Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế của tỉnh Ninh Bình từ năm 1992 đến năm 2012 tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.8 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ MỸ HẠNH

QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN CƠ CẤU KINH TẾ
CỦA TỈNH NINH BÌNH NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2012
HỢP TÁC XÃ VẬN TÀI THỦY-BỘ
NỘI ĐỊA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số

: 92 29 013

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

HÀ NỘI – 2018


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà

Phản biện 1: PGS.TS Trần Đức Cường
Phản biện 2: PGS.TS Đoàn Ngọc Hải
Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Minh Đức


Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,tại:
Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Vào hồi ...... giờ, ngày ....... tháng ...... năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử loài người đã chứng minh, kinh tế là một lĩnh vực quan trọng nhất trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Lênin đã từng khẳng định rằng, kinh tế là biểu hiện tập
chung của chính trị…, một chế độ chính trị có thể đứng vững hoặc bị tiêu tan hết trên một
nền tảng kinh tế. Tăng trưởng, phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia
trên thế giới và là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong các giai đoạn, thời kỳ phát triển
của từng quốc gia, dân tộc. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam nhằm đáp ứng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Phân tích từ góc độ kinh tế học hay góc độ lịch sử, sự phát triển của kinh tế luôn
mang trong lòng nó sự chuyển biến về cơ cấu, cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu
thành phần kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thực hiện một cách hợp lý, đạt hiệu
quả cao, đạt mục tiêu đề ra sẽ góp phần không nhỏ vào việc đạt được mục tiêu của kế
hoạch tổng thể và mục tiêu phát triển bền vững quốc gia. Mặt khác, đẩy nhanh sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế sẽ nâng cao trình độ công nghệ, kỹ thuật, nâng cao tính hiệu quả và
năng lực cạnh tranh, đưa trình độ phát triển của nền kinh tế lên mức phát triển cao hơn,
nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước xác định trọng tâm là đổi mới về kinh tế,
bằng sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với Ba Chương trình kinh tế lớn và cơ cấu
thành phần kinh tế với việc khẳng định sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là tất
yếu, khách quan trọng thời kỳ quá độ. Đến nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đã trải qua

hơn 30 năm, ảnh hưởng vô cùng to lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của cả nước, tạo ra
những chuyển biến lớn cho tất cả các địa phương. Song, từ sự phát triển tự thân nền
kinh tế và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đang đặt ra nhiều vấn đề quan trọng
đối với chuyển biến cơ cấu kinh tế, mà vấn đề lớn nhất, đồng thời cấp bách nhất hiện
nay là tái cấu trúc nền kinh tế.
Tổng thể bức tranh nền kinh tế đất nước thời kỳ đổi mới được tạo nên bởi sắc thái
của các ngành, các thành phần kinh tế, các vùng, địa phương… Sự chuyển biến cơ cấu
kinh tế của mỗi ngành, mỗi địa phương hòa chung vào bước chuyển của cả nước từ cơ chế
kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự chuyển biến cơ cấu
kinh tế đó không giống nhau về mô hình, tốc độ, lộ trình, sự thành công hay chưa thành
công. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm của mỗi địa phương; sự nhận thức của
lãnh đạo các địa phương về đặc điểm, lợi thế so sánh của địa phương mình; cách thức lãnh
đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương.
Tỉnh Ninh Bình là vùng đất cố đô có lịch sử hàng nghìn năm, là tỉnh nằm trên trục
đường huyết mạch từ Bắc vào Nam, có nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển. Địa hình
1


Ninh Bình rất đa dạng, phong phú: Có rừng nguyên sinh với nhiều động, thực vật quý
hiếm, có núi đá vôi trùng điệp, có đồi đất, có đồng bằng, ven biển do phù sa của hệ
thống sông Hồng bồi đắp, tạo nên một vùng đất mới phì nhiêu, màu mỡ. Đồng thời, lại
ở vào vị trí chuyển tiếp Bắc – Nam, rừng - biển nên khí hậu Ninh Bình vừa có đặc điểm
chung nhiệt đới gió mùa, vừa có đặc điểm riêng của tiểu vùng khí hậu. Đó là những
điều kiện rất thuận lợi nếu được lãnh đạo tỉnh nhìn nhận và khai thác đúng hướng bằng
sự vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng thì sẽ tạo ra những bước chuyển biến mạnh mẽ
về cơ cấu nền kinh tế.
Từ khi tái lập tỉnh (năm 1992) đến nay, tỉnh Ninh Bình đã không ngừng nỗ lực phấn
đấu, thực hiện sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng trên mảnh đất cố đô lịch sử, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa… đã tạo ra thế và lực mới đưa Ninh Bình ngày càng phát

triển nhanh và bền vững.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng sự biến đổi cơ cấu kinh tế, phân tích xu
hướng những nguyên nhân của sự biến đổi đó và rút ra những nhận xét sẽ có ý nghĩa về
mặt khoa học và thực tiễn của tỉnh Ninh Bình đối với sự phát triển kinh tế thời gian tới
và với những tỉnh đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế mà có những đặc
điểm gần với Ninh Bình.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc tìm hiểu quá trình chuyển biến
cơ cấu kinh tế ở Ninh Bình từ năm 1992 đến năm 2012, tác giả quyết định lựa chọn vấn đề
“Quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế của tỉnh Ninh Bình từ năm 1992 đến năm 2012”
làm đề tài luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài
Qua tìm hiểu, phân tích, tổng hợp các nguồn tư liệu, đề tài sẽ làm rõ những chuyển
biến về cơ cấu kinh tế của tỉnh Ninh Bình qua hai giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2000 và
từ năm 2001 đến năm 2012. Từ đó, rút ra một số nhận xét, đánh giá về đặc điểm chuyển
biến cơ cấu kinh tế, phân tích những tiềm năng, xu hướng và những vấn đề tiếp tục đặt ra
trong phát triển kinh tế của Ninh Bình trong giai đoạn sắp tới.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
(1) Trình bày bối cảnh lịch sử, tập trung vào những nhân tố tác động đến quá trình
chuyển biến cơ cấu kinh tế của tỉnh Ninh Bình từ năm 1992 đến năm 2012.
- Phân tích quá trình chuyển biến về cơ cấu kinh tế (cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế). (2) Làm rõ những kết quả của quá trình
chuyển biến cơ cấu kinh tế trong hai giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2000 và từ năm 2001
đến năm 2012. Từ những thành tựu đạt được trong quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế
của tỉnh Ninh Bình trong 20 năm (1992 - 2012), luận án góp vào bức tranh chung về
chuyển biến kinh tế các tỉnh đồng bằng sông Hồng và cả nước thời kỳ đổi mới, góp phần
2


khẳng định đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong

thời kỳ này. (3) Nhận xét, đánh giá quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế, có ý nghĩa tham
khảo trong phát triển kinh tế của tỉnh Ninh Bình trong thời gian tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình trong khoảng thời gian từ khi tái lập tỉnh - năm 1992 đến năm 2012.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
(1)Phạm vi thời gian, đề tài chủ yếu đi sâu nghiên cứu sự chuyển biến về cơ cấu
kinh tế của tỉnh Ninh Bình từ năm 1992 đến năm 2012. (2) Phạm vi không gian:Địa bàn
tỉnh Ninh Bình theo địa giới hành chính năm 2012 gồm: 8 đơn vị hành chính cấp huyện,
thành phố, thị xã (huyện Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan, Yên Mô, Kim Sơn, Yên Khánh;
thành phố Ninh Bình và thị xã Tam Điệp). (3) Phạm vi về nội dung:Đề tài nghiên cứu cả
chuyển biến về cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế trong mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Song, đề tài chủ yếu đi sâu nghiên cứu sự chuyển biến về cơ cấu
ngành kinh tế theo ba nhóm ngành: công nghiệp – xây dựng, nông nghiệp –lâm – thủy
sản , dịch vụ - du lịch của tỉnh Ninh Bình từ khi tái lập tỉnh (năm 1992) đến năm 2012.
4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1 Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở nắm vững, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin (quan điểm biện chứng và duy vật lịch sử); tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế;
đường lối của Đảng về lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ Đổi mới.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu của đề tài là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
Ngoài ra, đề tài kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu như: sử học – xã hội học – kinh
tế học; sử dụng các phương pháp điều tra, phân tích, so sánh, khảo sát thực địa… để giải
quyết vấn đề đã đặt ra.
4.3 Nguồn tài liệu
Đề tài khai thác và sử dụng các tài liệu gồm: (1)Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình, lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình; Báo cáo của Tỉnh ủy Ninh Bình về kết quả lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng năm, từ năm 1992 đến năm 2012; Các báo cáo của Ủy

ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế, xã hội từ năm 1992
đến năm 2012; Báo cáo Tổng kết hàng năm của các sở: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Xây dựng…(2) Niên giám
thống kê tỉnh Ninh Bình.(3) Các sách, giáo trình, bài viết đăng trên các báo, tạp chí có nội
dung liên quan đến đề tài nghiên cứu. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng những tư liệu thu thập
3


được qua các đợt khảo sát thực tế, phỏng vấn các nhân chứng lịch sử để thẩm định và làm
phong phú thêm nguồn tài liệu nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận án
(1) Phân tích, đánh giá một cách khách quan, chỉ ra những chuyển biến quan
trọng về cơ cấu kinh tế của Ninh Bình qua các giai đoạn lịch sử từ năm 1992 đến năm
2000 và từ năm 2001 đến năm 2012.(2) Nêu những nhận xét, đánh giá trong quá trình
chuyển biến cơ cấu kinh tế, góp phần phát triển kinh tế, xã hội Ninh Bình trong thời kỳ
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.(3) Kết quả nghiên cứu của
luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các ngành có
liên quan tại địa phương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1 Ý nghĩa lý luận
(1) Góp phần khẳng định sự đúng đắn của đường lối Đổi mới về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Đảng qua sự vận dụng vào thực tiễn của tỉnh Ninh Bình. (2) Luận án đóng góp
thêm tư liệu nghiên cứu về địa phương, phân tích toàn diện về quá trình chuyển biến cơ
cấu kinh tế tại Ninh Bình từ năm 1992 đến năm 2012.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận án góp phần tổng kết thực tiễn gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện
của Đảng trên một địa phương cụ thể, trong một lĩnh vực nhất định – lĩnh vực kinh tế.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề
tài gồm 4 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến nội dung luận án
Chương 2: Bối cảnh lịch sử và sự chuyển biến cơ cấu kinh tế của tỉnh Ninh Bình từ
năm 1992 đến năm 2000
Chương 3: Chuyển biến cơ cấu kinh tế của tỉnh Ninh Bình từ năm 2001 đến năm 2012
Chương 4: Nhận xét, đánh giá quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế của tỉnh Ninh
Bình từ năm 1992 đến năm 2012

4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan các vấn đề đã được nghiên cứu
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu chung về kinh tế Việt Nam và kinh tế Việt Nam
thời kỳ đổi mới
Trước Đổi mới, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về kinh tế Việt Nam,
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiêu biểu nhất là: Cuốn sách Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945
– 1975 của tác giả Đặng Phong. Đây là một công trình nghiên cứu được rất nhiều độc giả
biết đến. Cuốn sách này gồm 2 tập, Tập I: 1945 – 1954, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2002 và tập II: 1955 – 1975, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005. Ở trong tập thứ nhất,
tác giả đã trình bày về tình hình kinh tế của Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, về kinh tế vùng kháng chiến và về kinh tế, đời sống vùng Pháp chiếm. Công trình đã
cho chúng ta thấy rõ hơn đời sống kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, manh mún trước năm 1954,
dù ít nhiều cũng đã có một số chuyển biến mới. Trong tập thứ hai, tác giả đã tái hiện lại
kinh tế Việt Nam theo ba phần: phần mở đầu viết về tình hình Việt Nam trong năm 1954 –
1955, phần thứ nhất viết về tình hình kinh tế miền Bắc trong giai đoạn 1955 – 1975, phần
thứ hai viết về kinh tế và đời sống vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát trong giai đoạn
1955 – 1975.
Trong thời kỳ Đổi mới, có nhiều cuốn sách tiêu biểu viết về lĩnh vực kinh tế như:

Năm 2008, tác giả Đặng Phong (chủ biên) cho ra mắt bạn đọc cuốn Tư duy kinh tế Việt
Nam: Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975 – 1989, Nxb Tri thức; Năm 2009, tác giả
Đặng Phong tiếp tục chủ biên cuốn sách “Phá rào" trong kinh tế vào đêm trước đổi mới,
Nxb Tri thức; Võ Đại Lược, “Kinh tế Việt Nam - Lí luận và thực tiễn”, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội 2001; Nguyễn Sinh Cúc, “Nông nghiệp, nông thôn thời kỳ đổi mới 1986 –
2002”, Nxb Thống kê, Hà Nội, (2002); Đặng Thị Loan (chủ biên), “Kinh tế Việt Nam 20
năm đổi mới (1986 - 2006) - thành tựu và những vấn đề đặt ra”, Đại học Kinh tế Quốc
dân, 2006; Nguyễn Ngọc Hà, “Đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” (1986 – 2011), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội,
2012. Các công trình viết về thời kỳ đổi mới đã nêu trên đều đi sâu vào tìm hiểu những
vấn đề đổi mới kinh tế ở Việt Nam như nguyên nhân dẫn đến sự cần thiết phải đổi mới
kinh tế, sự xuất hiện những tư duy đổi mới trong kinh tế (trong ngành kinh tế nông nghiệp
có “khoán chui”, rồi đến “khoán 100” năm 1981, “khoán 10” năm 1988; trong lĩnh vực
công nghiệp có “xé rào”...; trong thương nghiệp có “đổi tem phiếu thay bằng tiền” ... ).
5


Qua thực tiễn nghiên cứu, các tác giả đều khẳng định đổi mới toàn diện đất nước, từ đổi
mới từ duy nhận thức đến đổi mới kinh tế chính là lối thoát duy nhất khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng mà nước ta đã mắc phải.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về CDCCKT ở Việt Nam
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta cũng đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu, gồm cả nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và các công
trình nghiên cứu sâu về chuyển dịch ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế, tiêu biểu là các công trình như: "Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân" của Ngô Đình
Giao, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994; "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XXI", do TS Nguyễn Trần Quế làm chủ biên (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
2004); Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững của Việt Nam do TS.
Phạm Thị Khanh làm chủ biên (Nxb CTQG, Hà Nội, 2010); "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam" do Đỗ Hoài Nam chủ biên
(Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996); "Chuyển dịch cơ cấu ngành ở Việt Nam" do PGS,TS
Bùi Tất Thắng chủ biên (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006); Cuốn sách "Phát triển kinh
tế vùng trong quá trình CNH, HĐH" do TS.Nguyễn Xuân Thu, TS. Nguyễn Văn Phú đồng
chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006;"Kinh tế vùng ở Việt Nam - từ lý luận đến
thực tiễn" do Lê Thu Hoa chủ biên (Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2007); Đổi mới và phát
triển các thành phần kinh tế do Đỗ Hoài Nam chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, năm
1993; "Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Phan Đăng
Tuất (chủ biên), Nxb CTQG, năm 2000; "Một số nội dung cơ bản chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước về kinh tế tập thể", Nxb CTQG, năm 2008; "Doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" do Lê Xuân Bá chủ biên, Nxb
CTQG, năm 2013. Trong các công trình này, hầu hết các tác giả đã phân tích, khẳng định
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được Đảng và
Nhà nước ta xác định là đúng hướng, là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi
tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia có nền kinh tế, xã hội văn minh,
hiện đại. Các tác giả đã chỉ rõ những nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị
trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại - dịch vụ, đồng thời giảm
dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư
nghiệp. Điều này làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt khá cao so với giai
đoạn đầu của thời kỳ đổi mới. Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ
dẫn đến những biến đổi kinh tế, xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ
6


cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế
đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại… Mặt khác, các tác giả đã chỉ ra những khó khăn, thử
thách trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở Việt Nam như tốc độ và chất lượng
chuyển dịch còn chậm và thấp so với yêu cầu; chưa đầu tư đúng mức cho các ngành công
nghệ cao, nhất là công nghiệp chế biến; vẫn còn nặng nề về công nghệp sử dụng nhiều lao

