa vụ của bên kia, và ngược lại, nên giữa hai bên luôn
tiềm ẩn những mâu thuẫn cục bộ về lợi ích. Chính những mâu thuẫn này
là tiền đề để những NLĐ liên kết lại tìm một phương thức chống đối,
gây sức ép đối với NSDLĐ. Đình công là một trong những phương thức
đó.
Như vậy có thể thấy, đình công là một hiện tượng xã hội khách
quan, tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Đình công chỉ phụ thuộc vào
các điều kiện kinh tế - xã hội mà nó tồn tại chứ hoàn toàn không phụ
thuộc vào việc nhà nước hay pháp luật một quốc gia có thừa nhận hay
không. Trong cuộc đình công luôn chứa cả yếu tố tích cực (đình công ở
một góc độ nào đó cũng góp phần bảo vệ những giá trị tiến bộ xã hội
như quyền dân chủ trong lĩnh vực lao động, quyền tự do định đoạt và
một số quyền khác) và cả yếu tố tiêu cực (ảnh hưởng tới trật tự xã hội,
môi trường doanh nghiệp). Vấn đề đặt ra đối với mỗi nhà nước trong
quản lý đình công là tìm những giải pháp làm giảm đi yếu tố tiêu cực

của cuộc đình công.
Dưới góc độ pháp lý, đình công là quyền của NLĐ được pháp
luật mỗi quốc gia thừa nhận trong một phạm vi nhất định. Quyền đình
công được hiểu là quyền ngừng việc tạm thời của những NLĐ nhằm
buộc NSDLĐ phải thỏa mãn những yêu sách nhất định. Theo quy định
một số quốc gia quyền đình công là một trong những quyền cơ bản của


9

NLĐ. Tổ chức Lao động quốc tế ILO đưa ra định nghĩa về đình công
như sau: “Đình công là một sự ngừng việc tạm thời có dự tính hoặc sự
bỏ việc của một nhóm công nhân trong một doanh nghiệp hoặc một vài
doanh nghiệp để biểu thị một mối quan tâm hoặc gây áp lực bắt doanh
nghiệp thực hiện các đòi hỏi về tiền lương, giờ làm việc và điều kiện
lao động. Các vụ đình công được đặc trưng bởi mức độ khác nhau về
hình thức và cách tổ chức, về mức độ tham gia và khởi xướng của công
đoàn hoặc các nhóm công nhân. Chúng cũng khác nhau về thời gian và
ý nghĩa từ những cuộc biểu tình ngắn nhằm mục đích thương lượng cho
tới đấu tranh lao động và chính trị lâu dài. Những người tham gia đình
công vẫn cho rằng họ là những NLĐ của doanh nghiệp với quyền được
trở lại làm việc khi vụ tranh chấp được giải quyết”2. Quan niệm về đình
công của ILO tương đối toàn diện, bao quát, có tính tham chiếu cho
pháp luật các quốc gia khi xây dựng một khái niệm về đình công phù
hợp với thực tế đất nước mình.
Ở một số nước phát triển, đình công được xem như một quyền
đương nhiên của NLĐ, là một hiện tượng xuất hiện khách quan và
hoàn toàn bình thường của xã hội nên không quy định cụ thể trong luật
mà chỉ do án lệ xác định như Đức, Anh, Australia… Song ở hầu hết
các nước khác đều ghi nhận quyền đình công trong các văn bản pháp

luật về lao động, chẳng hạn Hoa Kỳ quy định trong Luật quan hệ quản
lý lao động; Malaysia, Thái Lan quy định trong Luật quan hệ lao động;
Nga, Na Uy, Philippines quy định trong BLLĐ… Theo đó, nếu như
Hoa Kỳ coi: “Đình công bao gồm bất kỳ cuộc đình công hay ngừng
việc tập thể có dự tính của NLĐ (bao gồm cả ngừng việc bởi lý do
thoả ước lao động tập thể hết hạn) và bất kỳ sự lãn công tập thể hay
gián đoạn hoạt động có dự tính của NLĐ”; thì Nga lại quan niệm:
“Đình công là việc tập thể lao động tự nguyện từ chối tạm thời đối với
việc thực hiện trách nhiệm lao động của mình (một phần hoặc toàn bộ)
2

David Macdonal and Caroline Vardenabeele (1997), Glossary of Industria relations and
related term, ILO, Bangkok, Thailand.


