Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Học thuyết giá trị thặng dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 18 trang )

BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

Tp.HCM, Tháng 3/2017


T

rong toàn bộ học thuyết của C.Mác thì học thuyết giá trị thặng dư được Lênin đánh giá là
“viên đá tảng của học thuyết kinh tế C.Mác”. Điều đó cho chúng ta thấy vai trò ý nghĩa to
lớn của học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác
khẳng định rõ cả luận cứ về mặt lý thuyết và luận cứ về mặt thực tế, mang ý nghĩa khoa học sâu
sắc, đã giải thích được trọn vẹn nhất, cho phép giải thích được những hạn chế của các nhà kinh tế
trước C.Mác.
Chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp
hóa – hiện đại hóa. Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Đảng và Nhà nước ta cần vận dụng tốt
nhiều học thuyết kinh tế trong đó có học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Tiểu luận đề tài “Học
thuyết giá trị thặng dư và sự cống hiến của C.Mác, liên hệ thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” sẽ
mang lại ý nghĩa thiết thực về cả phương diện lý luận và giá trị thực tiễn.

1. Mục tiêu nghiên cứu tiểu luận:

Tiểu luận nhằm đạt được các mục tiêu sau đây:
 Làm sáng tỏ những lý luận cơ bản liên quan đến học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
 Liên hệ thực trạng ở Việt Nam liên quan đến học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

 Đối tượng nghiên cứu: học thuyết trước C.Mác, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác, học
thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
 Phạm vi nghiên cứu: tiểu luận có liên hệ đến thực tiễn trong phạm vi ở Việt Nam.



3. Phương pháp nghiên cứu:

 Tiểu luận đã sử dụng phương pháp mô tả: để mô tả các khái niệm, tính chất đặc điểm của học
thuyết giá trị thặng dư.
 Tiểu luận đã sử dụng phương pháp phân tích: để phân tích các ưu điểm và hạn chế của học
thuyết giá trị thặng dư trước C.Mác, phân tích học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
 Tiểu luận đã sử dụng phương pháp: tham khảo, thu thập ý kiến của các nhà khoa học, các
nhà kinh tế, tham khảo tài liệu sách báo mạng internet…

4. Hạn chế của tiểu luận:

Trong quá trình làm tiểu luận, nhóm tiểu luận cũng gặp phải những khó khăn nhất định:
Xuất phát từ nhiều vấn đề thực tiễn ở nước ta liên quan đến đề tài nên một số vấn đề thực tiễn
có thể nhóm chưa đề cập đến trong tiểu luận.

5. Kết cấu của tiểu luận:

Phần I:Học thuyết giá trị thặng dư
Phần II: Ý nghĩa và sự vận dụng thuyết giá trị thặng dư ở Việt Nam hiện nay

-1-

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


1.1 Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản
1.1.1 Công thức chung của tư bản
Theo Các Mác thì tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức: H – T H (Hàng - Tiền - Hàng) còn tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì theo công thức: T - H T’ (Tiền - Hàng - Tiền).
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H - T tức là Hàng - Tiền) và

kết thúc bằng hành vi mua (T - H tức là Tiền - Hàng), ngoài ra điểm xuất phát và điểm kết thúc
đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là
giá trị sử dụng. Trong khi đó, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T - H tức Tiền Hàng) và kết thúc bằng hành vi bán (H - T’ tức Hàng - Tiền'); tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là
điểm kết thúc, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian. Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị,
và giá trị tăng thêm.
Như vậy thì tư bản phải vận động theo công thức T-H-T’ để có giá trị mới. T' (tức là Tiền
sau một vòng lưu thông sẽ được tính bằng công thức: T’ = T + ΔT, trong đó: ΔT là số tiền trội
hơn được gọi là giá trị thặng dư. Còn số tiền ứng ra ban đầu (Tiền ban đầu dùng để mua hàng ở
đầu chu trình lưu thông này) với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư bản và tiền chỉ
biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. Vì vậy sự vận động của tư bản cũng không có
giới hạn. Mác gọi công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản, với T’ = T + m
1.1.2 Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Tư bản vận động theo công thức T-H-T’ trong đó T’ = T + t.
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá cũng không tạo ra giá trị mới
và do đó không tạo ra giá trị thặng dư. Nếu mua - bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái
của giá trị từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị trong tay mỗi người
tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tiền không lớn lên, do đó giá trị không tăng
thêm.
Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn
giá trị thực của hàng hóa nhưng cũng không làm tăng giá trị thặng dư vì tính chung tổng thể
trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người mua. Cái lợi
mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua hoặc ngược lại. Trong trường hợp có những kẻ
chuyên mua rẻ, mua may, bán đắt hay lừa lọc, ép giá, nói thách, nói xạo để được lợi thì chính bản
thân người thực hiện hành vi đó được lợi nhưng tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên,
bởi vì số giá trị mà những người này thu được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị
của người khác. Như vậy trao đổi không ngang giá thì giá trị không tăng thêm
Xem xét nhân tố tư bản ngoài lưu thông đồng nghĩa với việc không có sự tiếp xúc giữa
tiền- hàng. Nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông ví dụ như đem chôn, cất, dấu, tích
trữ, tàng trữ, không đầu tư gì cả.... thì cũng không thể làm cho tiền của mình tăng thêm lên được

, sẽ không có hiện tượng lãi mẹ đẻ lãi con. Mặt khác nếu hàng không được đưa vào lưu thông
nghĩa là hàng sẽ dùng trực tiếp vào sản xuất hoặc tiêu dùng thì cũng không làm tăng giá trị thặng
dư được. Cụ thể, khi hàng dùng vào sản xuất thì giá trị của nó sẽ dịch chuyển vào sản phẩm. Còn
khi hàng dùng vào tiêu dùng cá nhân thì cả giá trị và giá trị sử dụng cũng mất đi.
Như vậy, cả trong lẫn ngoài lưu thông xét tất cả các nhân tố thì T không tăng thêm.Nhưng
nhà tư bản không thể vận động ngoài lưu thông, có nghĩa là nhà tư bản phải tìm thấy trên thị
trường mua được một thứ hàng hoá (trong lưu thông ) nhưng nhà tư bản không bán hàng hoá
đó, vì nếu bán cũng không thu được gì. Nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá đó (ngoài lưu thông) tạo
ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó - hàng hoá đó là sức lao động. Trong quá trình lao

-2-

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra
so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.
Thông qua hàng hóa sức lao động này mà tạo ra sự chuyển hóa trong lưu thông, tạo ra giá
trị mới, theo đó công thức T - H - T' có thể được hiểu là: T là tư bản, là số tiền đầu tư ban đầu,
trong đó một phần sẽ đầu tư vào để mua máy móc, nhà xưởng, một phần mua nguyên liệu và
một phần thuê nhân công, H chính là hàng hóa sức lao động, thông qua sức lao động của con
người sẽ tác động vào máy móc, vật liệu để tạo nên những H (hàng hóa) có giá trị cao hơn so với
giá trị ban đầu và nhà tư bản chỉ việc chiếm đoạt H này và bản để thu về T' (giá trị mới cao hơn
và đã bao hàm trong đó là giá trị thặng dư).
Như vậy công thức đầy đủ có thể viết:
Sức lao động
T - H.....sản xuất hàng hoá ...H’ - T’
TLSX
Như vậy thì mâu thuẫn của công thức chung là: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông


và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng
thời không phải trong lưu thông”.

