Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

HIỆN TƯỢNG NGẮT lời TRONG GIAO TIẾP tự NHIÊN của học SINH TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.66 KB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
-----------------------

VŨ THỊ HỒNG

HIỆN TƯỢNG NGẮT LỜI TRONG GIAO TIẾP TỰ NHIÊN
CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-X

HÀ NỘI, 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
-------------------

VŨ THỊ HỒNG

HIỆN TƯỢNG NGẮT LỜI TRONG GIAO TIẾP TỰ NHIÊN
CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-X


NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. BÙI THỊ NGỌC ANH
HÀ NỘI, 2018

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS. Bùi Thị Ngọc Anh – Cán bộ Viện ngôn ngữ học. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn đều do tôi thực hiện hoặc tập hợp từ các nguồn khác
và được ghi rõ xuất xứ.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả khóa luận

Vũ Thị Hồng


3


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả các thầy cô giáo của
Khoa Ngôn ngữ học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội đã truyền dạy cho em những kiến thức, kĩ năng, và giúp đỡ em
trong quá trình học tập.
Khi thực hiện khóa luận của mình, em cũng đã nhận được sự giúp đỡ,
hưỡng dẫn rất tận tâm, nhiệt tình của người hướng dẫn là TS. Bùi Thị Ngọc Anh.
Cô đã chỉ bảo em về phương pháp nghiên cứu, các tài liệu tham khảo, hướng dẫn

em trong quá trình viết nội dung báo cáo, giúp em hiểu hơn về vấn đề nghiên
cứu. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô!
Vì còn nhiều hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm nghiên cứu, khóa luận sẽ
không tránh khỏi thiếu sót. Em kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cô
cũng như các bạn để bổ sung, hoàn thiện khóa luận của mình tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng

năm 2018

Tác giả khóa luận

Vũ Thị Hồng

4


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Lí do chọn đề tài

1.

Xã hội ngày càng phát triển, giàu mạnh, hơn bao giờ hết mỗi chúng ta quan
trọng lời ăn tiếng nói sao cho phù hợp trong mọi hoàn cảnh khác nhau. Người
xưa có câu “lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, vấn
đề lời ăn tiếng nói quan trọng ở mọi hoàn cảnh, là tiền đề tạo một môi trường
giao tiếp vui vẻ và thoải mái đối với tất cả mọi người trong hội thoại. Vì vậy vấn

đề ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên càng được quan tâm và chú ý hơn bao giờ
hết, ngắt lời sao cho hợp lí, nên ngắt lời trong hoàn cảnh nào, nhất là đối với học
sinh tiểu học – thế hệ mầm non tương lai của đất nước. Người lớn quan tâm, chú
ý uốn nắn ngay khi còn bé kể cả khi ở nhà, khi đến trường học để trẻ hiểu được
tầm quan trọng của việc ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên. Nghiên cứu về hiện
tượng ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên nói chung và của học sinh tiểu học nói
riêng hi vọng sẽ chỉ ra được những chiến lược giao tiếp, từ đó có thể đưa ra
những giải pháp tích cực cho chương trình giảng dạy tiếng Việt trong trường phổ
thông.
Có thể khẳng định rằng, ngắt lời xuất hiện phổ biến trong hội thoại hàng
ngày. Tuy nhiên, đối với mỗi cộng đồng khác nhau chúng ta quan niệm khác
nhau về ngắt lời. Có cộng đồng cho rằng hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tự
nhiên là một điều hết sức bình thường trong cuộc sống thường ngày, khi chúng ta
5


ngắt lời là do chúng ta có những ý kiến hay những phản biện đối với những câu
nói của đang nói để mọi người hiểu đúng, rõ ràng và chân thực nhất đối với hội
thoại đang được diễn ra. Có những cộng đồng lại có những ý kiến trái chiều, cho
rằng ngắt lời người khác trong quá trình giao tiếp là không lịch sự, làm cho
người đang nói không trình bày được hết ý kiến, quan điểm của mình khi đang
trong cuộc thoại.
Ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên thì luôn đa sắc màu, luôn được tìm kiếm và
nghiên cứu. Theo những tài liệu mà chúng tôi tìm được, tiếp cận được thì hiện
nay chưa có một công trình nào khảo sát một cách đầy đủ và có hệ thống về hiện
tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt, đặc biệt đối với đối tượng là học sinh
tiểu học. Vì vậy, việc nghiên cứu và thực hiện đề tài “Hiện tượng ngắt lời trong
giao tiếp tự nhiên của học sinh tiểu học” là cần thiết và hết sức quan trọng.
2.


