Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

PHÂN TÍCH CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC VỀ BẢN CHẤT CỦA THẾ GIỚI. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU TRÊN LẬP TRƯỜNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.88 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ

ĐỀ TÀI 1: PHÂN TÍCH CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC
NHAU TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC VỀ BẢN CHẤT
CỦA THẾ GIỚI. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁC QUAN
ĐIỂM KHÁC NHAU TRÊN LẬP TRƯỜNG CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN.

Giảng viên hướng dẫn : Th.S Lê Thị An
Sinh viên thực hiện
: Nhóm 1
Lớp
: D14C01A

Bình Dương, ngày 11 tháng 12 năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ

ĐỀ TÀI 1: PHÂN TÍCH CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC
NHAU TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC VỀ BẢN CHẤT
CỦA THẾ GIỚI. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁC QUAN
ĐIỂM KHÁC NHAU TRÊN LẬP TRƯỜNG CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN.

Sinh viên thực hiện
Lớp



: Nhóm 1
: D14C01A

Bình Dương, ngày 11 tháng 12 năm 2014


DANH SÁCH NHÓM VÀ BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

Stt

HỌ VÀ TÊN

NHIỆM VỤ

ĐÁNH GIÁ

1

Nguyễn Phước Huy Hoàng

Tìm tài liệu

Hoàn thành tốt

2

Ngô Trường Khanh

Tìm tài liệu


Hoàn thành tốt

3

Nguyễn Minh Quân

Tìm tài liệu

Hoàn thành tốt

4

Cao Trường Linh

Tìm tài liệu

Hoàn thành tốt

5

Huỳnh Đăng Lương

Tìm tài liệu

Hoàn thành tốt

6

Ngũ Duy Cường


Tìm tài liệu

Hoàn thành tốt

7

Phan Quốc Đạt

Tìm tài liệu

Hoàn thành tốt

8

Lục Đăng Khoa

Tìm tài liệu

Hoàn thành tốt

9

Đỗ Hoàng Duy

Tìm tài liệu

Hoàn thành tốt

10


Trần Vũ Hoài Nam

Tìm tài liệu

Hoàn thành tốt

Bùi Hữu Bình

Tìm tài liệu,
tổng hợp, đánh
máy, trình bày

Hoàn thành tốt

11

GHI CHÚ


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
CHƯƠNG 1. CÁC QUAN ĐIỂM TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC VỀ
LỊCH SỬ THẾ GIỚI.......................................................................................2
1. Quan điểm duy vật........................................................................................2
2. Quan điểm duy tâm......................................................................................4
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ-NIN VỀ BẢN
CHẤT CỦA THẾ GIỚI..................................................................................5
1. Quan điểm của chủ nghĩa mác – lê-nin về vật chất, ý thức và mối quan hệ

giữa vật chất và ý thức.......................................................................................5
2. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa mác – lê-nin đánh giá các quan điểm
trong lịch sử triết học về bản chất của thế giới................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................20


1

LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa
dạng. Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực:
“vật chất và ý thức” (bản chất thế giới). Có rất nhiều quan điểm triết học xoay
quanh vấn đề bản chất của thế giới, nhưng chỉ có quan điểm Mác - Lênin là
đúng và đầy đủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất
quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất.
Bản chất của thế giới đã xuất phát từ thời cổ đại, từ chủ nghĩa duy tâm
đến chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật, dù là duy vật chất phác cổ đại, quy
vật máy móc siêu hình hay duy vật biện chứng đều coi vật chất là cái có
trước, ý thức là cái có sau. Trái lại chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm đều
xuất phát từ tinh thần, đều coi tinh thần là cái có trước, vật chất là cái có sau.
Khái niệm vật chất, ý thức luôn luôn là trường đấu tranh quyết giữa các phái
duy tâm và duy vật.
Bản thân chúng em là những sinh viên đại học, ý thức được bản chất thế
giới – vật chất là chủ đề bao quát toàn bộ những vấn đề triết học. Để hiểu biết
thêm về những vấn đề triết học để định hướng tư tưởng, nhận thức thế giới và
xã hội góp phần cho việc học tập và rèn luyện tốt hơn, chúng em quyết định
chọn đề tài: "Phân tích các quan điểm khác nhau trong lịch sử triết học về
bản chất của thế giới. Nhận xét, đánh giá các quan điểm khác nhau trên
lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin". Với trình độ và thời gian có hạn