1.1.3 Hàng hóa sức lao động
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (gồm thể lực và trí lực) tồn tại trong một con
người và được người đó sử dụng vào sản xuất.
Trong mọi xã hội, sức lao động cũng đều là điều kiện cần thiết để sản xuất, nhưng sức lao
động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
 Người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình và
chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
 Người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản xuất
nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
Sự tồn tại đồng thời 2 điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức lao
động biến thành hàng hoá báo hiệu một giai đoạn mới trong sự phát triển xã hội: giai đoạn sản
xuất hàng hoá trở thành phổ biến, đó là sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Hàng hoá sức lao
động là nhân tố tách chủ nghĩa tư bản ra khỏi sản xuất hàng hoá giản đơn. Như vậy, sức lao động
biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để chuyển hoá tiền tệ thành tư bản.
Sức lao động là hàng hoá đặc biệt: Sức lao động phải là hàng hoá và giống hàng hoá
thông thường khác nhưng có tính đặc biệt. Trong quan hệ mua bán, chỉ bán quyền sử dụng chứ
không bán quyền sở hữu và có thời gian nhất định. Trong mua bán chịu: Giá trị sử dụng thực hiện
trước, giá trị thực hiện sau. Vì sức lao động phải bán trong mọi điều kiện - mua bán trong mọi
điều kiện để sinh sống.
Cũng như hàng hóa khác thì hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử
dụng.
Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như hàng hoá thông thường, lượng giá trị sức lao
động cũng được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao
động. Nhưng khác hàng hoá thông thường vì sức lao động là năng lực (khả năng) tồn tại trong cơ
thể sống của con người, để tái sản xuất ra năng lực đó người công nhân phải tiêu dùng một khối
lượng sinh hoạt nhất định để thực hiện nhu cầu tái tạo sức lao động. Như vậy lượng giá trị sức
lao động được đo lường gián tiếp bằng lượng giá trị sinh hoạt.

Yếu tố cấu thành giá trị sức lao động:
+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cho bản thân người công nhân
+ Giá trị tư liệu sinh hoạt cho gia đình anh ta
+ Chi phí đào tạo
Sự vận động của lượng giá trị sức lao động (tăng và giảm): Nhân tố làm tăng là do chí phí
đào tạo tăng, do đòi hỏi của cách mạng khoa học kỹ thuật. Nhân tố làm giảm lượng giá trị sức lao
động: do giá trị tư liệu sinh hoạt giảm và năng suất lao động của ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt

-3-

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


tăng.
Giá trị sức lao động đặc biệt khác hàng hoá thông thường: nó mang yếu tố tinh thần và
lịch sử. Con người sống trong những điều kiện kinh tế cụ thể ngoài nhu cầu vật chất còn có nhu
cầu tinh thần.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động: cũng giống như hàng hoá khác đó là giá trị sử
dụng cũng được thể hiện khi tiêu dùng. Nhưng nó khác ở chỗ nhà tư bản tiêu dùng sức lao động
của công nhân và bắt công nhân lao động kết hợp với tư liệu sản xuất để tạo ra hàng hoá. Trong
quá trình lao động đó người công nhân đã tạo ra một giá trị mới (v + m ). Trong đó có một bộ
phận ngang bằng với giá trị sức lao động của người công nhân nhà tư bản dùng để trả lương cho
người công nhân đó (đó là v), còn một bộ phận dôi ra ngoài bộ phận sức lao động (m) nhà tư bản
chiếm không.
Như vậy, có thể nói rằng giá trị sức lao động khi nhà tư bản tiêu dùng nó tạo ra một giá trị
mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Hay nói cách khác: Giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hoá sức lao
động là nguồn gốc của giá trị và giá trị thặng dư.
1.2 Qúa trình sản xuất giá trị thặng dư
1.2.1 Sản xuất giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư được C.Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền nhà tư

bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất
gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên,
người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản
trả cho người lao động. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư. Tức là sản lượng của hàng hóa làm
ra có giá trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho công nhân và mức chênh lệch đó chính là
giá trị thặng dư.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc
trưng:
 Công nhân làm việc dưới sự điều khiển của nhà tư bản như là một bộ phận của tư bản và
được nhà tư bản sử dụng với hiệu quả cao nhất.
 Sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của nhà tư bản chứ không phải của công nhân.
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
1.2.2 Bản chất của tư bản và sự phân chia tư bản (Tư bản bất biến và tư bản khả
biến)
1.2.2.1 Bản chất của tư bản
Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được
dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xoá bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là
tư bản nữa.
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Đó là một định nghĩa rất chung về tư bản,
nó bao trùm cả tư bản cổ xưa lẫn tư bản hiện đại. Nhưng sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất
giá trị thặng dư, có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách
bóc lột công nhân làm thuê. Như vậy bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà
trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
1.2.2.2. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức
lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất, thành các hình thức
tồn tại khác nhau của tư bản sản xuất. Trước hết, xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư
liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất có nhiều loại, có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản
xuất, nhưng chỉ hao mòn dần, do đó chuyển dần từng phần giá trị của nó vào sản phẩm như máy

móc, thiết bị, nhà xưởng..., có loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó trong
một chu kỳ sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu. Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất nào
cũng đều do lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên

-4-

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


giá trị đó không thể lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái
bị tiêu dùng của tư liệu sản xuất là giá trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một giá
trị sử dụng mới. Giá trị tư liệu sản xuất được bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không
phải là được sản xuất ra.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá đã giúp C.Mác xác
định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Sự phân chia đó dựa vào vai trò khác
nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư, do đó nó vạch rõ bản
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị
thặng dư cho nhà tư bản.
Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được
bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
Tư bản bất biến gồm máy móc, nhà xưởng, nguyên nhiên vật liệu. Giá trị của chúng được bảo
tồn và chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm.Giá trị tư liệu sản xuất được bảo tồn dưới
hình thức giá trị sử dụng mới.
Tư bản khả biến là bộ phận tư bản ứng trước dùng để mua hàng hóa sức lao động không
tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng, người công nhân làm thuê đã sáng tạo ra một
giá trị mới, lớn hơn giá trị của sức lao động, tức là có sự biến đổi về số lượng. Tư bản khả biến
tồn tại dưới hình thức tiền lương.
Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa giúp C.Mác tìm ra chìa
khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản khả biến và tư bản bất biến. Sự phân chia đó vạch rõ
nguồn gốc của m, chỉ có bộ phận tư bản khả biến mới tạo ra giá trị thặng dư, còn tư bản bất biến

chỉ là điều kiện cần thiết để tiến hành sản xuất. Sự phân chia đó cũng cho thấy vai trò của mỗi bộ
phận tư bản trong việc tạo ra giá trị hàng hóa. Giá trị của hàng hóa gồm (c+v+m)Tư bản bất biến
là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến
có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.
1.2.3 Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư (m') là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị thặng dư (m) với tư
bản khả biến (v) và được tính bằng công thức:
𝑚
𝑚′ =
𝑥 100%
𝑣
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư còn có dạng:
𝑡′
𝑚′ = 𝑥100%
𝑡
Trong đó: t là thời gian lao động tất yếu
t' là thời gian lao động thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm
thuê.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được trong
một thời gian sản xuất nhất định và được tính bằng công thức:
M = m' . V
Trong đó: V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên.
Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m' và V. Chủ nghĩa tư bản càng
phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng.
1.2.4 Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
1.2.4.1 Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài tuyệt đối ngày lao động
trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không đổi. Việc kéo dài ngày lao động không thể vượt
quá giới hạn sinh lý của công nhân (vì họ còn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục

hồi sức khoẻ) nên gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm. Theo
chủ nghĩa Mác-Lenin thì vì lợi nhuận, khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư

-5-

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


bản tìm cách tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng
tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao
động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản khi còn
dựa trên lao động thủ công.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ chia thành:
- Thời gian lao động cần thiết là 4 giờ
- Thời gian lao động thặng dư là 4 giờ
4
Tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = *100% = 100%
4
Sản xuất m tuyệt đối bằng cách kéo dài thời gian lao động thành 10 giờ trong khi thời gian
lao động cần thiết là 6 giờ
4
Tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = *100% = 150%
6
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động.
Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất
và tinh thần của người lao động quyết định, còn giới hạn dưới của ngày lao động là thời gian lao
động cần thiết.
Như vậy về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động cần thiết nhưng
không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Độ dài cụ thể của ngày

lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết
định. Do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nên chế độ ngày làm 8 giờ đã được thực hiện ở
các nước tư bản chủ nghĩa.
1.2.4.2 Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động cần
thiết, kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động
không đổi.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ chia thành:
- Thời gian lao động cần thiết là 4 giờ
-Thời gian lao động thặng dư là 4 giờ
4
Tỷ suất giá trị thặng dư là m’= *100%= 100%
4
Sản xuất giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết còn 2 giờ. Thời
gian lao động thặng dư là 6 giờ.
6
Tỷ suất giá trị thặng dư là m’= *100%= 300%
2
Bằng cách nào để rút ngắn thời gian lao động cần thiết, biết rằng thời gian lao động cần
thiết bằng giá trị tạo ra sức lao động, bằng giá trị tư liệu sinh hoạt. Muốn rút ngắn giá trị lao
động cần thiết hạ thấp giá trị sức lao động, hạ thấp giá trị tư liệu sinh hoạt bằng cách tăng năng
suất lao động trong ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt. Khi đã có nền sản xuất công nghiệp thì có
sự kết hợp cả hai phương pháp trên.
Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là giá trị thặng dư thu được ngoài mức trung bình do tăng
năng suất lao động cá biệt, hạ thấp giá trị cá biệt so với giá trị xã hội.
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ sở chung, đó là đều
dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động nên giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là biến tướng cuả giá
trị thặng dư tương đối. Tuy vậy giữa chúng vẫn có sự khác nhau. Đó là giá trị thặng dư tương đối
dựa trên năng suất lao động xã hội còn giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên năng suất lao động
cá biệt. Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ

kỹ thuật mới được áp dụng cá biệt trở thành được áp dụng phổ biến. Vì vậy giá trị thặng dư siêu
ngạch mang tính chất tạm thời. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của

-6-

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


giá trị thặng dư tương đối. Sự khác nhau giữa chúng còn thể hiện ở chỗ: giá trị thặng dư tương
đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được. Nó biểu hiện sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa
tư bản được áp dụng rộng rãi. Xét về mặt đó thì nó thể hiện quan hệ của giai cấp công nhân và
toàn bộ giai cấp các nhà tư bản.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là mục đích trực tiếp cạnh tranh mà mỗi nhà tư bản cố gắng
đạt được trong cạnh tranh với các nhà tư bản khác. Xét về mặt này, giá trị thặng dư siêu ngạch
không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa công nhân làm thuê và nhà tư bản mà còn thể hiện mối
quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau. Như vậy giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp
mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao
động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị của hàng hoá.
1.2.5 Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản
Có thể thấy vì giá trị thặng dư là cội nguồn sinh ra sự giàu có, sung túc vì xuất hiện giá trị
mới, nên để duy trì và phát triển sự giàu có, dôi dư này, giai cấp tư sản có xu hướng không
ngừng sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, sản xuất với quy mô ngày càng lớn hơn
trước. Những lợi tức, tiền bạc thu được đều được đưa vào tái đầu tư, tái sản xuất, thuê mua
nguyên vật liệu nhà xưởng để vận hành tạo giá trị thặng dư.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản vì nó quy định
bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản.
Không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản. Ở đâu có sản xuất giá trị thặng
dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị
thặng dư. Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực thường xuyên

của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát
triển của chủ nghĩa tư bản đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng
sâu sắc. Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản: Mâu
thuẫn giữa tư bản và lao động; mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với mục đích là thu
được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với nhau, tiêu diệt lẫn
nhau để có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn.
Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính
chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng
gay gắt.

-7-

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


2.1 Thực tiễn Hàng hóa sức lao động ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay sức lao động là hàng hóa vì :
 Hàng hóa sức lao động là khái niệm phạm trù chịu sự chi phối của văn hóa lịch sử.
 Lý thuyết lợi thế so sánh cho phép ta chọn cách tốt nhất.
 Hàng hóa sức lao động gắn liền với kinh tế thị trường.
 Trong thực tiễn :
Đối với nhà nước thì nhà nước cần phải ban hành đầy đủ luật pháp, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho cả người lao động và người sử dụng lao động.
Đối với doanh nghiệp: doanh nghiệp phải quan tâm đến người lao động, tiền lương phải
cho người lao động đủ sống, có biện pháp kế hoạch bố trí phân công lao động hợp lý, tổ chức lớp
học nâng cao tay nghề, tuyên truyền pháp luật.
Đối với người lao động: người lao động phải không ngừng học tập nâng cao kiến thức để

tăng khả năng cạnh tranh so sánh, đòi hỏi học tập suốt đời.
Hiện nay nước ta đang thuộc thời kỳ dân số vàng vì 40% dân số có số tuổi từ 60 tuổi trở
lên, do đó nhà nước ta đang khuyến khích nên duy trì dân số ở mức sinh thấp hợp lý để đáp ứng
được nguồn lao động cho xã hội. Cơ cấu dân số vàng là thách thức nhiều hơn cơ hội, đặt ra
những thách thức gay gắt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời gian tới, đó là
các vấn đề trong việc tạo công ăn việc làm, bảo hiểm xã hội, an ninh trật tự, an ninh lương thực,
chăm sóc sức khỏe cộng đồng, giáo dục…
2.2 Thực tiễn vấn đề “sản xuất giá trị thặng dư” ở Việt Nam
Sản xuất giá trị thặng dư là phạm trù bị chi phối bởi văn hóa lịch sử xã hội, là sản phẩm
gắn liền với kinh tế thị trường. Nếu không có sản xuất giá trị thặng dư thì sẽ không có tích lũy tư
bản sẽ không có tái sản xuất mở rộng khi đó kinh tế xã hội sẽ trì trệ không phát triển.
Chiếm đoạt giá trị thặng dư là động lực thúc đẩy các nhà tư bản doanh nghiệp hăng hái
tham gia sản xuất,bên cạnh đó cũng do theo đuổi giá trị thặng dư đưa đến mâu thuẫn đối kháng
giữa hai giai cấp công nhân và nhà tư bản. Hiện nay việc chiếm đoạt giá trị thặng dư mang tính
toàn cầu, ở Việt Nam vấn đề đặt ra vai trò của nhà nước trong nền kinh tế hàng hóa giải quyết
mâu thuẫn giữa tăng trưởng cao và công bằng xã hội, nếu tăng trưởng cao thì đưa đến sự bất
bình đẳng còn nếu công bằng xã hội thì xã hội trì trệ, chậm phát triển. Do đó vai trò của nhà
nước là phải vừa kích thích tăng trưởng vừa đảm bảo công bằng xã hội, đòi hỏi phải có chế độ xã
hội ưu việt.
2.3 Sự vận dụng học thuyết giá trị thặng dư đối với công cuộc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Hiện nay, Việt Nam chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trên
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu đạt được, thì vẫn còn không ít
những khó khăn, trở ngại, do đó trở thành trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch trong
và ngoài nước. Những người có tư tưởng đối lập đã lập luận rằng: xây dựng CNXH mà lại thực
hiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, thực hiện chính sách mở
cửa, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển tức là ở Việt Nam thừa nhận lý luận giá trị thặng dư
và toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phá sản. Những người có “thiện chí” hơn thì tỏ ra “khách
quan” và cho rằng: lý luận giá trị thặng dư của Mác ra đời từ thế kỷ XIX, vào lúc CNTB còn đang
là CNTB “cổ điển”, còn nhiều tính chất hoang dã, thiếu tính nhân văn, là sản phẩm của văn minh