động, đôi lúc còn chưa xác định được cơ cấu đầu tư hợp lý; tình trạng độc quyền còn tồn
tại ở nhiều ngành như xăng dầu, điện, đường sắt... dẫn đến giá cả, chất lượng dịch vụ còn
nhiều bất cập. Ngành nông nghiệp vẫn còn tồn tại sản xuất theo phương thức thủ công
truyền thống, chưa tạo ra được nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp diễn ra còn chậm chạp, trình độ của lực lượng sản xuất nông nghiệp
vẫn còn lạc hậu... Các tác giả cũng đã đề cập đến vai trò, tác động của Nhà nước trong quá
trình trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vai trò của Nhà nước là vô cùng quan trọng trong
việc xóa bỏ các rào cản, tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển, tăng cường vai
trò của Nhà nước trong việc định hướng, hỗ trợ điều tiết các chủ thể kinh tế trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. Nhà nước còn có tác động
thể hiện qua việc kiểm soát, hạn chế những mặt trái của nền kinh tế thị trường, đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển vững chắc.
1.1.3 Nhóm công trình nghiên cứu về tình hình phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, về chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở một số vùng, địa phương
Các công trình nghiên cứu về chuyển biến kinh tế, xã hội tại địa phương, tiêu biểu
như: Luận án của Nguyễn Duy Thụy, Chuyển biến kinh tế - xã hội Đắc Lắc từ năm 1975
đến năm 2003, LATS Lịch sử, Học viện khoa học xã hội, 2011; Nguyễn Thị Nguyền, Quá
trình chuyển biến về kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai từ năm 1991 đến năm 2000, LATS Lịch
sử, Học viện Khoa học xã hội, 2013; Luận án của Nguyễn Thị Thu Nga, Những biến đổi
về kinh tế - xã hội ở nông thôn tỉnh Đồng Tháp từ năm 1975 đến năm 2010, LATS Lịch
sử, Học viện Khoa học xã hội, 2013... Trong các công trình nêu trên các tác giả đã nêu rõ
được những chuyển biến cơ bản về các vấn đề kinh tế - xã hội ở những địa phương nhất
định với những nét đặc thù trong quá trình phát triển. Những công trình này sẽ là nguồn tư
liệu tham khảo có giá trị cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án.
Nhiều luận án tiến sĩ lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã nghiên cứu về vấn đề
này, tiêu biểu như:Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo CDCCKT nông nghiệp từ năm 1986
đến 2005 của Nguyễn Văn Vinh (Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
2010); Luận án của Đặng Kim Oanh với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CDCCKT
nông nghiệp từ 1986 đến 2006 (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
7



Quốc gia Hà Nội, năm 2011); Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu lãnh đạo CDCCKT từ năm 1997 đến
năm 2005 của tác giả Đào Thị Bích Hồng (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012)... Các công trình trên đã trình bày một cách có hệ
thống đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong những năm gần đây và quá trình các Đảng bộ vận dụng đường lối, chủ trương của
Đảng, lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các địa phương theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời từ những kết quả đạt được trong quá trình lãnh đạo,
chỉ đạo, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các Đảng bộ tại địa phương các tác giả
đã bước đầu tổng kết những kinh nghiệm trong lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp
phần phát triển kinh tế, xã hội trong những năm tiếp theo.
1.1.4 Nhóm công trình nghiên cứu về Ninh Bình và liên quan đến chuyển biến cơ
cấu kinh tế của Ninh Bình
Có nhiều học giả viết về Ninh Bình ở những khía cạnh, góc độ khác nhau như:
Cuốn sách “Ninh Bình – 185 năm lịch sử và phát triển” (2007) của Ban tuyên Giáo Tỉnh
ủy Ninh Bình;Cuốn “Địa chí Ninh Bình” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2010;
Cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình” của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình; Cuốn“Kỷ yếu hội thảo Ninh Bình – 20 năm đổi mới và phát triển” (2012)...
Trong thời kỳ Đổi mới, có khá nhiều đề tài luận văn, luận án viết về các vấn đề liên
quan đến kinh tế Ninh Bình dưới những góc độ khác nhau như:
“Đổi mới vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế ở Ninh Bình cho phù hợp với nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Luận án phó tiến sỹ khoa học của tác giả Trịnh Quang
Hảo, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 1995; Luận án tiến sĩ với đề tài “Phát
triển kinh tế làng nghề ở Ninh Bình”của Bùi Văn Tiến, Đại học Nông nghiệp Hà Nội,
2013; Luận văn thạc sỹ kinh tế với đề tài: Phát triển kinh tế du lịch sinh thái trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình, thực trạng và giải pháp của tác giả Tạ Minh Phương, Học viện Chính trị
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006; Luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị
của Lâm Thị Hồng Loan với đề tài: Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở tỉnh Ninh
Bình, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012. Bên cạnh đó, có khá nhiều bài viết trên các báo, tạp

chí đề cập đến các vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội ở Ninh Bình như: Nguyễn Thị
Thanh Tâm, Du lịch Ninh Bình phấn đấu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, Tạp
chí Kinh tế và dự báo số 2/2005; Phan Tiến Dũng, Ninh Bình phát triển các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 9/2004; Đinh Văn Hùng, Tiềm
năng, định hướng và giải pháp triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình đến năm 2010, Tạp chí
8


Kinh tế và dự báo số 9/2004; Đinh Văn Hùng, Ninh Bình phát triển kinh tế gắn với xóa
đói, giảm nghèo, Tạp chí Cộng sản số 11/2006…
1.2. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án cần tiếp tục
nghiên cứu
Những công trình khoa học, sách, báo, tạp chí nêu trên đã làm rõ được những vấn đề
liên quan đến chính trị, xã hội và phát triển kinh tế, văn hóa của tỉnh Ninh Bình dưới
những góc độ khác nhau, có giá trị tham khảo tốt. Tuy nhiên cho đến nay, dưới góc độ
nghiên cứu của khoa học lịch sử, chưa có một công trình riêng nào nghiên cứu toàn diện
có hệ thống, nhấn mạnh về sự chuyến biến cơ cấu kinh tế (trên cả 3 phương diện: về cơ
cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế thành phần và cơ cấu kinh tế vùng) của tỉnh Ninh Bình
trong thời kỳ từ khi tái lập tỉnh đến năm 2012. Chính vì vậy, tác giả đề tài mong muốn
được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về vấn đề này. Từ đó, tác giả nêu lên
một số nhận xét, đánh giá về đặc điểm chuyển biến cơ cấu kinh tế và tác động của nó đến
đời sống, xã hội của địa phương, phân tích những tiềm năng, định hướng góp phần giúp
cho tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương được ổn định và phát triển.
So với mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, những công trình nêu trên còn để
lại những khoảng trống mà luận án phải tiếp tục giải quyết. (1) Hệ thống hóa theo tiến
trình lịch sử về các nhân tố tác động tới cơ cấu kinh tế và chuyển biến cơ cấu kinh tế của
tỉnh Ninh Bình từ khi tái lập tỉnh (năm 1992) đến năm 2012: về vị trí địa lý, địa hình, điều
kiện tự nhiên của tỉnh Ninh Bình; về thực trạng kinh tế, cơ cấu kinh tế tỉnh Ninh Bình thời
điểm tái lập tỉnh; về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và một số chính sách

đặc thù ở Ninh Bình; bức tranh chung nền kinh tế của cả nước tác động đến cơ cấu kinh tế
ở Ninh Bình; vai trò của Đảng bộ tỉnh đối với quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế,... (2)Khái quát quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế ở Ninh Bình trước khi tái lập và từ ngày tái
lập tỉnh (năm 1992) đến năm 2012; đặc điểm nổi bật của quá trình đó; phân tích tính phù
hợp của bước chuyển đó và dự kiến xu hướng phát triển trong tương lai,...(3) Phân tích,
đánh giá kết quả của quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế ở Ninh Bình (1992 - 2012); tác
động - vai trò của quá trình đó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Ninh Bình; những
vấn đề đặt ra đối với quá trình chuyển biến kinh tế của Ninh Bình trong thời gian tiếp theo.

9


Chương 2
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ CHUYỂN BIẾN CƠ CẤU KINH TẾ CỦA TỈNH
NINH BÌNH TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2000
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.1. Khái quát hoàn cảnh lịch sử khi tái lập tỉnh Ninh Bình
Tác giả đã trình bày khái quát hoàn cảnh lịch sử của Ninh Bình từ trước cách mạng
tháng Tám năm 1945 đến khi tái lập tỉnh Ninh Bình (1/4/1992). Đồng thời, tác giả đã chỉ
ra những thuận lợi, khó khăn tại thời điểm tái lập tỉnh .
2.1.2. Khái quát cơ cấu kinh tế của Ninh Bình trước năm 1992
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước cho đến năm 1991, Hà Nam
Ninh bước đầu thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, coi phát triển kinh tế nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu; chú trọng tiểu thủ công nghiệp. Vì vậy kinh tế trên địa bàn Ninh Bình
trước khi tái lập tỉnh bước đầu đã có sự chuyển biến. Tuy nhiên, nhìn chung kinh tế của
tỉnh Hà Nam Ninh nói chung, Ninh Bình nói riêng kém phát triển, cơ sở vật chất, kỹ thuật
của nền kinh tế lạc hậu.
2.2. Khái quát một số yếu tố tác động đến cơ cấu kinh tế của tỉnh Ninh Bình
2.2.1 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Tác giả phân tích đặc điểm, sự tác động đến quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế
của các yếu tố như: Vị trí địa lí, địa hình, khí hậu thời tiết, thủy văn, tài nguyên đất, tài

nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản.
2.2.2 Các yếu tố về cơ sở hạ tầng, xã hội
(1) Cơ sở hạ tầng: Tác giả trình bày đặc điểm của các yếu tố, như giao thông đường bộ,
đường thủy, đường sắt. (2) Dân số, lao động Tác giả đưa ra thống kê dân số, mật độ dân số, lao
động trong các ngành kinh tế, lao động đã qua đào tạo ở các trình độ khác nhau.
2.2.3. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng và sự vận dụng của tỉnh Ninh Bình
2.2.3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước
Những quan điểm cơ bản về phát triển cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của Đảng luôn nhất quán, đồng thời được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội, các Hội
nghị Trung ương, Bộ Chính trị. Đó là các Đại hội Đảng toàn quốc như, Đại hội VI (121986), Đại hội VII (6-1991), đến Đại hội VIII (6-1996), Đảng ta nêu mục tiêu xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
10


thành một nước công nghiệp. Đồng thời, Đảng nêu những quan điểm coi trọng phát triển
cơ cấu ngành kinh tế và nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn.
Ngày 10-11-1998, Bộ Chính trị khóa VIII ra Nghị quyết 06-NQ/TW:

"Về một số

vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn".Nghị quyết đề ra một số biện pháp để chuyển
dịch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: đẩy mạnh thâm canh lúa, từng bước hình
thành các vùng tập trung sản xuất lúa năng suất, chất lượng cao gắn với chế biến; hình
thành các vùng sản xuất tập trung cây công nghiệp, rau, hoa quả; khuyến khích kinh tế hộ,
hợp tác xã và trang trại chăn nuôi quy mô vừa và lớn…đưa chăn nuôi trở thành ngành sản

xuất chính trong nông nghiệp.
Mọi đường lối, chủ trương của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội VIII về phát triển
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được cấp ủy Đảng các địa phương quán triệt,
thực hiện một cách đúng đắn, sáng tạo phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của từng địa
phương trên phạm vi cả nước. Đây chính là cơ sở quan trọng để Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình đề ra chủ trương, biện pháp, lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm
1992 đến năm 2000.
2.2.3.2. Chủ trương, quan điểm của Đảng bộ Ninh Bình về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình thứ XII (8 – 1992) đã đánh giá đặc điểm tình hình
thực tế, thực trạng kinh tế, xã hội của tỉnh tại thời điểm vừa được tái lập, đề ra phương
hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế. Về cơ cấu kinh tế, Đảng bộ nhấn mạnh phải đẩy mạnh
phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong cơ cấu ngành kinh tế, Đảng bộ chủ trương coi
phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện làm nhiệm vụ hàng đầu.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (4/1996) đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp phát triển kinh tế, xã hội đến năm 2000. Phấn đấu xây dựng tỉnh Ninh Bình thành
tỉnh công nghiệp, nông nghiệp, du lịch - dịch vụ với cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 30%,
công nghiệp 35%, du lịch dịch vụ 35%; Đại hội đã đề ra những nhiệm vụ và giải pháp phát
triển cơ cấu kinh tế trên cả 3 phương diện cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế
và vùng kinh tế.
2.3. Quá trình chuyển biến cơ cấu các ngành kinh tế
2.3.1. Ngành công nghiệp – xây dựng
Từ năm 1992 đến hết năm 1995, ngành công nghiệp bước đầu tăng trưởng khá, kết
cấu hạ tầng được tăng cường. Trong giai đoạn này, thực hiện Nghị định 388/HĐBT, các
doanh nghiệp đã được củng cố, sắp xếp lại, từng bước đi vào ổn định, sản xuất kinh doanh
đạt hiệu quả hơn. Các ngành công nghiệp mũi nhọn bước đầu được hình thành, nhất là
công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng tăng nhanh.
11


Từ năm 1996 – 2000, là giai đoạn quán triệt, thực hiện đường lối của Đảng về phát

triển kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, tạo bước đi vững chắc, hiệu quả
kinh tế cao. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình đã ra Nghị quyết, tập trung chỉ đạo
thực hiện một số nhiệm vụ trọng yếu của ngành công nghiệp để đạt kết quả quan trọng tạo
ra sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế. Chú trọng, sắp xếp lại, ổn định các cơ sở công
nghiệp. Tiếp tục tăng cường đầu tư vào những ngành công nghiệp được coi là mũi nhọn
(chế biến nông sản, thực phẩm, vật liệu xây dựng...).
Ngành công nghiệp được đầu tư, sản xuất phát triển, năng lực sản xuất tăng, thu hút
lực lượng lao động xã hội tham gia vào sản xuất công nghiệp ngày càng tăng (năm 1991:
19.853 lao động; năm 2000: 32.989 lao động). Trong những năm 1996-2000, sản xuất
công nghiệp tăng cả về quy mô và giá trị sản xuất. Năm 1996, giá trị sản xuất công nghiệp
(giá cố định năm 1994) đạt 552,5 tỉ đồng, tăng 37,6% so với năm 1995. Năm 2000, giá trị
sản xuất công nghiệp đạt 928,5 tỉ, gấp 2,3 lần so với năm 1995. Bình quân hàng năm trong
giai đoạn 1996 – 2000, giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh đạt tốc độ tăng 18,3% cao hơn
12,4% so với giai đoạn 1992 -1995. Đây là kết quả rất quan trọng, tạo đà cho bước phát
triển của ngành công nghiệp trong những giai đoạn tiếp theo.
2.3.2. Ngành nông nghiệp
Từ năm 1992 đến năm 1996, nông nghiệp là lĩnh vực phát triển nổi bật nhất trong
cơ cấu các ngành kinh tế của Ninh Bình.
Về trồng trọt
Từ năm 1992 đến năm 1995, cơ cấu kinh tế nông nghiệp bước đầu có sự chuyển
dịch theo hướng toàn diện, sản xuất hàng hoá, nâng cao giá trị thu nhập trên mỗi ha canh
tác, phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng. Vùng đất màu, vùng đồi rừng có sự chuyển
biến rõ nhất.
Từ năm 1996-2000, do có chủ trương, chính sách, cơ chế đúng đắn, phù hợp, kịp
thời đối với sản xuất nông nghiệp và thời tiết thuận lợi làm cho kinh tế nông thôn phát triển,
sản xuất nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh liên tục tăng cả về diện tích, năng suất và sản
lượng. Đến năm 2000, giá trị sản xuất của cây lúa vẫn luôn chiếm đa số trong giá trị sản
xuất lương thực, tiếp đến là cây công nghiệp, cây ăn quả và các loại cây khác. Tuy nhiên,
tốc độ tăng về giá trị của cây công nghiệp và cây ăn quả cao hơn nhiều so với tốc độ tăng
của cây lúa. Tỷ trọng giá trị của cây công nghiệp và cây ăn quả trên 20% tổng giá trị của

ngành trồng trọt dù chỉ chiếm khoảng 15% về diện tích. Đặc biệt, thế mạnh của cây ăn quả
đã bộc lộ rõ khi đạt hơn 10% giá trị của ngành trồng trọt dù chỉ chiếm hơn 5% về diện tích.
Trong lĩnh vực trồng trọt đã có sự chuyển biến, từ chỗ trồng cây lúa là chính, dần
dần tỉnh đã đầu tư phát triển cây công nghiệp và cây ăn quả, góp phần tăng thu nhập đáng
12


kể cho người nông dân. Tuy nhiên, sự chuyển biến diễn ra còn chậm so với khả năng và
nhu cầu.
Về chăn nuôi
Giai đoạn từ năm 1992 – 1995, chăn nuôi liên tục gia tăng về số lượng gia súc, gia
cầm, đặc biệt là chăn nuôi dê và lợn. Một số địa phương trong tỉnh đã phát triển chăn nuôi
đặc sản, nuôi và khai thác thuỷ, hải sản, nhiều hộ gia đình thu hàng chục triệu đồng mỗi
năm. Năm 1995 khai thác 2600 tấn thuỷ, hải sản, tăng 58% so với năm 1991.
Từ năm 1996 - 2000, chăn nuôi phát triển toàn diện và có hiệu quả hơn. Đàn lợn, đàn
bò, đàn dê đều tăng. Đàn trâu giảm do ngày càng sử dụng nhiều máy móc vào khâu làm đất
trong công nghiệp. Thuỷ sản phát triển cả nuôi trồng, đánh bắt và dịch vụ thủy sản. Trong
cơ cấu nội bộ ngành thủy sản, giá trị sản xuất của nuôi trồng thủy sản luôn dẫn đầu, đứng
thứ hai là lĩnh vực khai thác thủy sản, dịch vụ thủy sản luôn chiếm tỷ trọng nhỏ nhất. Giá trị
sản xuất của ngành lâm nghiệp Ninh Bình luôn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng giá trị
sản xuất của cơ cấu nhóm ngành nông lâm thủy sản và có xu hướng giảm dần trong tất cả
các lĩnh vực của nội bộ ngành lâm nghiệp.
2.3.3. Ngành dịch vụ – du lịch
Hoạt động dịch vụ, thương mại của các thành phần kinh tế trong những năm 1992 –
2000 có những bước chuyển biến rõ rệt, hàng hóa lưu thông trên thị trường tương đối lớn,
thị trường khá sôi động phát triển lành mạnh, đúng hướng, hàng hóa dồi dào đã đáp ứng
được yêu cầu của sản xuất và tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh. Hoạt động dịch vụ,
thương mại đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xã hội và tác động tích cực
đến sự chuyển biến cơ cấu kinh tế trong những năm tiếp theo.
Ngành du lịch: Từ năm 1992 đến năm 2000, tỉnh đã đưa ra những Thông báo, Nghị