của mình chúng em rất mong cô và bạn bè thông cảm và góp ý kiến để chúng
em hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình. Chúng em xin chân thành cảm ơn!


2

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CÁC QUAN ĐIỂM TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
VỀ LỊCH SỬ THẾ GIỚI
1. Quan điểm duy vật
Quan điểm duy vật khẳng định rằng , bản chất thế giới là vật chất, ngoài
thế giới vật chất ra không có thế giới nào khác. Các sự vật, hiện tượng chỉ là
biểu hiện những dạng cụ thể của thế giới vật chất mà thôi.
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái có trước, ý
thức là cái có sau; vật chất quyết định ý thức, còn ý thức chỉ là sự phản ánh
thế giới vật chất vào đầu óc con người mà thôi. Điều này đã được những khoa
học cụ thể và thực tiễn chứng minh.
Trong sự phát triển tư tưởng triết học, chủ nghĩa duy vật được biểu hiện
dưới ba hình thức: chủ nghĩa duy vật chất phát thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật
siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác –
Ăng-ghen.
1.1. Chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại

Là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Đặc điểm chung của các nhà
triết học duy vật chất phát thời cổ đại là đã giải thích thế giới là vật chất, vật
chất không do ai sinh ra, không bao giờ mất đi, nhưng lại đi truy tìm một vài
bản nguyên vật chất đầu tiên đã tạo ra thế giới vật chất ấy. Tiêu biểu như các
nhà triết học Trung Hoa cổ đại đã giải thích thế giới được bắt đầu từ Âm –
Dương, Ngũ hành (Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ) hay Bát quái (Càn –
Khôn – Chấn – Tốn – Ly – Khảm – Cấn – Đoài). Các nhà triết học duy vật Ấn

Độ cổ đại lại giải thích thế giới từ bốn yếu tố (Charvas: Địa – Thủy – Hỏa –
Phong). Còn đối với các nhà triết học Hy Lạp cổ đại lại đi truy tìm một bản
nguyên vật chất đầu tiên đã tạo ra thế giới như: Ta-lét (624 – 547 TCN) cho


3

rằng: bản nguyên đó là Nước, Anacimen là Không khí, Heraclit (520 – 460
TCN) là Lửa, Đê-mô-cơ-rit (460 – 370 TCN) lại là nguyên tử.
Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại
về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân vật chất của giới tự nhiên để giải thích
về giới tự nhiên.
1.2. Chủ nghĩa duy vật siêu hình

Đây là thời kì khoa học tự nhiên phát triển. Các nhà triết học – khoa học
tự nhiên thời kì này đã giải thích thế giới là vật chất và cố gắng tìm kiếm một
phương pháp nhận thức mới nhằm đoạn tuyệt với phương pháp kinh viện thời
trung cổ. Họ đã nghiên cứu giới tự nhiên bằng cách tách chúng ra từng bộ
phận nhỏ, riêng rẻ, xem xét giới tự nhiên trong hoàn cảnh tĩnh tại và bất biến.
chính cách làm như vậy đã giúp cho khoa học đạt được những thành tựu nhất
định, nhưng cách làm đó cũng để lại cho triết học một thói quen tư duy theo
phương pháp siêu hình. Xem xét các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập không
phụ thuộc vào nhau, phủ định đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, là
động lực của sự phát triển.
Tuy chưa phản ánh đúng thế giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vào việc
chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là trong giai đoạn lịch sử
chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
1.3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng


Là hình thức cỏ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lê-nin và
nhũng người kế tục ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các
học thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để các thành tựu khoa học tự
nhiên đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời nó đã
khắc phục được những hạn chế của triết học duy vật chất phát thời cổ đại
cũng như triết học duy vật siêu hình thế kỷ thứ XVII – XVIII, đạt tới trình độ


4

là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên cơ
sở phản ánh đúng hiện thực khách quan trong mối quan hệ phổ biến và sự
phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt
động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng, giúp những lực lượng tiến
bộ chinh phục và cải tạo thế giới một cách hiệu quả hơn.
Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật viện chứng được xây
dựng trên cơ sở lí giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức.
2. Quan điểm duy tâm

Quan điểm duy tâm cho rằng, bản chất thế giới là ý thức. Theo quan
điểm này, trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì ý thức là cái có trước,
vật chất là cái có sau; ý thức quyết định vật chất; ý thức là cơ sở, nguồn gốc
cho sự ra đời, tồn tại, vận động, biến đổi của các sự vật và hiện tượng trong
thế giới.
Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy tâm đã tồn tại hai hình thức
cơ bản: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
2.1. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan

Giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học, xem ý thức giữ vai trò quyết

định. Ý thức chỉ là cảm giác của con người. Ý thức đó là do sự phức hợp
những cảm giác của “Tôi” – chủ thể.
Những đại biểu cho trào lưu này là hai nhà triết học người Anh Béc-cơ-li
(1658 – 1753), Đa-vít Hium (1711 – 1776)…
Biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm khách quan trong đời sống xã hội hiện
nay: thành kiến với những người có HIV và những người phạm tội, mặc dù họ
đã hoàn lương và quyết tâm vượt lên trên bệnh tật để trở thành những người
có ích cho xã hội.


5

Cách khắc phục: tuyên truyền, vận động mọi người để họ thấy rõ những
điều tốt đẹp có thể được mang lại nếu họ xóa bỏ thành kiến này. “Cái đẹp
không phải trên đôi môi người thiếu nữ mà trong đôi mắt gã si tình” – Kant.
2.2. Chủ nghĩa duy tâm khách quan

Cũng xuất phát từ quan điểm cho ý thức giữ vai trò quyết định. Song ý
thức đó tồn tại ngoài con người, nó có trước và sáng tạo ra thế giới, do những
lực lượng siêu tự nhiên tồn tại bên ngoài chúng ta quy định. Đó là: “ý niệm”
hay “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần thế giới”, Trời, Thượng đế...
Những đại biểu tiêu biểu cho phong trào này là Platon (427 – 347 TCN),
G.V.Hê-ghen (1770 – 1831), Tho-mát Đa-canh,…
Biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm khách quan trong đời sống xã hội hiện
nay: hiện tượng mê tín dị đoan, hủ tục cúng trừ ma ở vùng sâu, vùng xa nơi
đồng bào dân tộc sinh sống,…
Cách khắc phục: đưa đội ngũ giáo viên, bộ đội xuống công tác tại các
thôn bản để họ cùng với các già làng, trưởng bản vận động bà con dân bản
xóa bỏ những hủ tục này.
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ-NIN VỀ

BẢN CHẤT CỦA THẾ GIỚI
1. Quan điểm của chủ nghĩa mác – lê-nin về vật chất, ý thức và mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
1.1.1. Phạm trù vật chất
Kế thừa tư tưởng của C.Mác, P.Ăng-ghen và nhu cầu đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm, Lênin đã định nghĩa như sau: “Vật chất là một phạm trù
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”. Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh


6

nhất về vật chất của V.I.Lênin trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán.
Định nghĩa đã phân biệt hai vấn đề. Trước hết vật chất với tư cách là
phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra,
không mất đi. Vì vậy không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể
đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như những
duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại. Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc
trưng để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan. Theo Lê-nin là
“Cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người”. Và
nội dung cơ bản về định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm: Vật chất là cái tồn
tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức bất kể sự tôn
tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được. Vật chất là cái
gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác
quan của con người. Cảm giác, ý thức, tư duy chỉ là sự phản ánh của vật chất
lên con người, tức con người có khả năng nhận thức được vật chất, thực tại
khách quan. Lê-nin đã khẳng định vật chất là “Thực tại khách quan được đem

lại cho con người trong cảm giác”, “Tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và
khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội Lênin đã xác định cái gì là
vật chất trong lĩnh vực xã hội, tìm ra sự vận động trong phương thức sản xuất.
Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm chủ nghĩa
duy tâm, bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục đựoc hạn chế trong các
quan điểm chủ nghĩa duy vật trứoc Mac về vật chất.
1.1.2. Đặc điểm
- Vật chất là thực tại khách quan
- Vật chất có hai thuộc tính cơ bản là thuộc tính khách quan và thuộc tính
chủ quan. Vật chất là thuộc tính thứ nhất, ý thức là thuộc tính thứ hai. Vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyêt định ý thức.


7

1.1.3. Ý nghĩa
- Giải quyết triệt để hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học theo quan
điểm của CNDVBC.
- Khắc phục triệt để những sai lầm, hạn chế của CNDV trước Mác về
phạm trù vật chất; bác bỏ, phủ nhận CNDT và tôn giáo về vấn đề vật chất.
- Tạo cơ sở cho các nhà triết học DVBC xây dựng quan điểm vật chất
trong đời sống xã hội.
1.1.4. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
1.1.4.1. Vận động là phương thúc tồn tại của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc
nào cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động.
- Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không

thể có vật chất không vận động, cũng như không thể có vận động ngoài vật

chất. “Vật chất không có vận động, cũng như vận động không có vật chất,
đều là điều không thể hình dung nổi”
- Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động
1.1.4.2. Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
- Vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất, không do ai
sinh ra và không bao giờ bị tiêu diệt.
- Vận động được bảo toàn cả về lượng và chất
Ph.Ăngghen khẳng định: “Cần phải hiểu tính bất diệt của vận động
không chỉ đơn thuần về mặt số lượng mà cần phải hiểu cả về mặt chất lượng
nữa”
1.1.4.3. Các hình thức vận động của vật chất
Theo Ăngghen, có 5 hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ học: Là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không
gian.


8

- Vận động vật lý: (thay đổi trạng thái vật lý) là vận động của phân tử,
của các hạt cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh.
- Vận động hóa học: (thay đổi trạng thái hóa học) là sự vận động của các
nguyên tử, sự hóa hợp và phân giải của các chất.
- Vận động sinh vật: Vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất,
đồng hóa, dị hóa, sự tăng trưởng, sinh sản, tiến hóa.
- Vận động xã hội: Mọi hoạt động xã hội của con người, sự thay thế các
hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao.
1.1.4.4.Vận động và đứng im
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối vì :
- Đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định, chứ không phải trong
tất cả mọi quan hệ.

- Đứng im chỉ xảy ra trong một hình thức vận động nhất định (vận động
cơ giới).
- Đứng im là một trạng thái vận động (vận động trong thăng bằng).
1.1.4.5. Không gian và thời gian
- Quan điểm siêu hình coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa
vật chất. Có không gian và thời gian không có vật chất. Có sự vật, hiện tượng
không tồn tại trong không gian và thời gian.
- Quan điểm duy vật biện chứng:
+ Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, gắn
liền với sự vận động của vật chất.
+ Không có không gian và thời gian không có vật chất cũng như không
thể có sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian.
+ Không gian vô tận. Thời gian không có khởi đầu và kết thúc.
+ Không gian có 3 chiều. Thời gian có một chiều.
+ Không gian và thời gian có tính tương đối.
1.1.5. Tính thống nhất vật chất của thế giới


9

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Điều này cho thấy:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, vật chất là cái có
trước, tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra
và cũng không bị mất đi.
- Mọi tồn tại của thế giới đều có mối liên hệ khách quan, biểu hiện ở chỗ
chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có
nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của quy luật
khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.