Lịch sử nghiên cứu
Theo hướng ngôn ngữ học xã hội, các nhà ngôn ngữ học đã tập trung

nghiên cứu hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp với sự tác động của hai nhân tố
chính, bao gồm giới và quyền lực. Hướng thứ nhất là từ góc độ giới. Vấn đề
được các nhà ngôn ngữ học quan tâm đó là liệu sự khác biệt về giới có mang lại
sự khác biệt khi thực hiện việc ngắt lời trong giao tiếp? Khi bàn về vấn đề này,
hiện tại, vẫn có hai khuynh hướng được tranh cãi. Khuynh hướng đầu tiên là phủ
nhận vai trò của giới đối với ngắt lời trong giao tiếp. Nhiều tác giả khẳng định
không có bất cứ sự khác biệt nào ở đây khi nam giới và nữa giới thực hiện ngắt
lời trong giao tiếp, ví dụ như:
“Gender, Language, and Influence” (Giới, ngôn ngữ và sự ảnh hưởng) của
Carli (1990) [63]; “The Effects of Sex of Subject and Sex of Parner on
Interrruptions” (Những ảnh hưởng của giới trong chủ đề và vai trò giao tiếp với
ngắt lời) của Dindia (1987) [70]; “Gender; Legitimate Authority, and Leader-

6


Subordinate Conversations” (Giới, thẩm quyền hợp pháp và các cuộc thoại phụ
thuộc và người dẫn) của Johnson (1994) [92].
Ngược với khuynh hướng thứ 1, khuynh hướng này khẳng định vai trò nhân
tố của giới khi ngắt lời trong giao tiếp. Và câu hỏi đặt ra là giới nào ngắt lời
nhiều hơn, mục đích của việc ngắt lời của mỗi giới có sự tương đồng hay không?
Ở khuynh hướng này, các tác giả đã tập trung vào nghiên cứu cách tiếp cận, môi
trường giao tiếp, quan hệ giữa các vai giao tiếp và chủ đề giao tiếp như là những
nhân tố tạo nên sự khác biệt này. Với công trình nghiên cứu “Sex Roles,
Interruptions and Silences in Conversation” (Vai trò của giới, ngắt lời và im
lặng trong hội thoại) của Zimmerman D. vad West C. (1975) [136], các tác giả
đã sử dụng phương pháp trò chuyện tan gẫu theo tự nhiên tại khuôn viên Santa

Barbara của Đại học California năm 1975 và có được các kết quả là ghi âm 31
đoạn hội thoại giữa hai chủ đề (10 đoạn thoại giữa hai chủ thể là nam, 10 đoạn
thoại giữa hai chủ thể là nữ và 11 đoạn hội thoại giữa hai chủ thể khác giới), đối
tượng được ghi âm là những người da trắng, tầng lớp trung lưu và độ tuổi từ 20
đến 35 tuổi, mối quan hệ giữa các đối tượng giao tiếp ở đây khá đa dạng, từ mức
độ thân thiết bạn bè, đến mức độ xã giao giữa y tá và bệnh nhân. Các đoạn thoại
được ghi âm trong những bối cảnh giao tiếp khác nhau như: tại quán café, trong
hiệu thuốc, trong khuôn viên trường đại học, v.v… Các chủ đề được lựa chọn
ngẫu nhiên như các cuộc tranh cãi giữa những người yêu nhau, giữa những
người bạn hay giao tiếp xã giao giữa các chủ thể lần đầu gặp mặt. Zimmerman
D. và West C. (1975) [136] đã thấy rằng trong các cuộc tò chuyện này, nam giới
có vẻ thích ngắt lời người khác hơn nữ giới. Kết quả trong 11 cuộc trò chuyện
giữa nam và nữ, nam giới sử dụng 46 hình thức ngắt lời còn ở nữ giới là 2. Từ
mô hình nghiên cứu tương đối nhỏ này, Zimmerman D. và West C. đã đi đến kết
luận “mức độ ngắt lời của nam giới là nhiều hơn mức độ ngắt lời của nữ giới vì
khi đó họ đang thống trị hoặc cố gắng tỏ ra thống trị và họ cho rằng mình là
7