cơ khí; ngày nay bước sang thời kỳ mới - thời kỳ hậu công nghiệp thì lý luận giá trị thặng dư của
Mác đã hết sứ mạng lịch sử và không còn phù hợp nữa

-8-

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


Khi nghiên cứu, vận dụng học thuyết giá trị thăng dư vào sự phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phải quán triệt tư tưởng của Mác, đó là: phải
đặt trong mối quan hệ giữa cái “bất biến” và cái “khả biến” trong việc nghiên cứu lý luận giá trị
thặng dư. Cái bất biến chính là tính khoa học bền vững của lý luận giá trị thặng dư, nhưng tính
khoa học đó cần phải được vận dụng sáng tạo và phải đặt trong những điều kiện lịch sử nhất định
của thực tiễn sinh động (tức là cái khả biến). Hay như Lênin đã căn dặn rằng: Chúng ta không hề
coi lý luận của Mác như là cái gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng
lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phát triển
hơn nữa mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Như vậy chính những
người sáng lập và đặt nền móng cho sự tồn tại của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng đã chỉ dẫn và nhắc
nhở chúng ta cần phải nghiên cứu, xem xét, bổ sung, hoàn chỉnh chủ nghĩa Mác nói chung, lý
luận giá trị thặng dư nói riêng cho phù hợp với những điều kiện, những mối quan hệ hiện thực cụ
thể, chứ không phải vận dụng nó một cách máy móc, khô cứng hay để phê phán, phủ nhận nó…
Như vậy, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến khích phát triển kinh tế
tư nhân ở Việt Nam hiện nay không hề phủ nhận lý luận giá trị thặng dư, mà ngược lại, lý luận giá
trị thặng dư của Mác vẫn giữ nguyên giá trị.
Đồng thời, nghiên cứu vận dụng Học thuyết giá trị thặng dư vào phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần chú ý một số vấn đề sau đây:
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ
bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Bởi lẽ
trong thời kỳ quá độ quan hệ sản xuất cũ chưa bị thủ tiêu hoàn toàn và quan hệ sản xuất mới
chưa thể chiến thắng toàn diện. Do vậy, càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta

càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó
Hai là, phải biết khai thác những di sản lý luận của học thuyết giá trị thặng dư để đẩy
mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Học thuyết giá trị thặng dư
của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu lịch sử nền sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nền kinh
tế hàng hóa phát triển cao dưới chủ nghĩa tư bản. Cho nên chính C. Mác chứ không phải ai khác,
là một trong những nhà nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Mặc dù nền kinh tế hàng hóa ở
nước ta có tính đặc thù của nó (sản xuất nhỏ, đang từng bước vươn lên sản xuất lớn…), song đã
là kinh tế hàng hóa thì ở đâu cũng đều có tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng
dư. Cho nên việc nghiên cứu những công cụ, chính sách làm tăng gía trị và giá trị thặng dư cho
xã hội tư bản có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn to lớn đối với phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt là nghiên cứu 2 phương pháp bóc lột giá trị
thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản mà C. Mác đã chỉ ra để từng bước áp dụng, đổi mới khoa học
công nghệ, đào tạo và đào tạo lại tay nghệ người lao động.. .từng bước nâng cao năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm, để hàng hóa nước ta đủ sức cạnh tranh trên thị trường cả trong và
ngoài nước vươn lên phát triển nền kinh tế hàng hóa lớn.
Ba là, trong đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước hiện nay, để thực
hiện mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta cần khuyến
khích các thành phần kinh tế phát triển, theo phương châm: ai làm giàu hợp pháp thì được xã hội
thừa nhận và tôn vinh, ai làm giàu bất hợp pháp thì bị xử phạt thông qua các công cụ, chế tài và
pháp luật của Nhà nước. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc
lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt
chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt chống thất thu thuế, mặt khác bảo
đảm sự “công bằng” thông qua điều tiết thu nhập xã hội thông qua các "kênh" phân phối lại ,
nhất là sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các quỹ phúc lợi xã hội của cả chính phủ và các tổ chức,
các nhân phi chính phủ trong và ngoài nước.
Bốn là, khai thác giá trị lý luận của C. Mác nói về quá trình tổ chức sản xuất và tái sản
xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với quá trình xã hội hóa ngày

-9-


Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


càng cao nhằm tạo ra khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn. Trên cơ sở những gì được coi là
tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên, đặc biệt là về mặt tổ chức- kinh tế, vận dụng vào phát triển
nền kinh tế nước ta thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy nhanh quá trình xã hội
hóa sản xuất theo hướng sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư, để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội.
2.4 Liên hệ tư bản thương nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Thương nghiệp Việt Nam, vốn ra đời và tồn tại từ lâu, đã được đặt vào một hoàn cảnh
thuận lợi để phát triển và đóng góp cho nước nhà. Thương nghiệp Việt Nam phải gắn liền với
truyền thống thương mại Việt Nam và là một thuộc tính tất yếu của đời sống xã hội. Với lợi thế về
giao thông cả về đường thuỷ lẫn đường bộ, cũng như nhu cầu tự thân của đời sống, các hoạt
động thương mại xuất hiện rất sớm trong văn hóa Việt Nam. Các dấu vết khảo cổ tại di chỉ văn
hóa Đông Sơn, Óc Eo, đều phát hiện những sản phẩm mang dấu tích nước ngoài. Và ngược lại,
các nhà khoa học cũng đã phát hiện nhiều sản phẩm của Việt Nam ở nước ngoài.
Trong xã hội phong kiến,thương nghiệp không được coi trọng, tầng lớp thương nhân bị xếp
vào thứ hạng cuối cùng theo thứ tự SĨ, NÔNG, CÔNG, THƯƠNG. Các nhà nước phong kiến Việt
Nam, vì nguồn gốc kinh tế chính trị xã hội của mình đã phải ức thương, coi trọng nông nghiệp để
duy trì sự ổn định. Các thế hệ người Việt Nam ý thức rất rõ "Phi thương bất phú, phi công bất
hoạt, phi trí bất hưng và phi nông bất ổn" (tức là không buôn bán thì không giàu có được, không
làm nghề thủ công công nghiệp thì xã hội không năng động, không có kiến thức thì không hưng
thịnh, không có nông nghiệp thì không ổn định). Song vì muốn duy trì sự ổn định, nên nhà nước
phong kiến chỉ cho phép một thứ phát triển, đó là nông nghiệp, nhằm phục vụ cho quyền lực
chính trị của mình. Trên thực tế, bản thân nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông vẫn có nhu cầu
trao đổi, buôn bán. Nhiều ngôi chợ đã được mọc lên nhằm giải quyết nhu cầu ấy. Buôn bán ngoại
thương thời kỳ đó cũng dần phát triển.
Tất nhiên, trên nền tảng kinh tế tiểu nông, đặc biệt là sự kìm hãm có ý thức của chính