quyết quan trọng, đồng thời tổ chức các Hội nghị về phát triển du lịch, về kế hoạch giữ
gìn, tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, khu danh lam thắng cảnh; hình thành các
tuyến du lịch; phát triển dịch vụ du lịch; xây dựng cơ sở vật chất... cho sự phát triển của du
lịch tỉnh. Vì vậy, đã tạo ra bước phát triển nhanh chóng mang tính đột phá của ngành du
lịch Ninh Bình cả về lượng khách và giá trị doanh thu đã tạo nên sự thay đổi lớn trong cơ
cấu ngành dịch vụ - du lịch. Song do giá trị của du lịch còn quá nhỏ nên chưa tác động
nhiều đến tổng thể cơ cấu ngành kinh tế. Mặt khác, đi sâu vào nội bộ cơ cấu ngành du lịch
thì sự thay đổi không đáng kể, vẫn chủ yếu là khách nội địa, chủ yếu là khách đi – đến
trong ngày, chủ yếu là khách du lịch thiên nhiên.
Nhìn chung, do có sự đầu tư đúng hướng nên trong giai đoạn này ngành kinh tế du
lịch của tỉnh đã có những chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt như: số lượt khách,
doanh thu, đầu tư, quảng bá du lịch... Mặc dù vậy, từ năm 1992 đến năm 2000, tỉnh còn có
13


những khó khăn về cơ sở hạ tầng, về tổ chức, quản lý nên hiệu quả thấp, chưa tương xứng
với tiềm năng to lớn và thế mạnh du lịch của tỉnh.
2.4 Quá trình chuyển biến cơ cấu thành phần kinh tế
2.4.1. Thành phần kinh tế Nhà nước
Giai đoạn 1992 - 2000, thực hiện đổi mới và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước, các công ty cổ phần được thành lập và hoạt động có những chuyển biến. Các công
ty hoạt động đều tăng doanh thu, đóng góp tích cực cho ngân sách Nhà nước, thu nhập của
người lao động dần dần được ổn định và nâng cao. Ninh Bình là một trong những tỉnh đi
đầu chuyển đổi hình thức sở hữu các doanh nghiệp nhà nước. Thành phần kinh tế Nhà
nước thu hẹp phạm vi hoạt động, tập trung vào các lĩnh vực then chốt, giảm về số lượng
doanh nghiệp và tỷ trọng. Các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại nên giảm mạnh về
số lượng từ 44 doanh nghiệp năm 1991 còn 26 doanh nghiệp năm 1996 và đến năm 2000
tổ chức lại còn 16 doanh nghiệp. Trong đó, cổ phần hoá 3 doanh nghiệp, giải thể, phá sản,
sáp nhập 9 doanh nghiệp, bán lại 4 doanh nghiệp cho thành phần kinh tế khác.
2.4.2. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh

Trong giai đoạn đầu sau khi tái lập tỉnh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng
được tổ chức và sắp xếp lại. Các doanh nghiệp đã dần dần mở rộng các cơ sở sản xuất, đổi
mới công nghệ, từ đó năng xuất, chất lượng sản phẩm được nâng lên mang lại hiệu quả
kinh tế cao hơn.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình đổi mới về tổ chức theo hướng đa
dạng hoá về thành phần và số lượng. Số lượng cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
ngoài quốc doanh tăng khá nhanh. Số lượng cơ sở công nghiệp ngoài nhà nước năm 2000
là hơn 16,8 nghìn cơ sở, gấp 1,7 lần so với năm 1995 và gấp 7,2 lần so với năm 1991.
Kinh tế hợp tác xã giảm chủ yếu nắm giữ khâu dịch vụ nông nghiệp và một số hợp tác xã
thủ công nghiệp. Thậm chí trong ngành thương mại và khách sạn nhà hàng không hề có sự
xuất hiện của kinh tế hợp tác; Kinh tế cá thể phát triển mạnh ở khắp các vùng, có quy mô
nhỏ. Đặc biệt, từ năm 1996, đã xuất hiện 2 cơ sở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là một dấu hiệu mới trong cơ cấu thành phần kinh tế của Ninh Bình.
Sự phát triển mạnh của kinh tế tư nhân, đặc biệt là của kinh tế cá thể chiếm ưu thế
gần như tuyệt đối trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh như tiểu thủ công nghiệp,
dịch vụ thương nghiệp, dịch vụ vận tải, tạo ra động lực chính thúc đẩy các lĩnh vực thương
mại, dịch vụ cùng phát triển mạnh mẽ.
2.5. Quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế vùng
2.5.1. Vùng sản xuất nông nghiệp
Trong giai đoạn tỉnh mới được tái lập (1992 – 1996), tỉnh luôn xác định sản xuất
nông nghiệp là một lợi thế lớn nên sớm có những quyết định quan trọng về phát triển các
14


vùng sản suất nông nghiệp. Vì thế, 3/1993 Tỉnh ủy Ninh Bình đã ra nghị quyết số 02 nhằm
thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp. Sau đó, 4/1994 Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây
dựng các đề án phát triển nông nghiệp: Đề án đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn trong 2 năm (1994-1995) và phát triển các hình thức hợp tác xã; Đề án nâng cấp, tiếp
tục đầu tư thực hiện 9 dự án phát triển kinh tế vùng đồi núi, vùng ven núi (17 xã với
18.600 ha) khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới, định canh định cư; Đề án thực hiện đổi

mới cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống mới và chương trình cấp 1 hoá giống lúa trong toàn tỉnh;
chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc; chương trình chuyển đổi cơ cấu mùa vụ ở các
vùng thuộc các huyện: Nho Quan, Gia Viễn, Kim Sơn...
Vùng phía Nam Ninh Bình (gồm 2 huyện Yên Mô và Kim Sơn) là vùng sản xuất
lương thực chủ yếu của tỉnh, chiếm hơn 60% diện tích canh tác toàn tỉnh nên được chú ý
phát triển về mọi mặt: đầu tư tài chính, thủy lợi, giống cây trồng... Riêng vùng trồng lúa và
lương thực ở Kim Sơn luôn là vùng dẫn đầu tỉnh về năng xuất cây trồng. Từ năm 1992 đến
2000, sản lượng lúa ở Kim Sơn đã đạt được 691.387 tấn. Cũng trong giai đoạn này, đứng
thứ 2 là vùng sản xuất lúa ở Yên Khánh với sản lượng đạt 644.805 tấn. Cùng thời gian
trên, vùng lúa đạt sản lượng thấp nhất của tỉnh là thành phố Ninh Bình, sản lượng chỉ đạt
được 24.971.
Về lĩnh vực chăn nuôi, ngay từ khi tái lập tỉnh - năm 1992 đến năm 2000, huyện Yên
Khánh và Nho Quan, Gia Viễn đã luôn dẫn đầu về số lượng chăn nuôi lợn, bò, cung cấp hàng
nghìn tấn cho nhu cầu của nhân dân trong toàn tỉnh và các tỉnh lân cận.
2.5.2 Vùng trung tâm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Từ năm 1992 – 2000 hệ thống khu công nghiệp chưa được hình thành, các cơ sở
công nghiệp được phân bố ở tất cả các huyện, thị xã và thành phố song tập trung chủ yếu ở
các vùng Kim Sơn, Yên Khánh, Hoa Lư, Nho Quan, Gia Viễn...
Trong giai đoạn 1992 -2000, phần lớn số cơ sở công nghiệp tại các thành phố, thị
xã, huyện đều tăng lên nhanh chóng. Trong đó, các vùng Kim Sơn, Yên Khánh, Hoa Lư
tăng nhanh hơn do giai đoạn từ năm 1996 - 2000, sản xuất công nghiệp tăng cả về quy mô
và giá trị sản xuất. Vùng Kim Sơn luôn dẫn đầu về số cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa
bàn tỉnh, đây là vùng đất có rất nhiều ưu thế để phát triển.
Trong giai đoạn 1992 – 1995, nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục và phát
triển, như dệt chiếu, cói ở Kim Sơn, làm đồ mộc và chạm khắc đá ở Hoa Lư, mây tre đan ở Gia
Viễn,... đã thu hút hàng ngàn lao động. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15%, dịch vụ du lịch
tăng 14,2% so với năm 1994… Từ năm 1996 - 2000 các làng nghề, ngành nghề truyền
thống trong tỉnh được phát triển và mở rộng. Năm 2000, toàn tỉnh có hàng chục làng nghề
sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thu hút hàng nghìn lao động trong khu vực nông thôn.
15