Như vậy,trong thế giới không có gì khác hơn là vật chất đang vận động.
Tinh thần chỉ có trong đầu óc con người và là thuộc tính của một dạng vật
chất có tổ chức cao.
Không có bằng chứng về thế giới tinh thần tồn tại bên ngoài thế giới vật
chất (thiên đường, địa ngục, niết bàn).
1.2. Ý thức
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
1.2.1.1. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Ý thức là thuộc tính
(thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người.
Bộ óc là cơ quan vật chất của ý thức. Nhưng tại sao bộ óc con người lại
có thể sinh ra ý thức, là mối liên hệ với thế giới khách quan. Chính mối liên
hệ vật chất này đã hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào bộ
óc con người.
- Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là
năng lực giữ lại, tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc


10

vào vật tác động và vật nhận tác động, và vật nhận tác động bao giờ cũng
mang thông tin của vật tác động.
- Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn
thiện hơn.
+ Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh
là phản ánh vật lý, hóa học. Các hình thức này có tính chất thụ động, chưa có
sự định hướng, chưa có sự lựa chọn.

+ Hình thức phản ánh sinh học đặc trưng cho giới tự nhiên sống, là sự
phát triển mới về chất trong hình thức phản ánh của vật chất.
+ Hình thức phản ánh của cá thể sống đơn giản nhất là tính kích thích, là
sự trả lời của cơ thể đối với những tác động của môi trường.
+ Hình thức phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh là
tính cảm ứng, tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường.
+ Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh là các phản xạ.
+ Hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương
xuất hiện là tâm lý. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới chỉ là sự
phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do
quy luật sinh học chi phối.
Ý thức chỉ nảy sinh trong giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất
cùng với sự xuất hiện của con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm
trong con người, không thể tách rời con người.
Bộ óc của con người là cơ quan phản ánh, nhưng chỉ với riêng bộ óc thì
chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên giác quan
và qua đó lên bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
1.2.1.2. Nguồn gốc xã hội


11

Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể
thiếu được nhưng chưa đủ, điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là
nguồn gốc xã hội, đó chính là lao động và ngôn ngữ.
- Lao động:
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại, là hoạt
động mang tính đặc thù của con người, làm cho con người khác với các động

vật khác.
+ Trong lao động con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và
sử dụng các công cụ đó để cải tạo của cải vật chất.
+ Lao động là hoạt động có tính mục đích, tác động vào thế giới khách
quan nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản
ánh một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Như vậy, không phải ngẫu nhiên
mà thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để con người có ý thức,
mà trái lại con người có ý thức chính là con người chủ động tác động vào thế
giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Hay nói
cách khác, lao động giúp con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm
cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
+ Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội lại với
nhau, làm nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không
ngừng phát triển cùng với lao động.
- Ngôn ngữ
Ph.Ăngghen đã nói: “Đem so sánh con người với loài vật, người ta sẽ
thấy rõ ràng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động,
đó là cách giải thích duy nhất đúng về ngôn ngữ”.
+ Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó
là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý
thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ theo C.Mác, nó chính là