quyền phong kiến trung ương thì thương mại không thể phát triển mạnh. Sự may rủi trong buôn
bán vốn đã lớn, thì trong chế độ phong kiến tập quyền lại càng lớn hơn. Một loạt hệ thống hạch
sách, ngăn sông cấm chợ, hệ thống tuần ti mọc lên khắp triền sông. Người kinh doanh luôn đối
mặt với nguy cơ mất cả vốn lẫn lãi. Chính quyền phong kiến, mỗi lần muốn chứng tỏ sự quan tâm
phát triển kinh tế, lại cắt giảm tuần ti. Và đến khi cần tiền lại tăng cường lực lượng hạch sách này.
Đến cuối thế kỷ 19 đầu 20, khi thực dân Pháp hoàn thành xâm chiếm và bắt đầu khai thác,
xã hội Việt Nam bị phân hoá mạnh mẽ. Giai cấp tư sản ra đời, họ đầu tư vào kinh doanh, buôn
bán. Hàng loạt cuộc vận động cải cách, canh tân đất nước thời đó đều đề cao thương mại. Nhà
cải cách Nguyễn Trường Tộ đã đề xuất những việc cần làm ngay trong đó có ý tưởng dùng
thương mại, trao đổi buôn bán bên ngoài như một biện pháp quan trọng nhằm tích góp cho đất
nước. Cũng trong thời kỳ này, nhân vật nổi tiếng như Đặng Huy Chứ, được lệnh của triều đình đã
tự đi buôn ở nước ngoài và lập ra công ty Bình Chuẩn nhằm đưa ra giá trị chung để điều tiết hoạt
động thương mại của cả nước.
Như vậy, vào đầu thế kỷ 20, thương mại Việt Nam được đặt trong hoàn cảnh phát triển
mới, có sự tác động của tư bản phương tây, với điều kiện kinh doanh rộng rãi hơn song cũng
cạnh tranh gay gắt hơn. Nét đáng chú ý là hoạt động thương mại của Việt Nam thời ấy còn gắn
liền với tinh thần dân tộc, yêu nước. Họ kinh doanh để tạo vốn ra nước ngoài hoạt động. Điển
hình như ông vua đường thủy Bạch Thái Bưởi, với một đội thuyền vận tải hùng hậu, luôn đề cao
tinh thần dân tộc, kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng để cạnh tranh lại với giới tư sản phương tây
vốn có quá nhiều lợi thế. Hàng loạt nhà thương nghiệp khác, dù sớm hay muộn, đều gắn liền hoạt
động kinh doanh của mình với vận mệnh dân tộc. Và trong bối cảnh cạnh tranh bất bình đẳng
như vậy, sự thành công ban đầu của các doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 là đáng ghi nhận và
tôn vinh.

- 10 -

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


Thương mại Việt Nam thực sự lóe sáng và được tạo điều kiện phát triển khi cách mạng

thành công. Từ sau cách mạng tháng Tám, Đảng và nhà nước chủ trương xây dựng nền thương
nghiệp xã hội chủ nghĩa. Tuy còn non trẻ, lại phát triển trong điều kiện có chiến tranh nhưng nền
thương nghiệp mới đã có những đóng góp to lớn trong suốt thời kì chống thực dân Pháp và đế
quốc Mĩ.
Thành tựu lớn nhất có ý nghĩa chính trị - xã hội là Việt Nam đã chuyển hướng thương
nghiệp vào lợi ích của nhân dân, phục vụ kháng chiến. Theo đó, nền thương nghiệp được tổ chức
lại. Ngành nội thương bảo đảm luân chuyển hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong xã hội và chuyển
ra cho tiền tuyến. Ngành ngoại thương làm tròn nhiệm vụ trao đổi, tiếp nhận hàng hoá từ các
nước bạn, kịp thời đáp ứng tình hình kinh tế đất nước trong thời chiến. Hình ảnh các cô mậu dịch
viên trở thành thân quen đối với mọi người dân thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Tuy vậy, do hạn chế có tính lịch sử, thương nghiệp trước 1975 vẫn còn mang nặng cơ chế
tập trung, bao cấp. Từ sau 1975, khi cả nước chuyển sang giai đoạn xây dựng, phát triển và hoà
nhập vào kinh tế thế giới thì cơ chế đó bộc lộ rõ những nhược điểm của nó. Nhược điểm quan
trọng là quan hệ phân phối không phù hợp với trình độ sản xuất và lực lượng sản xuất hiện có
của chúng ta. Quá trình đẩy quan hệ sản xuất đi trước một bước khi lực lượng sản xuất chưa cho
phép đã làm cho nền thương nghiệp chựng lại và có chiều hướng tuột dốc. Thêm vào đó, hai
nhược điểm cơ bản của thương nghiệp truyền thống (GIAN và DỐI) vốn chưa được chú ý khắc
phục thì, nay lại có cơ hội trỗi dậy, đẩy nhanh sự suy thoái của thương nghiệp và cả nền kinh tế
nước nhà.
Từ sau đổi mới, thương nghiệp nước nhà đã có những chuyển biến tích cực. Đảng chủ
trương “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Để thực hiện được chủ trương đó, chúng ta
đang ra sức xây dựng những luật định cần thiết cho lĩnh vực kinh doanh và xây dựng hành lang
pháp lí để các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn ở Việt Nam hoạt
động có hiệu quả. Các điều luật về kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực thương nghiệp phải tập
trung vào việc hạn chế tối đa những nhược điểm có tính truyền thống của thương nghiệp Việt
Nam. Có như vậy, chúng ta mới giữ được chữ “TÍN” với khách hàng trong bối cảnh kinh tế nước

nhà đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Sự chiến thắng hoàn toàn của phương
cách kinh doanh khoa học, có đạo đức đối với lối làm ăn cẩu thả, gian dối là sự sống còn của nền
thương nghiệp Việt Nam trong thời kì hội nhập kinh tế thế giới. Điều này đòi hỏi hệ thống quản lí
nhà nước phải có thái độ kiên quyết, cứng rắn trong quá trình xử lí các sai phạm của gian thương
và những doanh nhân muốn nhanh chóng làm giàu bằng con đường bất chính.
 Qua hơn 20 năm đổi mới, thương nghiệp Việt Nam đã có diện mạo mới và từng bước
khẳng định đẳng cấp trong nền kinh tế thế giới. Việc khởi xướng phong trào tôn vinh doanh nhân
thành đạt đã tạo đà cho thương nghiệp phát triển đồng thời khuyến khích doanh nhân vươn lên
làm giàu một cách chính đáng. Các doanh nhân đã có nhiều đóng góp tích cực cho nền kinh tế
nước nhà. Trong thực tế, chính hiệu quả kinh doanh và những hoạt động xã hội của giới doanh
nhân đã làm thay đổi cách nhìn của xã hội về tầng lớp thương nhân nói chung. Do có sự thay đổi
cơ cấu thành phần kinh tế và vai trò của các thành phần kinh tế, trong xã hội hiện đại sẽ không
còn sự “xếp hạng” giai tầng như trước đây; và thương nhân với tư cách là những “chiến sĩ” trên
thương trường quốc gia và quốc tế, đã và đang được cả xã hội quan tâm, khuyến khích.
Có thể nói rằng, hiện nay, thương nghiệp đang từng ngày, từng giờ góp phần tích cực vào
quá trình làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tuy còn nhiều
vấn đề cần tháo gỡ nhưng, nhìn đại thể, thương nghiệp Việt Nam đã có những bước đi vững chắc
và đang tiếp tục phát triển trong một môi trường xã hội – chính trị có nhiều thuận lợi nhất so với
trước đây.