người có uy quyền hơn. Nam giới đặt cho mình lựa chọn các chủ đề cũng như tự
thực hiện các chủ đề đó mà không cần nghĩ tới các hệ quả có thể xảy ra. Bên
cạnh đó, nam giới cũng từ chối địa vị bình đẳng với nữ giới khi thực hiện các
vai giao tiếp với mong muốn thực hiện đầy đủ các lời thoại của mình” ([136],
tr.125). Công trình nghiên cứu của Zimmerman D. và West C. đã nhận được
nhiều sự ủng hộ và được phản ánh trong các nghiên cứu như “Sex Role
Diffirences in the Relational Control Dimension of Dyadic Interaction” (Sự
khác biệt về giới từ khía cạnh kiểm soát trong tương tác đôi) của Bohn và
Stutman (19830 [56] ; “Sex Diffirences in Student Dominance Behavior in
Female and Male Professors’classrooms” (Sự khác biệt giới trong hành vi kểm
soát sinh viên của các giảng viên nam và nữ tại các lớp học) của Brooks (1982)

[57]; hay “Cultural Differences, not Deficiencies; An Analysis of Managerial
Women’s language” (Khác biệt văn hóa không phải không có năng lực: Nghiên
cứu trường hợp ngôn ngữ của các nữ giám đốc) của Case (1988) [64], v.v.
Thêm vào đó, kết quả nghiên cứu trong các bài viết như “A new look at
interruptions” (Một cách nhìn mới về ngắt lời) của Kennedy và Camden (1983)
[94] và “Sex Diffirences in Interruptions. An Experimental reRevaluation”
(Những khác biệt về giới trong ngắt lời. Sự tái đánh giá thực nghiệm) của
Nohara (1992) [108] chỉ ra rằng nữ giới ngắt lời nhiều hơn nam giới.
Cũng bàn về sự ảnh hưởng của nhân tố giới về ngắt lời, Leaper C. (1994)
[97] trong công trình “Exploring the Consequenses of Gender Segregation on
Social Relationship”. Tìm hiểu những hậu quả của sự phân biệt giới với các mối
quan hệ xã hội, tiến hành thực hiện nghiên cứu 43 trường hợp trong các bối cảnh
giao tiếp tự nhiên và tại phòng thí nghiệm để đưa ra câu trả lời đang được tranh
cãi là liệu trong hai giới giữa nam và nữ, nam giới hay nữ giới ngắt lời bạn mình
nhiều hơn. Tác giả đã phát hiện ra nhân tố ảnh hưởng đến hiện tượng ngắt lời
giữa nam và nữ đó chính là sự thân sơ giữa các chủ thể giao tiếp. Với 6 cặp thoại
8


được thực hiện giữa các chủ thể giao tiếp có mức độ thân quen khá lớn và 11 cặp
thoại trong đó các chủ thể giao tiếp là những người xa lạ với nhau, đã cho kết
quả rằng những người không có mối quan hệ thân quen sẽ phụ thuộc nhiều hơn
vào các yếu tố chi phối hành vi ứng xử của họ. Đối với những người có mối quan
hệ thân quen như bạn thân, họ hàng sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào tính cách của
mỗi cá nhân (Drass, 1867 [71]; Wood và Karten, 1986 [133]), ReznikD. (2008)
[112] trong công trình nghiên cứu “Gender in Interruptive Turns at Talk-InInteraction” (Yếu tố giới ở các lượt ngắt lời trong giao tiếp tương tác) đã tiến
hành ghi âm một cuộc trò chuyện giữa hai người bạn khác giới. Như vậy có thể
thấy rằng ngắt lời là một hiện tượng trong giao tiếp do các chủ thể giao tiếp thực
hiện nhằm xây dựng các mối quan hệ cũng như để xây dựng phong cách cộng tác
trong hội thoại… Cùng cho rằng bối cảnh giao tiếp có ảnh hưởng trực tiếp đến