12

cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn
ngữ con người không thể có ý thức.
+ Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã
hội, vừa là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực.
Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông

tin, truyền lại những tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ý thức không phải là một hiện tượng thuần túy cá nhân mà là một hiện
tượng có tính chất xã hội, do đó, không có phương tiện trao đổi về mặt ngôn
ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và
phát triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ.
Như Ăngghen đã chỉ rõ: “Trước hết là lao động, sau lao động và đồng
thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng
đến bộ óc con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của
con người”.
1.2.2. Bản chất và kết cấu của ý thức
1.2.2.1. Bản chất của ý thức
Thứ nhất, để hiểu được bản chất của ý thức chúng ta phải thừa nhận cả
vật chất và ý thức đều tồn tại, nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính
đối lập.
Vật chất là cái được phản ánh, tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với
cái phản ánh tức là ý thức.
Cái phản ánh là ý thức, là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan, bị
sự vật khách quan quy định. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái
được phản ánh (vật chất) với cái phản ánh (ýthức).
Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan thì
đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. Ý
thức là của con người, ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế


13

giới, cho nên ý thứcon người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo
nhu cầu thực tiễn xã hội.
Thứ ba, tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú và đó là

sự thống nhất của ba mặt:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao
đổi này mang tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là,mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Ba là,chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình
hiện thực hóa tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng
tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh theo quy luật và trong khuôn khổ
của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần
Thứ tư, ý thức khôngphải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một
hiện tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động
cải tạo thế giới của con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ,
mà là hoạt động xã hội, do đó ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm cuả xã hội,
và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại.
1.2.2.2. Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng xã hội - tâm lý có kết cấu hết sức phức tạp.
Tùy theo cách tiếp cận mà có nhiều cách phân chia khác nhau.
- Theo chiều dọc ý thức chính là lát cắt nội tâm của con người, nó bao
gồm các yếu tố: Tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
+ Tự ý thức: Là ý thức về bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên
ngoài.
+ Tiềm thức: Là những tri thức mà con người đã có được từ trước nhưng
gần như trờ thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức.


14

+ Vô thức: là trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi,
thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự
truyền thông tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí,..

- Theo chiều ngang thức bao gồm các yếu tố: Tri thức, tình cảm, niềm
tin, lý trí.
+ Tri thức: là hiểu biết, kết quả của nhận thức, phân loại theo lĩnh vực,
trình độ.
+ Tình cảm: thể hiện những rung động của con người, có vai trò là động
lực thúc đẩy hoạt động.
+ Ý chí: là yếu tố nội lực bên trong mỗi con người, là quyền lực của con
người đối với mình.
Trong đó tri thức là yếu tố cốt lõi. Tri thức đóng vai trò là phương thức
tồn tại của ý thức. Điều này có nghĩa là không có tri thức thì sẽ không có ý
thức.
Nếu chỉ có ý thức không thôi thì đó là một ý thức phát triển không toàn
diện, sơ cứng. Tri thức được xem là vốn hiểu biết của con người nhưngnếu
biến cái tri thức đó thành hành động thì đó là một quá trình lâu dài. Tuy
nhiên, sự tác động của thế giới bên ngoài đến con người không chỉ đem lại sự
hiểu biết về thế giới mà còn đem lại tình cảm của con người đối với thế giới.
Tình cảm là một hình thái đặc thù của sự tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa
con người với con người và giữa con người với thế giới khách quan. Tình cảm
tham gia vào mọi hoạt động của con người và là một trong những động lực
quan trọng của hoạt động con người. Tri thức có biến thành tình cảm mãnh
liệt mới sâu sắc và thông qua hành động thì tri thức mới biến thành hành động
thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
1.3. Mối quan hệ giữa vậtchất và ý thức
1.3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
1.3.1.1. Vật chất quyết định nội dung của ý thức