- 11 -

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


2.5 Liên hệ tư bản cho vay ở Việt Nam hiện nay
Ngành ngân hàng năm 2013 nhìn chung vẫn còn nhiều sóng gió. Nhưng so với năm trước,
tình hình hệ thống ngân hàng đã được cải thiện đáng kể.
Thời gian qua, dù lãi suất huy động liên tục giảm mạnh và không phải lúc nào cũng “kịch
trần”, cụ thể NHNN đã giảm 2% các mức lãi suất điều hành; giảm 3%/năm lãi suất cho vay ngắn

hạn với lĩnh vực ưu tiên; giảm 1% lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi và từ cuối tháng 6 cho
phép các tổ chức tín dụng (TCTD) tự ấn định lãi suất huy động kỳ hạn từ 6 tháng trở lên nhưng
người dân vẫn tiếp tục gửi tiền vào với kỳ hạn dài bởi đây vẫn là kênh đầu tư an toàn và hiệu quả
nhất so với các kênh đầu tư khác hiện nay. Tính đến cuối tháng 12/2013, tiền gửi VND của dân cư
vẫn tăng 15,61%. Các giải pháp tín dụng tiếp tục được điều hành linh hoạt hơn theo hướng “tái
tạo” đường cong lãi suất, mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của TCTD, phù hợp với
mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, đồng thời tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ
khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Nhờ
đó, cuối tháng 12/2013, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống gần sát mục tiêu 12%.
Cùng với điều chỉnh nhanh lãi suất, NHNN cũng sử dụng các công cụ cung tiền hợp lý như
thị trưởng mở, mua vào ngoại tệ… và tốc độ tăng trưởng tín dụng khớp với mục tiêu đề ra
(khoảng 12%) nên đã kiểm soát lạm phát khá thành công ở mức 6,04% - mức tăng thấp nhất
trong vòng 10 năm trở lại đây.
Dấu ấn quan trọng của ngành ngân hàng năm qua là sự ra đời của công ty quản lý tài sản
của các TCTD (VAMC). Sau thời gian dài chuẩn bị, ngày 9/7/2013, VAMC được thành lập, ngày
26/7/2013 NHNN tổ chức ra mắt VAMC và ngày 1/10/2013 VAMC bắt tay vào mua món nợ xấu
đầu tiên của Agribank.
VAMC ban đầu mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt. Trái phiếu này được TCTD mang lên
NHNN vay với lãi suất tái cấp vốn thấp hơn 2% so với lãi suất tái cấp vốn do NHNN quy định tại
từng thời điểm. TCTD được vay tái cấp vốn tối đa bằng 70% giá trị trái phiếu đặc biệt.
Bên cạnh sự ra đời của VAMC, các TCTD cũng đẩy mạnh tự giải quyết nợ xấu bằng nguồn
dự phòng, tái cơ cấu nợ theo Quyết định 780, đến nay tỷ lệ nợ xấu đã giảm còn 4,55% trên tổng
dư nợ, từ mức 4,73% vào tháng 10. Tốc độ tăng nợ xấu cũng đã chậm lại, chỉ còn 2,2%/tháng,
thay vì 3,91%/tháng trong năm 2012.
Việc xử lý nợ qua VAMC cũng đã có những tiến triển nhất định. Tính đến ngày 24/12,
VAMC đã mua được gần 32.000 tỷ đồng dư nợ gốc của gần 30 TCTD. Dự kiến, năm 2014 VAMC
sẽ mua khoảng 100-150 nghìn tỷ đồng. Nhờ nỗ lực của Chính phủ, NHNN cũng như sự quyết liệt
của từng TCTD trong việc xử lý nợ xấu, nên tỷ lệ nợ xấu đã giảm mạnh từ mức 8,86% tổng dư nợ
cuối năm 2012 xuống còn 4,55% đến tháng 11/2013
Quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ theo

đúng mục tiêu đã được Chính phủ cũng như NHNN xác định. Tuy nhiên, dù nhìn vào các con số
thì có thể thấy rằng nợ xấu đang giảm đi nhưng mức độ giảm thực tế ra sao thì vẫn chưa thể
đánh giá được, bởi việc xử lý nợ xấu phụ thuộc nhiều vào các điều kiện kinh tế vĩ mô và thị
trường, trong khi tiêu thụ hàng hoá còn chậm, năng lực tài chính và khả năng trả nợ của doanh
nghiệp còn thấp. Thị trường BĐS chậm phục hồi, TTTC trì trệ càng gây khó khăn cho việc bán, xử
lý TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ. Trong khi đó các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó
khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường BĐS luôn có độ trễ và cần phải có thời gian phát huy tác dụng.
Đã vậy, các giải pháp xử lý nợ xấu lại chưa được triển khai đồng bộ mà chủ yếu vẫn là TCTD tự
xử lý nợ xấu nên đã làm giảm mức độ lành mạnh tài chính, hiệu quả kinh doanh của TCTD trong
ngắn hạn. Cơ chế, chính sách xử lý TSBĐ còn nhiều rất vướng mắc, phức tạp, chậm được khắc
phục, hoàn thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho xử lý nợ xấu.
Bên cạnh đó, hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra sôi
động.
WesternBank sáp nhập với PVFC thành PvcomBank; nhóm nhà đầu tư mới mua 85% cổ
phần của TrustBank và đổi tên thành Ngân hàng Xây dựng Việt Nam; UOB của Singapore chính

- 12 -

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


thức tìm hiểu GPBank và có thể mua đứt ngân hàng này; HDBank mua công ty tài chính SGVF của
Pháp và sáp nhập DaiABank vào HDBank, nhiều ngân hàng đang tìm nhà đầu tư nước ngoài để
bán cổ phần như Sacombank, HDBank, MB, ABBank, SouthernBank…
Tháng 5/2013 gói 30.000 tỷ đồng cho vay hỗ trợ nhà ở mới ra đời. Gói này được kỳ vọng
sẽ giải cứu thị trường bất động sản. Tuy nhiên, thay cho dự báo giải ngân 15.000 - 17.000 tỷ
đồng ngay trong năm 2013, sau 6 tháng số tiền giải ngân chiếm chưa tới 2%, khiến gói này được
báo giới đánh giá thất bại trong năm 2013. Cái khó, chính là điều kiện cho vay được “siết” khá
chặt, quy trình quản lý còn quá chặt chẽ, từ chỗ xác nhận về diện tích nhà ở, thu nhập vào diện
được vay vốn... cộng thêm nhiều ngân hàng không nhiệt tình lắm với việc giải ngân này bởi khá