2.5.3. Vùng kinh tế ven biển
Ngay từ khi mới tái lập tỉnh (năm 1992), vùng kinh tế ven biển Kim Sơn đã được
chú ý đầu tư, phát triển cây lúa. Do vậy, sản lượng lúa hàng năm của vùng thường đạt
năng xuất cao hơn so với các vùng khác trong tỉnh.
Từ năm 1992 – 1996, kinh tế vùng ven biển ở Ninh Bình chưa có quy hoạch tập
trung nên việc nuôi trồng thủy sản chủ yếu là do tự phát, nhân dân tự sản xuất chưa có sự
quan tâm đầu tư của tỉnh nên quy mô nhỏ, lẻ tẻ. Đời sống của nhân dân cùng ven biển gặp
rất nhiều khó khăn và không ổn định. Từ năm 1997, do được sự quan tâm đầu tư của tỉnh,
huyện về cơ sở hạ tầng nên hệ thống đê điều, kênh mương, kè, trạm bơm, hệ thống điện,
đường giao thông... đã được xây mới, tạo điều kiện quan trọng để hình thành các vùng nuôi
chuyên canh và nâng cao hiệu quả sản xuất. Từ đây, việc nuôi trồng thủy sản được chú
trọng và kinh tế vùng ven biển bắt đầu có sự chuyển biến. Đến năm 2000, kinh tế vùng biển
Kim Sơn đã có bước phát triển khá do các hộ đã chú trọng đầu tư nuôi tôm sú.
Tiểu kết chương 2
Những nhân tố tác động đến chuyển biến kinh tế như: những nhân tố về dân tố, lao
động, giáo dục, đào tạo, cơ sở hạ tầng... đặc biệt là đường lối phát triển kinh tế của Đảng
ta và Đảng bộ tỉnh Ninh Bình có sự tác động lớn đến việc phát triển cơ cấu kinh tế của
tỉnh. Sự chuyển biến về cơ cấu ngành kinh tế: đã đưa Ninh Bình từ một tỉnh thuần nông,
kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất dần dần trở thành một tỉnh phát triển theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp giảm dần theo các năm, đồng
thời kinh tế công nghiệp và dịch vụ tăng dần; Cơ cấu thành phần: có sự chuyển biến tích cực
theo hướng sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp được cổ phần
hóa hoặc giao khoán cho người lao động. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là các
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế cá thể ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự
chuyển dịch kinh tế của Ninh Bình. Kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
những dấu hiệu mới nhưng chưa phát triển mạnh mẽ so với yêu cầu; Cơ cấu kinh tế vùng:
Hình thành những vùng sản xuất nông nghiệp đạt sản lượng và chất lượng cao. Vùng kinh
tế ven biển bước đầu đã có sự đầu tư nuôi trồng thủy sản, mở ra triển vọng phát triển lớn

cho kinh tế vùng ven biển. Tuy nhiên, các vùng kinh tế chưa được hình thành một cách
tương thích, mới tập trung vào các vùng sản xuất nông nghiệp.

16


Chương 3
CHUYỂN BIẾN CƠ CẤU KINH TẾ CỦA TỈNH NINH BÌNH
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2012
3.1. Hoàn cảnh lịch sử mới và yêu cầu thúc đẩy chuyển biến cơ cấu kinh tế của Ninh Bình
3.1.1. Khái quát hoàn cảnh lịch sử
Năm 2001, thế giới và trong nước có những đặc điểm quan trọng ảnh hưởng lớn
đến quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế của các tỉnh, thành trong cả nước nói chung, tỉnh
Ninh Bình nói riêng.
Nền kinh tế, xã hội Ninh Bình sau 9 năm tái lập đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nhanh hơn so với các giai đoạn trước. Cơ cấu
kinh tế của tỉnh Ninh Bình đã có sự chuyển hướng theo đúng xu thế phát triển chung của
đất nước. Do vậy, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh đã được nâng cao
một bước. Kết quả bước đầu của sự chuyển biến đã tạo nền tảng quan trọng để Ninh Bình
bước sang giai đoạn tiếp theo với những chuyến biến mới và mạnh mẽ.
3.1.2. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng và sự vận dụng của tỉnh Ninh Bình
(1) Đại hội IX của Đảng (năm 2001) nhấn mạnh, trong chiến lược phát triển kinh
tế 10 năm (2001 – 2010), trong đó kế hoạch phát triển kinh tế của 5 năm đầu (2001 –
2005) là bước rất quan trọng nhằm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững... chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa... Coi
trọng cả cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng, lãnh thổ. (2) Đại hội X (42006), Đảng tiếp tục khẳng định mô hình kinh tế đã được lựa chọn đồng thời nhấn mạnh,
để đi lên chủ nghĩa xã hội, phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế. Đại hội đã nêu những quan điểm cụ thể về phát triển cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. (3) Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (tháng

1/2011), nhấn mạnh phải đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao
chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững.
Nhận định tình hình chuyển biến kinh tế của đất nước, đồng thời quán triệt quan
điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội về phát triển kinh tế, Đại hội Đảng bộ của tỉnh
Ninh Bình các khóa XIV, XIX, XX đề ra đường lối phát triển kinh tế từ năm 2001 đến
năm 2012.
3.2 Sự chuyển biến về cơ cấu ngành kinh tế
3.2.1. Công nghiệp, xây dựng
Giai đoạn 2001 – 2005, ngành công nghiệp Ninh Bình đã được tăng cường vốn đầu
tư, tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm khá cao trong trong tổng vốn đầu tư trên địa
bàn toàn tỉnh, nhất là những năm đầu trong giai đoạn này: năm 2001 đạt 793,8 tỷ đồng
(chiếm 67,6% trong tổng vốn đầu tư); năm 2002 đạt 1.371,9 tỷ đồng (chiếm 62,4%); năm
17


2003 đạt gần 771,2 tỷ đồng (chiếm 37,8%); năm 2004 đạt 1.192 tỷ đồng (chiếm 46,8%);
năm 2005 đạt 816,6 tỷ đồng (chiếm 29,7%).
Giai đoạn 2006 -2012, đây là giai đoạn sản xuất công nghiệp có bước chuyển biến
tích cực nhất cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng. Trong đó, công nghiệp sản xuất vật liệu
xây dựng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của toàn ngành. Công nghiệp sản xuất vật liệu
xây dựng (VLXD) là ngành công nghiệp có vai trò quan trọng và đóng góp lớn nhất trong
giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Tính đến năm 2012, số cơ sở sản xuất trên địa bàn
tỉnh có hơn 1 ngàn cơ sở sản xuất, với hơn một vạn lao động.
3.2.2. Ngành nông nghiệp
Trong giai đoạn 2001 - 2006, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Ninh Bình tiếp tục phát
triển tương đối toàn diện, cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản
xuất hàng hóa theo nhu cầu của thị trường, nâng cao chất lượng và giá trị của các sản
phẩm.Giai đoạn 2007 -2012, nông nghiệp tỉnh Ninh Bình vẫn tiếp tục phát triển toàn diện
theo hướng sản xuất hàng hóa, giá trị sản xuất trên một ha đất canh tác tăng cao. Cơ cấu
cây trồng, vật nuôi trong giai đoạn này đã từng bước được chuyển đổi. Hàng ngàn ha đất