15

- Vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Vật chất là nguồn gốc

sinh ra ý thức.
- Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người. Ý thức phản ánh thế giới hiện thực khách quan, các quy luật khách
quan, hoạt động thực tiễn chính là cơ sở cho sự hình thành các quan điểm,
quan niệm, ý chí, tình cảm xã hội.
- Trong tồn tại xã hội, ý thức chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội, tồn tại xã
hội thay đổi thì ý thức xã hội sớm muộn cũng phải thay đổi theo. Tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội.
- Ý thức xã hội không tồn tại tự nó, nó chỉ có thể hình thành và phát
triển trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.
1.3.1.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Vai trò của ý thức đối với vật chất chính là vai trò của con người trong
quá trình cải tạo thế giới khách quan.
- Ý thức có tính năng động, sáng tạo nên thông qua hoạt động thực tiễn
của con người có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định các
điều kiện vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan.
+ Ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan nó sẽ góp phần thúc
đẩy hiện thực khách quan phát triển.
+ Ngược lại, ý thức khi không phản ánh đúng hiện thực khách quan thì
nó sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển của hiện thực khách quan.
- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với thế giới hiện thực khách
quan (vật chất) phải dựa trên sự phản ánh thế giới vật chất và các điều kiện
khách quan nhất định.
Như vậy,tri thức khoa học giúp con người hiểu biết được những mối liên
hệ và quy luật khách quan nhờ đó mà cải tạo được tự nhiên và xã hội. Trình
độ nhận thức quy luật càng cao thì khả năng cải tạo tự nhiên và xã hội càng
lớn.


16


1.3.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý
thức, còn ý thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan. Trong
nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ hiện thực khách quan,
tôn trọng và hành động theo hiện thực khách quan, chống chủ nghĩa duy tâm
và chủ nghĩa duy ý chí.
- Khẳng định ý thức có vai trò tích cực trong sự tác động trở lại đối với
vật chất, phép biện chứng duy vật yêu cầu trong nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn con người cần phải nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một
cách chủ động, sáng tạo, chống thái độ tiêu cực, thụ động.
- Sức mạnh của ý thức con người không phải là ở chỗ tách rời những
điều kiện vật chất mà phải biết dựa vào đó, phản ánh đúng quy luật khách
quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo của ý thức,
phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.
Đồng thời phải khắcphục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ
lại.
2. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đánh giá các
quan điểm trong lịch sử triết học về bản chất của thế giới
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại,
chụp lại, phản ánh và nó tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Các quan điểm
triết học trước Mác – Lê-nin đi theo khuynh hướng chung của các nhà triết
học duy vật thời cổ đại là đi tìm một thực thể ban đầu nào đó và coi nó là yếu
tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới, tất cả đều bắt
nguồn từ đó và cuối cùng đều tan biến trong đó. Tức là họ muốn tìm một thực
thể chung, là cơ sở bất biến của toàn bộ tồn tại, là cái được bảo toàn trong sự
vật dù trạng thái và thuộc tính của sự vật có biến đổi và được gọi là vật chất.



17

Trong lịch sử triết học cổ đại, các nhà triết học duy vật cũng quan niệm
vật chất rất khác nhau. Ta-lét (624-547 trước Công nguyên) coi vật chất là
“nước”, Anaximenes (585-524 trước Công nguyên) coi vật chất là “không
khí”, Hê-ra-clit (540-480 trước Công nguyên) coi vật chất là “lửa”, Đê-môcrit (460-370 trước Công nguyên) coi vật chất là các “nguyên tử”,...
Nói chung các nhà triết học cổ đại quan niệm vật chất dưới dạng cảm
tính và quy vật chất thành một thực thể cụ thể, cố định. Mặc dù có những hạn
chế và mặt lịch sử, song những quan niệm trên lại có ý nghĩa tích cực trong
việc đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm thời bấy giờ.
Đến thời kỳ cận đại, khoa học phát hiện ra sự tồn tại của nguyên tử, cho
nên quan niệm của thuyết nguyên tử về cấu tạo của vật chất ngày càng được
khẳng định. Quan niệm này tồn tại và được các nhà triết học duy vật cũng như
các nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng sử dụng cho đến tận cuối thế kỷ 19.
Trong giai đoạn thế kỷ 17 - thế kỷ 18, mặc dù đã có những bước phát
triển, đã xuất hiện những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm về
vật chất, song quan niệm đó ở các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản
vẫn mang tính chất cơ giới, đó là khuynh hướng đồng nhất vật chất với
nguyên tử hoặc với khối lượng. Quan niệm này chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi
cơ học cổ điển của Newton, một lĩnh vực của vật lý được coi là phát triển
hoàn thiện nhất thời bấy giờ.
Cơ học cổ điển coi khối lượng của vật thể là đặc trưng cơ bản và bất biến
của vật chất; thế giới bao gồm những vật thể lớn nhỏ khác nhau, cái nhỏ nhất
không thể phân chia nhỏ hơn là các nguyên tử; đặc trưng cơ bản của mọi vật
thể là khối lượng; tính tất yếu khách quan trong hiện thực là tính tất yếu khách
quan được thể hiện qua các định luật cơ học của Newton; vật chất, vận động,
không gian và thời gian là những thực thể khác nhau cùng tồn tại chứ không
có quan hệ ràng buộc nội tại với nhau.