nhiều doanh nghiệp bất động sản muốn vay không còn khả năng trả nợ.
Bên cạnh việc cơ cấu cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều yếu tố bất cập
xuất hiện trong thời gian qua. Viện KSND tối cao đã “điểm danh” 10 đại án tham nhũng, trong đó
có 8 đại án liên quan tới lĩnh vực ngân hàng và đang được đưa ra xét xử.
Vụ đại án tham nhũng tại Công ty cho thuê tài chính II thuộc Agribank (ALC II) làm thất
thoát gần 532 tỷ đồng của Nhà nước được xét xử hồi tháng 11 với 2 án tử hình. Vụ Huỳnh Thị
Huyền Như và 22 đồng phạm chiếm đoạt hơn 4.900 tỷ đồng, vụ bầu Kiên cùng 6 đồng phạm gây
thiệt hại gần 1.700 tỷ đồng.
Bên cạnh xét xử các đại án, Cơ quan điều tra Bộ công an cũng đã bắt giữ hàng loạt các cán
bộ ngân hàng vì chiếm đoạt tài sản, lừa đảo, lợi dụng tín nhiệm… Điển hình như bắt lãnh đạo chi
nhánh của các ngân hàng ABBank, VDB, LienVietPostBank, Vietcombank, Sacombank… vì liên
quan đến công ty Phương Nam (cựu chủ tịch Phương Nam bỏ trốn sang Mỹ để loại khoản nợ hơn
1.500 tỷ đồng) hay một loạt cán bộ của Agribank vì làm giả hồ sơ, làm chứng từ khống chiếm
đoạt tài sản…
Việc các ngân hàng thay đổi nhân sự cấp cao là bình thường nhưng năm 2013 sự thay đổi
này lại diễn ra như một làn sóng ồ ạt.
Điển hình là VIB thay 2 Tổng giám đốc chỉ trong 3 tháng (nếu tính cả Quyền tổng giám đốc
thì thay đổi 3 lần); SCB, NamABank cũng thay Tổng giám đốc; Eximbank thay Tổng giám đốc và
một loạt nhân sự cấp cao khác sau khi nguyên Tổng giám đốc được bổ nhiệm làm Phó chủ nhiệm
UBGSTCQG; TrustBank thay đổi HĐQT; Vietcombank có tổng giám đốc mới sau khi tổng giám đốc
cũ lên làm phó Thống đốc; Techcombank thay CEO ngoại bằng một Tổng giám đốc nội…
Ngoài ra, làn sóng cắt giảm nhân sự cấp thấp và cấp trung cũng diễn ra ồ ạt. Trong năm,
ACB cắt giảm hơn 1.000 nhân sự, riêng quý 3 là hơn 700 người; Maritimebank tuyên bố giảm hơn
1.400 nhân sự; Eximbank có kế hoạch giảm 1.000 nhân sự; SHB giảm hơn 300 người;
Vietcombank giảm gần 200 nhân viên; nhiều ngân hàng thay nhân sự không làm được việc bằng
những người mới có trình độ nghiệp vụ tốt…Cùng với giảm nhân sự, năm 2013 nhiều ngân hàng
cũng cắt giảm lương của nhân viên từ 10 – 20% để tiết giảm chi phí hoạt động.
Nền kinh tế khó khăn, hàng tồn kho cao nên doanh nghiệp hạn chế vay vốn ngân hàng,
các doanh nghiệp không tiếp cận được vốn do điều kiện vay không đáp ứng thì hoạt động sa sút,
phá sản buộc các ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay khiến chênh lệch lãi suất huy động và cho

vay giảm xuống, tăng trưởng tín dụng thấp, giải quyết nợ xấu tăng cao và trích lập dự phòng đầy
đủ trong bối cảnh nợ xấu của các ngân hàng đều tăng khiến cho lợi nhuận của ngân hàng tiếp tục
lao dốc, có đến 17% tổ chức tín dụng lỗ trong năm 2013.
2.6 Thị trường chứng khoán ở Việt Nam và vận dụng học thuyết giá trị thặng dư vào
thực tiễn hoạt động TTCK
Sự hình thành và hoạt động của Thị trường Chứng khoán Việt Nam
Ngày 11/07/1998, Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức được khai sinh. Cùng
ngày, Thủ tướng Chính phủ cũng ký Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg thành lập Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Hai năm sau, vào ngày 28/07/2000, phiên giao dịch
đầu tiên với 2 mã cổ phiếu niêm yết đã chính thức được tổ chức tại Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán TP.HCM, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của Thị trường chứng khoán Việt Nam.

- 13 -

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


Đến nay đã có gần 100 công ty chứng khoán thành viên, 48 công ty quản lý quỹ,và hàng
trăm công ty niêm yết trên cả hai sàn. TTCK Việt Nam về cơ bản đã có các hoạt động tương tự
các TCKT khác trên thế giới. TTCK Việt Nam là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, hoạt
động chính của nó là nhằm huy động những nguồn vốn trong xã hội tập trung thành nguồn vốn
lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng
kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
TTCK Việt Nam là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán. Việc
mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi người mua
mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, còn thị trường thứ cấp là nơi diễn ra
sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Hàng hóa giao dịch trên TTCK bao gồm: các cổ phiếu, trái phiếu và một số công cụ tài
chính khác.
Thị trường chứng khoán thực hiện các chức năng chủ yếu sau:


Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế;

Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng;

Cung cấp khả năng thanh toán cho các chứng khoán;

Đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế;

Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.
Các hình thức của thị trường

Thị trường tập trung

Thị trường phi tập trung (OTC);
Vận dụng Giá trị thặng dư vào hoạt động thực tiễn của TTCK
TTCK là một bộ phận của nền kinh tế, thực hiện chức năng luân chuyển nguồn vốn từ đối
tượng thừa vốn sang đối tượng thiếu vốn, thực hiện chức năng tập trung nguồn vốn, tài trợ, thu
hồi vốn. Vì vậy, TTCK là một phần quan trọng trong quá trình luân chuyển Giá trị thặng dư
(GTTD) từ hoạt động sản xuất sang các chủ thể sở hữu vốn.
GTTD không thể xuất hiện trong lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu
thông. TTCK không là nơi tạo ra GTTD, nhưng là nơi giá trị thặng dư được luân chuyển thông qua
các hoạt động luân chuyển vốn, phân phối lại lợi nhuận trên TTCK.
Các hoạt động trên TTCK và mối liên hệ với GTTD:
 Phát hành cổ phiếu lần đầu: đây là hoạt động của công ty thực hiện bán cổ phiếu lần đầu
ra công chúng để tạo lập vốn chủ sở hữu. Đây là hoạt động góp vốn để đầu tư vào một công ty
của những người mua cổ phiếu, chỉ là hiện tượng tích lũy và đầu tư tư bản, chưa tạo ra và luân
chuyển GTTD.
 Phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu (cổ phiếu thưởng): là việc công ty cổ phần
dùng lợi nhuận tạo ra được để phát hành thêm cổ phiếu cho các cổ đông hiện hữu, nhằm duy trì

tỷ lệ vốn góp của họ tại công ty. Lợi nhuận của công ty có nguồn gốc từ GTTD xuất phát từ hoạt
động sản xuất kinh doanh. Đây chính là hoạt động chiếm dụng GTTD từ quá trình sản xuất của
người lao động, làm gia tăng nguồn vốn sở hữu của các nhà tư bản có vốn góp vào công ty.
 Mua cổ phiếu quỹ: là hoạt động của công ty nhằm mua vào hoặc bán ra cổ phiếu của chính
công ty mình, nhằm điều chỉnh tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của công ty hoặc điều chỉnh giá cổ phiếu
trên thị trường. Đây là hoạt động điều chỉnh lại cơ cấu vốn chủ sở hữu của công ty. Nguồn tiền
dùng để thực hiện hoạt động này có thể xuất phát từ lợi nhuận giữ lại, hoặc các nguồn quỹ khác
của công ty, có liên hệ mật thiết đến GTTD công ty đó tạo ra được.