10

nhằm mục đích giải quyết tranh chấp lao động tập thể”3. Định nghĩa
này khá giống định nghĩa về đình công trong BLLĐ của Philippines,
coi “Đình công là bất cứ sự ngừng việc tạm thời nào có sự phối hợp
của NLĐ do hậu quả của tranh chấp lao động”4. Mặc dù thừa nhận
quyền đình công của NLĐ ở những góc độ khác nhau, song hầu hết
định nghĩa về đình công trong pháp luật của các nước đều ghi nhận
một số dấu hiệu cơ bản của đình công như đình công là sự ngừng việc
tạm thời, tự nguyện của tập thể lao động một cách có dự tính và phối
hợp nhằm mục đích giải quyết các vấn đề thuộc quan hệ lao động.
Pháp luật Việt Nam ghi nhận đình công là quyền của người lao
động. Tuy nhiên, quyền đình công này chỉ giới hạn trong khuôn khổ
mà pháp luật cho phép và phải tuân theo những trình tự, thủ tục nhất
định do pháp luật quy định. BLLĐ quy định: “Đình công là sự ngừng

việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của tập thể lao động nhằm đạt
được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động”5.
Khái niệm này đã chỉ ra được các dấu hiệu đặc trưng cơ bản của
cuộc đình công: là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện, có tổ chức và
mục đích của cuộc đình công là đạt được yêu cầu của NLĐ. Tuy nhiên,
trong thực tế, đình công không chỉ xảy ra khi có tranh chấp lao động,
mà tính chất, mức độ đa dạng, phức tạp phụ thuộc vào nguyện vọng của
NLĐ. Khái niệm đình công được quy định trong pháp luật Việt Nam
chỉ đề cập đến vấn đề đình công trong quá trình giải quyết tranh chấp
lao động, vô hình chung làm hẹp phạm vi của vấn đề. Với khái niệm
này, tính chất, mức độ và nội dung của các cuộc đình công vẫn chưa
được bao quát hết vì trên thực tế có những cuộc đình công không nhằm
giải quyết tranh chấp lao động (VD: cuộc đình công phản đối Điều 60
3

Trung tâm Hỗ trợ phát triển quan hệ lao động, Bộ Lao động thương binh và xã hội (2012), 100

thuật ngữ thông dụng nhất về quan hệ lao động được quốc tế sử dụng, NXB Lao động- Xã hội,
tr.60-61.
4

Vụ pháp chế, Bộ Lao động thương binh và xã hội (2010), Tài liệu tham khảo Pháp luật lao động

nước ngoài, , NXB Lao động – Xã hội, tr.189.
5

BLLĐ 2012: Khoản 1, Điều 209.


11


Luật BHXH của công nhân Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
PouYuen Việt Nam. Trong 02 ngày 26-27/3/2015, gần 90.000 công
nhân Công ty TNHH PouYuen Việt Nam (quận Bình Tân, thành phố Hồ
Chí Minh) đã đình công phản đối các quy định tại Điều 60, Luật Bảo
hiểm xã hội 2014 về việc không cho người tham gia Bảo hiểm xã hội
(BHXH) được hưởng BHXH một lần như trước. Luật này vừa được
Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014 và vẫn chưa có hiệu
lực)6. Quan niệm đình công trong pháp luật Việt Nam nghiêng về khái
niệm đình công bất hợp pháp hơn là khái niệm một cuộc đình công nói
chung.
Vì vậy, đình công có thể được hiểu là: Sự ngừng việc tạm thời, tự
nguyện và có tổ chức của tập thể lao động nhằm đạt được yêu cầu của
những người tham gia đình công.
1.1.2. Các dấu hiệu cơ bản của đình công
Để nhận biết một cuộc đình công, ta có thể dựa trên những dấu
hiệu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đình công là sự phản ứng của NLĐ đối với NSDLĐ
thông qua hành vi ngừng việc tạm thời. Trong điều kiện làm việc bình
thường, NLĐ có nghĩa vụ tuân thủ hợp đồng lao động đã ký kết về thời
gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi. Mọi sự nghỉ việc không được sự
đồng ý của NSDLĐ được coi là trái quy định và NLĐ có thể phải chịu
những hình thức kỷ luật tương ứng. Tuy nhiên, khi xảy ra trường hợp
mâu thuẫn giữa hai bên, tập thể NLĐ có thể ngừng việc để gây sức ép
với NSDLĐ. Sự ngừng việc này có hợp pháp hay không phụ thuộc vào
quy định của mỗi quốc gia, nhưng sự ngừng việc này luôn được coi là
dấu hiệu để nhận biết một cuộc đình công.
Biểu hiện ngừng việc của NLĐ tham gia đình công chỉ có tính
chất tạm thời, tức là chỉ tạm ngừng quan hệ lao động. Trong ý thức của
6