có giá trị kinh tế thấp đã được chuyển sang trồng cây và chăn nuôi các con vật có giá trị
kinh tế cao.
Về trồng trọt
Giá trị sản xuất của cây lúa trong cơ cấu ngành trồng trọt luôn luôn giữ vị trí quan
trọng nhất. Từ năm 2007 đến năm 2008, giá trị sản xuất của cây rau, đậu và gia vị tăng dần
và đến năm 2009 - 2010 trở đi có sự tăng vọt. Có được kết quả trên là do Ninh Bình đã
thực hiện tốt chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đồng thời thực hiện tốt các quy trình
thâm canh, tích cực áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất... Từ đó, đời sống của nông dân
từng bước được cải thiện và nâng cao.
Tốc độ tăng trưởng về giá trị đạt cao do tiến bộ về kỹ thuật, gia tăng về sản xuất, sản
lượng; cơ cấu giá trị trong nội ngành trồng trọt cũng có những thay đổi với sự tăng trưởng
của cây rau đậu, cây công nghiệp và cây ăn quả. Năm 2001, giá trị của các loại cây trồng
là: Cây lúa đạt 83.240 triệu đồng, cây công nghiệp đạt 9.316 triệu đồng, cây ăn quả đạt
5.700 triệu đồng. Năm 2012, cây lúa đạt 3.202.381,cây rau, đậu, cây gia vị đạt 686.427
triệu đồng, cây công nghiệp đạt 340.917 triệu đồng, cây ăn quả đạt 451.178 triệu đồng.
Về chuyển biến cơ cấu ngành chăn nuôi
Từ 2001 đến 2012, lĩnh vực chăn nuôi phát triển rất mạnh mẽ, đa dạng và khá toàn
diện. Tổng số đàn gia súc, gia cầm ngày càng tăng, chất lượng cũng dần được nâng nâng lên.
Đến năm 2012, đã có nhiều trang trại chăn nuôi tập trung theo hướng công nghiệp, toàn tỉnh
có 64 cơ sở chăn nuôi với quy mô lớn (trong đó có 41 cơ sở chăn nuôi lợn, 1 cơ sở chăn nuôi
bò, 8 cơ sở chăn nuôi gà và 14 cơ sở chăn nuôi thủy cầm) các cơ sở chăn nuôi này đều mang
lại hiệu quả kinh tế cao, giúp cải thiện không nhỏ đời sống của người dân.
18


Thuỷ sản: Tốc độ tăng trưởng ngành thuỷ sản khá cao. Năm 2001, diện tích nuôi
trồng thủy sản là 3.949 ha. Đến năm 2012, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản là 9.827 ha,
tổng sản lượng thủy sản đạt 36.688 tấn.
Về lâm nghiệp
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2012, giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp

vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong trong tổng giá trị sản xuất của nhóm ngành nông – lâm –
thủy sản.Tất cả các lĩnh vực trong nội bộ ngành lâm nghiệp đều có xu hướng tăng, giảm
không đều. Khai thác gỗ và lâm sản là lĩnh vực chiếm tỷ trọng cao nhất trong nội bộ ngành
lâm nghiệp.
3.2.3. Dịch vụ – du lịch
Về dịch vụ, thương mại
Hoạt động xuất, nhập khẩu có những chuyển biến tích cực theo hướng phát triển,
mở rộng thị trường và các mặt hàng truyền thống. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm
2007 là 125 triệu USD (trong đó kim ngạch xuất khẩu là 34,7 triệu USD, đây là dấu mốc
quan trọng vì đây là lần đầu tiên tỉnh Ninh Bình có mức kim ngạch xuất khẩu vượt qua
mức 30tr USD so với các giai đoạn trước đây). Đến năm 2012, hoạt động xuất nhập khẩu
tăng mạnh. Kim ngạch xuất khẩu có sự chuyển biến mạnh mẽ, đạt gần 450 triệu USD, tăng
66,4% so với năm 2011 và vượt 69,6% so với kế hoạch. Kim ngạch nhập khẩu đạt 225,3
triệu USD, giảm 22,5% so với năm 2011. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là phụ liệu may
mặc, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất.
Về du lịch
Trong giai đoạn từ 2001 đến 2012, kinh tế du lịch đã có sự chuyển biến tích cực trên tất
cả các mặt như: (1) Về lượng khách du lịch:Tăng rất nhanh chóng qua các năm, năm 2001 là
303.707 người, năm 2006 tăng lên 1.186.988 người, đến năm 2012, lượng khách du lịch đến
Ninh Bình đạt hơn 3,7 triệu người. (2) Về tổng doanh thu từ du lịch: Tổng doanh thu du lịch
của Ninh Bình cũng tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1992, doanh thu từ du lịch chỉ đạt
1,58 tỷ đồng thì đến năm 2001 tổng doanh thu của toàn ngành du lịch là gần 18,3 tỷ đồng, đến
năm 2006 đạt gần 88 tỷ và đến năm 2012 là 776,7 tỷ. (3) Về hoạt động xúc tiến, quảng bá du
lịch: Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch dần dần được chuyên môn hóa, được đổi mới cả về
nội dung và hình thức. Ngoài việc thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng như: phát thanh, truyền hình, báo chí, internet... tỉnh đã đa dạng hóa về các hình thức
khác như tham gia các hội chợ du lịch trong nước, quốc tế, tổ chức và phối hợp tổ chức các hội
thảo quảng bá du lịch, xây dựng tour, tuyến du lịch.
3.3 Sự chuyển biến về cơ cấu thành phần kinh tế
3.3.1. Thành phần kinh tế Nhà nước

Tỉnh Ninh Bình tiếp tục thực hiện quá trình sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa, nâng cao
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Sau khi cổ phần hóa, các đơn vị sản
19


xuất kinh doanh đều có hiệu quả. Vốn của nhà nước được bảo toàn và phát triển. Các
doanh nghiệp đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, đảm bảo chế độ chính
sách cho người lao động và thu nhập của người lao động tăng lên.
3.3.2. Các thành phần kinh tế khác
Ninh Bình đã thu hút được nguồn vốn mạnh mẽ từ các nhà đầu tư nước ngoài nên
đã tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế ngoài
nhà nước, điều này đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp của Ninh Bình, nhất
là trong giai đoạn từ 2006 đến 2012. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dù mới xuất hiện
nhưng phát triển nhanh, đứng vị trí quan trọng (thứ hai) trong tỷ trọng cơ cấu giá trị sản
xuất công nghiệp. Điều đáng chú ý là đối với thành phần kinh tế này, các cơ sở sản xuất
thường có công nghệ hiện đại, sản xuất gắn với thị trường và có triển vọng tiếp tục phát
triển mạnh.
3.4 Những biến đổi về cơ cấu kinh tế vùng
3.4.1. Vùng sản xuất nông nghiệp
Hình thành những vùng sản xuất tập trung, vùng chuyên canh cây lúa chất lượng
cao, tích cực ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Trong đó, những
vùng sản xuất tiêu biểu: Kim Sơn, Yên Khánh, Yên Mô... liên tục đạt năng suất, sản lượng
lúa cao nhất trong toàn tỉnh. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó không những
đảm bảo lương thực cho toàn tỉnh mà còn cung cấp lương thực hàng hóa trên địa bàn miền
Bắc và xuất khẩu.
3.4.2. Các khu, cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
(1)Tình hình hoạt động phát triển của các khu công nghiệp:Đến năm 2012, hệ thống
khu công nghiệp đã hình thành, một số khu công nghiệp đã đi vào hoạt động hiệu quả, đáp
ứng nhu cầu phát triển công nghiệp, góp phần quan trọng đối với sự chuyển biến kinh tế,
xã hội của tỉnh. (2)Tình hình hoạt động, phát triển các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp:

Đến hết năm 2012, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 17 cụm công nghiệp, cụm làng nghề với
tổng diện tích quy hoạch là 447,78 ha, trong đó có 9 cụm công nghiệp với diện tích là
227,78 được triển khai và thu hút 166 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 3.725 tỷ
đồng, giải quyết việc làm cho trên 5.400 lao động. (3) Tiểu thủ công nghiệp trong giai
đoạn này đã có những sự chuyển biến nhanh hơn so với các giai đoạn trước, điều này đã
thúc đẩy ngành nghề ở nông thôn phát triển. Năm 2006, trên địa bàn tỉnh đã hình thành
được 50 làng nghề, tập trung chủ yếu vào các làng nghề sản xuất các mặt hàng về cói, thêu
ren, chế tác đá... Bên cạnh đó, xuất hiện một số ngành nghề mới như: sản xuất mộc nhĩ,
nấm rơm… Đến năm 2012, toàn tỉnh có 257 làng nghề (trong đó có 153 làng nghề truyền
20


thống), 15 làng nghề đạt tiêu chuẩn cấp tỉnh, nâng tổng số làng nghề cấp tỉnh được công
nhận lên 69 làng nghề.
3.4.3 Vùng kinh tế ven biển
Vùng kinh tế ven biển đã tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị
cao. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vùng đã chú trọng vấn đề tăng năng
suất đi đôi với đảm bảo nâng cao và thực hiện quy hoạch các khu vực chuyên canh lúa, kết
hợp với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đổi mới cơ cấu giống, cơ cấu mùa
vụ, mở rộng sản xuất những giống lúa có chất lượng cao. Về nuôi trồng thủy, hải sản, nét
nổi bật của vùng kinh tế ven biển là đã tập trung chuyển đổi khá mạnh những diện tích
vùng trũng cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản
Tiểu kết chương 3
Từ năm 2001 đến năm 2012, chủ trương của tỉnh luôn có lộ trình bài bản, vừa có
tính dài hạn, vừa giải quyết được những vấn đề trước mắt, vừa có những giải pháp mang
tính đột phá; bước sau kế thừa bước trước...Vì vậy đã tạo ra sự chuyến biến rất mạnh mẽ
về cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này. (1) Cơ cấu kinh tế ngành của Ninh Bình tiếp tục
chuyển biến theo xu hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, du lịch,
tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản giảm dần theo từng năm trong cơ cấu GDP. Từ đó đã
đưa Ninh Bình trở thành một tỉnh công nghiệp. (2) Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển

mạnh mẽ, kinh tế nhà nước trung ương vẫn luôn có sự tăng trưởng ổn định về giá trị sản
xuất công nghiệp, nắm giữ vai trò chủ đạo đối với các ngành sản xuất cơ bản. Thành phần
kinh tế tư nhân có sự tăng trưởng mạnh mẽ nhất về giá trị sản xuất công nghiệp và giữ tỷ
trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP trên địa bàn tỉnh.(3) Cơ cấu vùng kinh tế, hình thành
những vùng chuyên canh các loại cây, vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm, hoạt động hiệu
quả và có sự chuyển biến tích cực hơn hẳn giai đoạn trước. Các khu, cụm công nghiệp gia
tăng nhanh về số lượng và hiệu quả hoạt động, đóng góp lớn vào ngân sách của địa
phương. Vùng kinh tế ven biển đã phát huy tốt những lợi thế có sẵn để đẩy mạnh khai thác
và nuôi trồng thủy, hải sản.

21


Chương 4
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN CƠ CẤU KINH TẾ CỦA
TỈNH NINH BÌNH TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2012
4.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện của Ninh Bình
và xu thế chung của cả nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, cơ cấu kinh tế của Nhà nước cũng như
của từng vùng, từng ngành, từng địa phương đều có bước chuyển căn bản với những biểu
hiện dễ nhận biết: tỷ trọng giá trị của công nghiệp, thương mại và dịch vụ tăng nhanh,
chiếm phần lớn tổng giá trị của nên kinh tế, tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp ngày càng
thu hẹp.
Ninh Bình đã khai thác đúng, khai thác hiệu quả nguồn lực từ bên trong, đồng thời cũng
thành công trong việc khai thác các nguồn lực từ bên ngoài. Đầu tư nước ngoài tại Ninh Bình
chưa nhiều, nhưng việc thu hút nguồn vốn của Trung ương, từ các doanh nghiệp lớn từ Hà Nội
và các tỉnh khác lại rất lớn. Quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế ở Ninh Bình luôn gắn bó, kết
nối chặt chẽ với quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế của vùng Nam đồng bằng sông Hồng. Ninh
Bình vừa là vùng cung cấp nguyên liệu, vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm của các tỉnh khác. Các nhà
máy xi măng ở Ninh Bình nằm trong hệ thống các nhà máy xi măng theo trục Bắc – Nam ở miền

Bắc. Vùng kinh tế biển Kim Sơn gắn liền với vùng kinh tế ven biển của đồng bằng Bắc bộ và
Bắc Trung bộ. Vùng lúa Kim Sơm, Yên Khánh, Yên Mô nằm trong vùng trồng cây lương thực
của Đồng bằng Bắc bộ. Các khu công nghiệp của Ninh Bình nằm trong hệ thồng các khu công
nghiệp theo dọc trục Bắc Nam của cả nước.
4.2. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa với sự gia tăng nhanh của công nghiệp, dịch vụ, của các ngành, nghề có giá trị
gia tăng cao
Giai đoạn 1992 – 1995, là giai đoạn đầu tiên trong quá trình thực hiện sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế từ khi tái lập tỉnh. Cơ cấu ngành kinh tế bước đầu đã có sự
chuyển biến. Giai đoạn 2001 – 2005, là giai đoạn có sự chuyển biến ấn tượng về cơ cấu
kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng, tất cả đều vượt mục tiêu, kế
hoạch đã đặt ra. Năm 2005, tỉnh Ninh Bình đã thoát khỏi tỉnh nghèo ở đồng bằng sông
Hồng. Năm 2005, cơ cấu ngành kinh tế của Ninh Bình là: ngành công nghiệp, xây dựng là
38,2%; nông, lâm, thủy sản 29,2; dịch vụ là 32,6%. So với hai tỉnh Nam Định, Hà Nam
(cũng là các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng) thì trong giai đoạn này, kết quả chuyển biến
của cơ cấu ngành kinh tế có những lĩnh vực nhanh hơn hẳn. Cụ thể, so với Nam Định thì
ngành công nghiệp, xây dựng ở Ninh Bình theo hướng công nghiệp hóa nhanh hơn hẳn.
Còn so với Hà Nam thì lĩnh vực dịch vụ, du lịch của Ninh Bình có sự chuyển biến nhanh
hơn. Điều này là tất yếu vì mỗi tỉnh lại có những tiềm năng và thế mạnh riêng, nếu biết
phát huy tốt sẽ mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội so với các tỉnh lân cận. Sự chuyển đổi
22


cơ cấu ngành kinh tế ở Ninh Bình cũng có nhiều tác động tích cực đến sự phát triển kinh
tế, xã hội trong tỉnh. Giai đoạn 2006 - 2012, cơ cấu ngành kinh tế có sự chuyển biến mạnh
mẽ nhất, tạo ra những đột phá chưa từng có theo hướng tăng khá cao về tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ. Sự chuyển biến về cơ cấu ngành kinh tế hợp lý đã làm cho kinh tế của
tỉnh Ninh Bình liên tục tăng trưởng khá, đặc biệt là có sự đột phá về chuyển biến cơ cấu
kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Sản xuất công nghiệp ngày càng
phát triển trở thành động lực chính để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các ngành

thương mại, dịch vụ cũng đang trên đà phát triển trong đó du lịch đang trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đặc biệt là sản xuất
lương thực đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và
ngày càng nhiều sản phẩm hàng hoá, có giá trị cao. Những thế mạnh, tiềm năng của tỉnh
đã được bộc lộ rõ và được phát huy mạnh mẽ.
4.3. Nền kinh tế nhiều thành phần phát triển mạnh mẽ với cơ cấu các thành
phần kinh tế ngày càng đa dạng, phù hợp với tình hình địa phương
Cơ cấu thành phần kinh đã có sự chuyển biến lớn. Nếu như trước đây, ở giai đoạn
mới tái lập tỉnh, thành phần kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng thấp nhất, thành phần kinh tế
tập thể và kinh tế cá thể chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu GDP trên địa bàn tỉnh thì đến năm
2012, kinh tế tư nhân đã vươn lên cùng với thành phần kinh tế cá thể đóng góp tỷ lệ lớn nhất
trong cơ cấu GDP trên địa bàn tỉnh. Đây là một cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp với tình
hình kinh tế, xã hội của Ninh Bình khi khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn đang thu hút phần
lớn lao động. Kinh tế nhà nước được tổ chức sắp xếp lại, phần lớn các doanh nghiệp trong
tỉnh đã được tiến hành cổ phần hóa hoặc giao khoán cho người lao động nhằm đảm bảo cho
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Trên thực tế, cơ cấu các thành phần kinh
tế có sự đan xen trong từng ngành, từng vùng, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Trong công
nghiệp, kinh tế Nhà nước vẫn giữ được vai trò chủ đạo qua việc nắm giữ các ngành trọng yếu,
kinh tế tư nhân phát triển mạnh ở những lĩnh vực công nghiệp mà Nhà nước không cần thiết
nắm giữ phần vốn chi phối, kinh tế cá thể tạo ra các sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn,
thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất những loại hàng hóa có hàm lượng
công nghệ cao. Trong du lịch, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân nắm giữ
những cơ sở du lịch, khách sạn lớn, các hộ cá thể tham gia vào dịch vụ vận chuyển du lịch,
các nhà hàng nhỏ và một số dịch vụ du lịch khác...
4.4. Cơ cấu vùng kinh tế phát triển hài hòa với những thế mạnh, đặc trưng
vùng ngày càng rõ nét
Từ năm 1992 đến năm 2012, cơ cấu vùng kinh tế của tỉnh Ninh Bình dần dần có sự
chuyển biến theo hướng hình thành những vùng động lực phát triển, vùng chuyên canh,
các khu, cụm công nghiệp. Vùng sản xuất nông nghiệp trải khắp các huyện, thị xã trong
tỉnh nhưng chủ yếu là ở phía Đông Nam và Tây Nam của tỉnh, ở những khu vực này đã

23


×