18

C.Mác và Ăng-ghen đã kế thừa những giá trị tích cực đồng thời vạch ra
những hạn chế trong quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước đó, đã
tổng kết những thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát và hình thành nên
một quan niệm khoa học về phạm trù vật chất. Các ông nêu lên sự đối lập
giữa vật chất với ý thức, về tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái
quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể.
C.Mác và Ăng-ghen phê phán quan điểm đem quy vật chất về nguyên tử
về những hạt nhỏ đồng nhất hoàn toàn giống nhau về "chất" và chỉ khác nhau
về "lượng", đó là những quan niệm mang tính siêu hình và cơ giới. Qua đó
các ông nêu lên tính vô hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể
tiêu diệt được của vật chất cũng như các hình thức tồn tại của nó tức là vận
động, không gian và thời gian...
Ăng-ghen nhấn mạnh rằng cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của
vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết
học không có tồn tại cảm tính.
Ở đây cần phân biệt quan niệm vật chất với tư cách là một phạm trù triết
học với quan niệm của vật lý học và các khoa học khác về vật chất. Điều này
giúp chúng ta nhận thức và hiểu đúng vật chất dưới dạng xã hội. Điển hình
như trong lịch sử xã hội loài người thì quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
là có tính vật chất mặc dù nó không được cấu tạo nên từ bất kỳ một nguyên tử
hay phân tử vật chất nào.


19

KẾT LUẬN
Thông qua một số phân tích về quan niệm của các nhà triết học trước
Mác về bản chất thế chúng ta có thể thấy rằng quan niệm về vật chất, ý thức

của Lê nin khác nhưng có kế thừa so với các nhà triết học trước đó. Các nhà
triết học thời đó chỉ chuyên nghiên cứu và đi sâu vào một lĩnh vực cụ thể, địa
lý để phân tích, giải thích và tìm bản nguyên của thế giới, xem vật chất nào là
vật chất quyết định tạo nên thế giới vũ trụ. Còn theo quan niệm của Lê-nin thì
bản chất của thế giới là vật chất, được hiểu là một thực tại khách quan tức là
tất cả những gì tồn tại độc lập bên ngoài ý thức của con người, không phụ
thuộc vào ý thức của con người và cũng không do cái phi vật chất sinh ra nó
mà nó tự có, đồng thời nó phản ánh các giác quan vào não của con người và là
bộ phận vật chất đã được con người tác động vào. Từ đó ta có thể nhận định
rằng bản chất thế giới của Lê nin có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp
luận sâu sắc đối với nhận thức khoa học và thực tiễn. Đặc biệt là trong việc
giáo dục nhận thức, tư tưởng công dân, góp phần không nhỏ vào công cuộc
xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, đưa đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã
hội trong một ngày không xa.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Triết học Mác – Lê-nin. NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. Hướng dẫn học tập nghiên cứu Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lê-nin. NXB Thời Đại, Thành phố Hồ Chí Minh, 2012.

HẾT




×