/>
bhxh-1-lan, 15/5/2016


12

NLĐ, sự ngừng việc này chỉ là trong một khoảng thời gian nhất định
chứ họ không dự định ngừng việc lâu dài, không bỏ việc và không đi
làm cho người khác. Theo ILO, “những người tham gia đình công vẫn
cho rằng họ là những NLĐ của doanh nghiệp với quyền được trở lại
làm việc khi vụ tranh chấp được giải quyết”7. Theo đó, ngừng việc chỉ
là cách phản ứng, không phải là mục đích mà họ mong muốn đạt được.
Do đó, trong thời gian đình công, quan hệ lao động vẫn tồn tại và NLĐ
sẽ tiếp tục làm việc sau đình công.
Tạm thời ngừng việc chỉ thể hiện ở thời gian/giai đoạn còn tính
chất ngừng việc trong cuộc đình công lại hoàn toàn và triệt để. Những
người tham gia đình công thường ngừng việc hoàn toàn, không làm bất
cứ công việc nào theo hợp đồng lao động trong thời gian đình công cho
đến khi có câu trả lời cho những yêu cầu của họ (có thể những yêu sách
đó được đáp ứng hoặc không) hay khi có yêu cầu quay trở lại làm việc
của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, nếu NLĐ phản ứng bằng cách
nghỉ việc lẻ tẻ, không đồng nhất, làm việc cầm chừng, không sử dụng
hết công suất máy móc, thời gian làm việc… (hay còn gọi là lãn công),
thì thường không được coi là đình công và NLĐ có thể bị NSDLĐ xử lí
theo quy định về kỷ luật lao động.
Thứ hai, đình công là hoạt động mang tính tập thể, có tổ chức và
mang tính tự nguyện.
Đình công là quyền của mỗi cá nhân NLĐ nhưng thực hiện đình
công bao giờ cũng là hành vi mang tính tập thể. Quyền đình công được

biểu hiện bằng sự ngừng việc triệt để của NLĐ và sự ngừng việc này
phải có sự phối hợp về mặt ý chí và tổ chức của những người lao động
với nhau. Nghĩa là, sự ngừng việc này phải có sự chỉ đạo, sự tổ chức,
lãnh đạo và điều hành chung của một cá nhân, một nhóm người hay sự
phối hợp của cả tập thể người lao động. Sự tham gia của tập thể NLĐ là
7

Trung tâm Hỗ trợ phát triển quan hệ lao động, Bộ Lao động thương binh và xã hội (2012), 100

thuật ngữ thông dụng nhất về quan hệ lao động được quốc tế sử dụng, NXB Lao động- Xã hội,
tr.60.