Lợi nhuận từ trái phiếu:

o Nguồn trả lãi định kỳ: về bản chất, trái phiếu thể hiện khoản nợ mà người phát hành phải
trả cho cho người mua trái phiếu. Vì vậy, tiền lãi trả định kỳ của chủ sở hữu phát hành trái phiếu
cho người nắm giữ trái phiếu là việc trích một phần GTTD của người đi vay đối với người cho vay.
GTTD ở đây được luân chuyển tương tự như trong tư bản cho vay.

Lợi nhuận từ Cổ phiếu:

- 14 -

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


o Trả cổ tức: được trích một phần từ lợi nhuận tạo ra của công ty phát hành cổ phiếu, chính
là một phần của GTTD nhà tư bản thu được.
o Từ chênh lệch giá mua và bán cổ phiếu: đây là phần lợi nhuận không xuất phát từ GTTD,
mà là từ sự mua giá thấp và bán giá cao (hoặc ngược lại). Trong giao dịch này, có một chủ thể
thu lợi ích cao hơn và chủ thể khác mất đi lợi ích tương ứng.
3.7 Liên hệ tư bản địa tô ở Việt Nam hiên nay
Thông qua những lí luận về địa tô đã nghiên cứu ở trên , ta thấy địa tô tư bản chủ nghĩa là

sự bóc lột của chủ ruộng đất đối với công nhân nông nghiệp làm thuê. Nó tồn tại ở nhiều hình
thức: địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối, địa tô cây đặc sản, địa tô về đất xây dựng, địa tô về hầm
mỏ, địatô về bãi cá....Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
những lí luận địa tô đó được Đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn để
xây dựng đất nước giàu mạnh. Lí luận địa tô của Mác đã trở thành cơ sở khoa học để xây dựng
các chính sách thuế đối với nông nghiệp và các ngành có liên quan nhằm kích thích phát triển
nông nghiệp và các ngành trong nền kinh tế bằngvận dụng luật đất đai và ban hành các thông tư,
nghị định. Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do Nhà nước đại diện quản lí. Nhà
nước giao đất, rừng cho các tổ chức kinh tế , đơn vị vũ trang .. để sử dụng. ở đây thực hiện sự
tách rời giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng ruộng đất nhằm sử dụng tài nguyên của đất nớc
một cách hiệu quả. Để bổ sung cho nguồn nhân sách và thông qua ngân sách thực hiện một số
chính sách phát triển nông nghiệp những người thuê đất phải đóng thuế cho Nhà nước. Thuế này
khác xa với địa tô phong kiến và địa tô t bản chủ nghĩa vì thuế này tập chung vào ngân sách
mang lại lợi ích cho toàn dân, nó không mang bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa tô t
bản chủ nghĩa.....
Mặc dù luật pháp hiện hành đã có nhiều tiến bộ, đất đai được quản lý chặt chẽ hơn, chính
sách giao quyền sử dụng ổn định lâu dài cho nông dân, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, tuy
nhiên Luật Đất đai hiện tại vẫn còn nhiều bất cập. Trong đó nổi lên một số điểm hạn chế kềm
hãm sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn.
Cụ thể về phân loại đất, chưa có quy định quỹ đất phát triển làng nghề, dịch vụ kết cấu hạ
tầng nông thôn. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa quy định rõ việc phối hợp cũng như trách
nhiệm của ngành NN-PTNT liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông thôn. Việc giao đất có thời
hạn đến năm 2013 đối với đất trồng cây hằng năm khiến nông dân không yên tâm đầu tư, phát
triển lâu dài. Chính sách hạn điền hiện tại không khuyến khích nông dân tích tụ ruộng đất để phát
triển kinh tế trang trại, nhiều trang trại khi tích tụ ruộng đất đã phải mượn người khác đứng tên
sổ đỏ để tránh vượt hạn điền, khi muốn vay vốn ngân hàng thì thế chấp không được. Chính sách
đất đai hiện hành cũng không khuyến khích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn do thiếu cơ chế để có đất quy hoạch cho phát triển làng nghề, chăn nuôi tập
trung, nuôi trồng thủy sản tập trung; chưa tạo điều cho cơ chế thị trường đất đai vận hành lành
mạnh, không chỉ gây khó khăn cho phát triển sản xuất mà còn tạo điều kiện cho tham nhũng, đầu

cơ làm giàu bất chính, khiến dân không đồng tình. Chính sách thu hồi đất cho các mục đích phi
nông nghiệp với cơ chế xác định giá cả đền bù chưa hợp lý, các quy định về đăng ký chuyển đổi
mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất rườm rà mà vẫn lỏng lẻo, việc phân cấp quản lý
đất nông nghiệp dẫn đến tình trạng thu hồi đất lúa cho mục đích phi nông nghiệp đang ở mức
báo động.
Riêng tại tỉnh An Giang, mặc dù là địa phương có sản lượng lúa cao nhất cả nước nhưng số
hộ có diện tích đất dưới 1 ha chiếm tỷ lệ khá cao, các hộ có quy mô diện tích sản xuất lớn phải sử
dụng rất nhiều giấy chứng nhận với nhiều tên khác nhau và chịu nhiều thiệt thòi trong quan hệ tín
dụng, nhiều trường hợp người sang nhượng bội tín, xảy ra tranh chấp, Ngân hàng Nông nghiệp
không giải quyết cho vay vốn tín dụng với lý do cần phải đợi cấp giấy mới. Nếu cơ quan chức
năng xử lý không kịp thời sẽ ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất của nông dân”. Nông dân phải tự
gánh chịu nhiều rủi ro, do thu hồi đất đai đền bù không thỏa đáng, thủy điện xả lũ không đúng
quy trình, huy động đóng góp quá mức... làm tăng thêm khó khăn đời sống nông dân. Theo báo

- 15 -

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư


cáo gửi Bộ NN&PTNT của các địa phương ở miền Trung, con số nông dân bỏ ruộng lên đến hàng
chục nghìn hộ dân và hàng nghìn ha đất trồng lúa hoang hóa trong mấy năm lại đây và tình trạng
này đang ngày càng gia tăng. Trong năm 2012 - 2013, cả nước đã có 42.785 hộ bỏ không đất
canh tác với trên 6.882 ha, có trên 3.407 hộ trả ruộng. Ruộng đất chia cho đầu người quá ít, chỉ
vài sào đất, thậm chí là vài thước đất cho mỗi người, rồi thiên tai, dịch bệnh triền miên, cộng với
vật tư đầu vào cho sản xuất nông nghiệp quá cao, trong lúc sản phẩm làm ra bán với giá rẻ mạt,
thu không đủ bù chi... là những nguyên nhân chính khiến người nông dân bỏ ruộng.

- 16 -

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư



- 17 -

Tiểu luận Học thuyết giá trị thặng dư



×