13

một trong các biểu hiện bên ngoài của đình công. Tính tập thể của một
cuộc đình công được thể hiện đồng thời trên hai phương diện: Về định
lượng, cuộc đình công phải do toàn bộ, đa số hoặc một số lượng lớn lao
động trong một bộ phận của doanh nghiệp, một doanh nghiệp, một số
doanh nghiệp, một ngành hoặc một vùng… thực hiện; Về định tính,
phải có sự liên kết giữa NLĐ ngừng việc nói trên, cùng ngừng việc vì
mục tiêu chung. Cụ thể, đa số NLĐ ngừng việc phải đại diện cho cả tập
thể, nhằm đạt được những quyền và lợi ích chung hoặc đạt được những
nguyên tắc chung về quyền lợi trong lao động. Hành vi ngừng việc nếu
không thỏa mãn cả hai dấu hiệu này thì không được coi là đình công.
Do vậy, nếu chỉ có một vài, một số NLĐ hoặc một nhóm nhỏ ngừng
việc mà mỗi người vì những lý do khác nhau và không liên quan đến
nhau thì chỉ là sự ngừng việc của những cá nhân. Sự ngừng việc mang
tính tập thể phải do những NLĐ tự nguyện tiến hành, mọi hành vi ép
buộc NLĐ khác ngừng việc hoặc lôi kéo NLĐ khác tham gia đình công

đều là hành vi cấm thực hiện theo quy định pháp luật của hầu hết các
quốc gia.
Tính tổ chức của cuộc đình công được hiểu là có yếu tố lãnh đạo
cuộc đình công, đình công theo kế hoạch chuẩn bị từ trước và hành
động vì mục đích chung của tập thể. Lãnh đạo cuộc đình công có thể là
tổ chức đại diện của những NLĐ như công đoàn hay nghiệp đoàn, cũng
có thể chỉ là một người hay một nhóm người được tập thể lao động bầu
ra tại thời điểm chuẩn bị đình công. Các hành động thực hiện trong quá
trình tổ chức đình công được tổ chức chặt chẽ và theo một kế hoạch bài
bản được xây dựng từ trước khi phát động đình công như đình công khi
nào, thủ tục đình công như thế nào, đình công nhằm mục đích gì... Tính
tổ chức còn thể hiện trong mỗi cuộc đình công đều có phương châm
hành động chung với những nguyên tắc và thể lệ rõ ràng được mọi
người tôn trọng.
Đình công là phản ứng tập thể của nhiều NLĐ. Để đạt được mục
đích của cuộc đình công, không thể thiếu vai trò của người lãnh đạo.


14

Họ như là chất keo gắn kết các cá nhân trong tập thể, tạo nên sức mạnh
chung gây sức ép với NSDLĐ. Nếu không có sự thống nhất hành động
của những NLĐ thông qua vai trò của tổ chức (hoặc cá nhân) lãnh đạo,
thì sẽ không tạo nên được sức mạnh tập thể trong một cuộc đình công.
Do đó, tính tập thể và tính tổ chức là hai dấu hiệu không thể tách rời
của một cuộc đình công.
Thứ ba, mục đích của đình công là nhằm đạt được yêu sách gắn
với lợi ích của những người tham gia đình công.
Ngừng việc tập thể chỉ là cách thức mà NLĐ sử dụng để gây áp
lực đối với NSDLĐ nhằm đáp ứng những yêu sách gắn liền với lợi ích

của tập thể lao động. Về hình thức, yêu sách có thể được thể hiện bằng
văn bản hoặc lời nói, khẩu hiệu, thậm chí là yêu sách ngầm... Đa số yêu
sách trong đình công hiện nay là những yêu sách về quyền và lợi ích
đang tranh chấp của chính những người đình công, trong phạm vi của
quan hệ lao động, gắn với lợi ích nghề nghiệp của họ; do đó chủ thể bị
gây sức ép là NSDLĐ trong quan hệ lao động với tập thể NLĐ. Những
yêu sách này có thể xuất phát từ những yêu cầu chính đáng, cũng có thể
xuất phát từ những nguyện vọng khác. Chính vì vậy, không phải cuộc
đình công nào cũng là hợp pháp.
Tuy nhiên, cũng có khi những yêu sách này vượt ra ngoài phạm vi
của một quan hệ lao động cụ thể và hướng đến những chính sách lao
động nói chung hay thậm chí liên quan đến những vấn đề chính trị được
NLĐ quan tâm… Chủ thể bị gây sức ép trong trường hợp này có thể là
NSDLĐ ở một đơn vị sử dụng lao động khác (Ví dụ như đối với cuộc
đình công hưởng ứng, người đình công không có yêu sách với NSDLĐ
của họ mà chỉ ngừng việc để hỗ trợ tinh thần của những công nhân
đang đình công ở xí nghiệp hay ngành khác) hoặc cũng có thể là các cơ
quan nhà nước nếu đã đưa ra những chính sách hoặc quy định làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của giới lao động. Đình công hưởng ứng, đình
công vượt ra ngoài phạm vi một doanh nghiệp, đình công không yêu
cầu một yêu sách nhất định có được coi là hợp pháp hay không, phụ


15

thuộc vào quan điểm của mỗi quốc gia.
1.1.3. Phân loại đình công
Nếu có yếu tố ngừng việc có tổ chức của tập thể người lao động
và sự ngừng việc đó nhằm gây sức ép với NSDLĐ giải quyết những
yêu sách của NLĐ thì được coi là đình công. Tuy nhiên thực tế các

cuộc đình công được biểu hiện ra bên ngoài với các hình thức khác
nhau về tính chất, phạm vi, mục đích… . Vì vậy, việc phân loại đình
công có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ về mặt lý luận mà còn giúp
giải quyết hợp lý các cuộc đình công trên thực tế.
Có nhiều cách khác nhau để phân loại các cuộc đình công, trong
đó có bốn căn cứ cơ bản như sau:
 Căn cứ vào tính chất của cuộc đình công, đình công được chia
làm hai loại là đình công kinh tế và đình công chính trị:
Đình công kinh tế: là những cuộc đình công nhằm gây sức ép với
NSDLĐ hoặc chủ thể khác để đạt được những mức độ lớn hơn về quyền
và lợi ích trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nghề nghiệp… liên quan
đến quan hệ lao động như việc làm, tiền lương, thu nhập, điều kiện lao
động…. Đây là loại đình công phổ biến nhất, phản ánh rõ nét nhất bản
chất của đình công là một biện pháp đấu tranh kinh tế. Pháp luật Việt
Nam và các nước khác trên thế giới đều thừa nhận đình công kinh tế là
đình công hợp pháp.
Đình công chính trị: là những cuộc đình công nhằm gây sức ép để
phản đối chính quyền nhà nước hoặc các đảng phái chính trị nhằm đạt
được các mục đích chính trị mà người đình công quan tâm, thường là
nhằm phản đối những chính sách hoặc quy định liên quan đến quyền lợi
của giới lao động và xảy ra trên quy mô lớn. Ví dụ như các cuộc tổng
đình công ở Hy Lạp xảy ra liên tiếp từ cuối năm 2011 cho đến nay khi
những NLĐ ở cả khu vực nhà nước và tư nhân đã ngừng việc tập thể để
phản đối chính sách tăng thuế và thắt lưng buộc bụng của chính phủ,
làm tê liệt nền kinh tế Hy Lạp. Từ đó có thể thấy, đình công chính trị có
ảnh hưởng lớn đến trật tự, an ninh xã hội và sự tồn tại của các chế độ


16


cầm quyền trong phạm vi quốc gia. Do đó luật pháp của hầu hết các
nước đều coi những cuộc đình công chính trị là bất hợp pháp. Ở Việt
Nam chúng ta gián tiếp không thừa nhận đình công chính trị thể hiện
qua quy định: “Việc đình công chỉ được tiến hành đối với các tranh
chấp lao động tập thể về lợi ích”8.
 Căn cứ vào mục đích đình công, đình công được phân thành:
Đình công yêu sách: là những cuộc đình công nhằm đạt được các
yêu sách về quyền và lợi ích cho chính những NLĐ tham gia đình công.
Đa số cuộc đình công hiện nay thuộc loại này.
Đình công hưởng ứng: là những cuộc đình công nhằm ủng hộ, tỏ
thái độ đồng tình để hỗ trợ cho cuộc đình công khác trong khi những
người tham gia đình công không có yêu sách về quyền và lợi ích của
mình.
Ở Việt Nam, pháp luật chỉ thừa nhận những cuộc đình công được
tiến hành bởi những NLĐ có cùng một NSDLĐ, do đó nếu như NLĐ
đình công hưởng ứng vượt ra khỏi phạm vi này sẽ bị coi là bất hợp
pháp.
 Căn cứ vào phạm vi đình công, đình công gồm bốn loại:
Đình công doanh nghiệp: là những cuộc đình công do tập thể lao
động trong phạm vi một doanh nghiệp tiến hành. Mô hình doanh
nghiệp ở đây được hiểu chung là một đơn vị sử dụng lao động, dù dưới
các tên gọi khác nhau.
Đình công bộ phận: là những cuộc đình công do tập thể lao động
trong một bộ phận thuộc cơ cấu của đơn vị sử dụng lao động tiến hành.
Đình công ngành, khu vực: là những cuộc đình công của những
NLĐ trong phạm vi một ngành, một khu vực tiến hành.
Tổng đình công: là những cuộc đình công của những NLĐ trong
phạm vi nhiều ngành hoặc nhiều khu vực trong cả nước tiến hành.
Pháp luật mỗi quốc gia sẽ căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội ở
8


BLLĐ 2012: Khoản 2, Điều 209.


17

nước mình để quy định cuộc đình công nào trong số các loại trên là hợp
pháp. Tuy nhiên ở đa số các nước, trong đó có Việt Nam, mới chỉ thừa
nhận hai loại là đình công doanh nghiệp và đình công bộ phận.
 Căn cứ vào mức độ tuân thủ quy định pháp luật về đình công,
đình công được chia thành:
Đình công hợp pháp: là cuộc đình công tuân thủ đầy đủ các quy
định của pháp luật.
Đình công bất hợp pháp: là cuộc đình công không đáp ứng một
trong số các điều kiện pháp luật về đình công
Mục đích cơ bản của nhà nước khi đưa ra các quy định pháp luật
là nhằm kiểm soát đình công, hạn chế những cuộc đình công không cần
thiết, đình công làm ảnh hưởng lớn đến kinh tế quốc dân, an ninh quốc
phòng…
Ngoài các căn cứ trên, đình công còn có thể được phân loại dựa
vào phương thức tiến hành (đình công cổ điển và đình công hiện đại);
và hình thức thực hiện (đình công ngồi, đình công đứng tập trung, đình
công chiếm xưởng, đình công diễu hành, đình công đi ra đi vào)…
1.2. Đình công bất hợp pháp
1.2.1. Khái niệm
Như trên đã phân tích, căn cứ vào sự tuân thủ quy định của pháp
luật, đình công được phân thành đình công hợp pháp và bất hợp pháp.
Đình công hợp pháp thường là cuộc đình công tuân thủ các quy định
của pháp luật về đình công như điều kiện, phạm vi đình công, doanh
nghiệp được phép đình công, hoãn, ngừng đình công… Đình công bất

hợp pháp là cuộc đình công không tuân thủ một trong số các quy định
về đình công do pháp luật quy định.
Ở mỗi quốc gia khác nhau, tư tưởng lập pháp khác nhau, quan
điểm về đình công khác nhau sẽ có tiêu chí không giống nhau để đánh
giá cuộc đình công hợp pháp hay bất hợp pháp. Một số quốc gia (Pháp,
Đức...) theo quan điểm bảo vệ lợi ích của người lao động nhiều hơn so
với người sử dụng lao động (bởi người lao động ở vị trí yếu thế hơn so


18

với người sử dụng lao động) có thể quy định các điều kiện đình công
hợp pháp tương đối dễ dàng để tạo thuận lợi cho người lao động khi
tiến hành đình công. Một số quốc gia khác (Thái Lan, Philippin...) nhấn
mạnh việc bảo vệ các lợi ích công cộng, tôn trọng quyền quản lý lao
động của người sử dụng lao động lại quy định tương đối chặt chẽ về thủ
tục đình công, các hành vi bị cấm trong quá trình đình công. Điều này
cho thấy tính chất phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đối với đình
công, giải quyết đình công và mối liên hệ giữa các quy định về đình
công và đình công bất hợp pháp, giải quyết đình công với việc bảo vệ
lợi ích của các chủ thể trong quan hệ lao động. Pháp luật Việt Nam quy
định đình công bất hợp pháp là cuộc đình công thuộc 1 trong các trường
hợp:
- Không phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể về lợi ích;
- Tổ chức cho những người lao động không cùng làm việc cho một
người sử dụng lao động đình công;
- Khi vụ việc tranh chấp lao động tập thể chưa được hoặc đang
được cơ quan, tổ chức, cá nhân giải quyết theo quy định của Bộ luật này;
- Tiến hành tại doanh nghiệp không được đình công thuộc danh
mục do Chính phủ quy định;

- Khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công.9
Mục đích cuối cùng mà những người đình công hướng tới là những
yêu sách về quyền và lợi ích mà họ mong muốn đạt được. Những yêu sách
đó có thể đã được pháp luật quy định hoặc chưa được pháp luật quy định,
có thể xuất phát từ những yêu cầu chính đáng, cũng có thể xuất phát từ
nguyện vọng khác nhưng phải liên quan đến quan hệ lao động và nhằm
vào một chủ thể nhất định, với nội dung rõ ràng hoặc tương đối rõ ràng.
Hoãn đình công là việc ra quyết định chuyển thời điểm bắt đầu
thực hiện cuộc đình công đã được dự kiến sang một thời điểm khác áp
dụng đối với các cuộc đình công dự kiến tổ chức tại các đơn vị cung cấp
9

BLLĐ 2012: Điều 215.


19

dịch vụ về điện, nước, vận tải công cộng và các dịch vụ khác trực tiếp
phục vụ tổ chức mít tinh kỷ niệm ngày Chiến thắng, ngày Quốc tế lao
động và ngày Quốc khánh; hoặc đình công dự kiến tổ chức tại địa bàn
đang diễn ra các hoạt động nhằm phòng ngừa, khắc phục hậu quả thiên
tai, hỏa hoạn, dịch bệnh hoặc tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp
luật.
Còn ngừng đình công là việc ra quyết định chấm dứt cuộc đình
công đang diễn ra cho đến khi không còn nguy cơ xâm hại nghiêm trọng
đến nền kinh tế quốc dân và lợi ích công cộng áp dụng đối với các cuộc
đình công diễn ra trên địa bàn xuất hiện thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh
hoặc tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật; đình công diễn ra
đến ngày thứ ba tại các đơn vị cung cấp dịch vụ điện, nước, vệ sinh công
cộng làm ảnh hưởng tới môi trường, điều kiện sinh hoạt và sức khỏe của

nhân dân tại thành phố thuộc tỉnh hoặc đình công diễn ra có các hành vi
bạo động, gây rối làm ảnh hưởng đến tài sản, tính mạng của nhà đầu tư,
làm mất an ninh, trật tự công cộng ảnh hưởng đến các hoạt động của
cộng đồng dân cư tại nơi xảy ra đình công.
Về thẩm quyền ra Quyết định hoãn hoặc ngừng đình công hiện
nay đã có sự thay đổi. Nếu như trước đây quyền này thuộc về Thủ tướng
Chính phủ thì hiện nay đã được trao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh. Cụ thể, khi xét thấy cuộc đình công có nguy cơ gây thiệt hại
nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân, lợi ích công cộng thì Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hoãn hoặc ngừng đình công và giao
cho cơ quan nhà nước, tổ chức có thẩm quyền giải quyết.
Việc hoãn hoặc ngừng đình công là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng
đến quyền đình công của một số lượng lớn NLĐ, mức độ phức tạp tương
đương với việc giải quyết các tranh chấp lao động tập thể nên đòi hỏi
phải do các chủ thể đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước quyết định và ít
nhất phải từ cấp tỉnh trở lên. Tuy nhiên, nếu quy định như BLLĐ sửa đổi
bổ sung năm 2006 là thẩm quyền này thuộc về Thủ tướng Chính phủ thì
sẽ dồn quá nhiều việc cho người đứng đầu bộ máy hành pháp của nhà


×