thành công của cuộc thoại, Leaper C. (1994) [97] đã tiến hành ghi âm các cuộc
hội thoại trong phòng thí nghiệm, trong văn phòng và cả bối cảnh giao tiếp tự
nhiên. Tác giả kết luận: ngắt lời thể hiện rõ trong bối cảnh giao tiếp tự nhiên hơn
là các phòng nghiên cứu. Tác giả cho rằng yếu tố tạo nên sự khác biệt là do ngắt
lời được coi là một cách hành xử thô bạo trong giao tiếp, có lẽ vì lí do này mà
mọi người cảm thấy có sự gò bó khi ngắt lời trong các cuộc hội thoại trong
phòng thí nghiệm hơn là trong bối cảnh giao tiếp tự nhiên. Tuy nhiên là do chỉ có
17 trường hợp nghiên cứu được tiến hành trong bối cảnh tự nhiên nên tác giả
cũng chưa hoàn toàn chắc chắn với kết quả mình đưa ra. Mặc dù vậy, tác giả
cũng đã khẳng định nhân tố ngữ cảnh có vai trò trong việc làm nên sự khác biệt
trong ứng xử hơn là sự khác biệt về giới.
Hướng nghiên cứu thứ hai là hướng nghiên cứu về hiện tượng ngắt lời trong
giao tiếp tự nhiên từ góc độ quyền lực, giữa những người tham gia giao tiếp
không cùng vai giao tiếp.

9


Vị thế là một nhân tố ảnh hướng lớn tới sự thành công của cuộc giao tiếp.
Không cùng vị thế sẽ dẫn đến sự mất cân xứng giữa các vai giao tiếp. Điều này
chúng ta có thể thấy rõ trong các cuộc hội thoại mà ở đó có một vai giao tiếp có
quyền và lợi thế nhất định để làm chủ cuộc thoại hay ngắt lời vai giao tiếp còn
lại như trong các cuộc thẩm vấn, các vụ xét xử tại tòa án. Momeni N. (2011)
[103], trong công trình “Police Genre: Interruption and its Classification as a
Sign of Asymmetry in poloce Interview/ Interrogation” (Chủ đề quan sát: Ngắt
lời và sự phân loại ngắt lời như một dấu hiệu của sự không tương xứng trong
các cuộc thẩm tra của cảnh sát), đã tiến hành nghiên cứu hiện tương ngắt lời
trong cuộc thẩm vấn giữa các nhân viên cảnh sát và các bị cáo. Từ dữ liệu được
phân tích từ các cuộc thẩm vấn, tác giả nhận định rằng bối cảnh giao tiếp của các
cuộc thẩm vẫn thể hiện rõ mối quan hệ không cân xứng, nhân viên cảnh sát luôn

là người giành được các lượt lời nói nhiều hơn thông qua việc ngắt lời liên tục bị
cáo.
Một hướng tiếp cận khác về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp được các
nhà ngôn ngữ học chú ý đến là hướng giao tiếp liên văn hóa, giữa những người
tham gia giao tiếp đến những nên văn hóa khác nhau. Các nghiên cứu theo
hướng này đã cho thấy có sự khác biệt về mục đích thực hiện ngắt lời giữa các
chủ thể giao tiếp. Như luận án tiến sĩ “Across cultural approach to the analysis
of conversation and ts implications for language pedagogy” (Phân tích hội thoại
theo đường hướng giao tiếp văn hóa và hàm ý cho giảng dạy ngôn ngữ) của
Murata K. (1991) [104] đã khảo sát các loại ngắt lời và sự ảnh hưởng của phong
cách hội thoại tới việc sử dụng các loại ngắt lời. Tác giả đã đưa ra kết luận như
sau: đặc tính ưa hợp tác trong phong cách hội thoại của người Nhật đã khiến cho
họ thiên về việc sử dụng các loại ngắt lời có tính cộng tác trong giao tiếp. Cùng
chung hướng nghiên cứu này, Han L. (2001) [82] trong công trình “Cooperative
and Intrusive interruption in inter and intracultural dyadic discourse” (Ngắt lời
10


cộng tác và xâm phạm trong các diễn ngôn đối nội và giao văn hóa) đã tiến hành
một cuộc thí nghiệm với 40 người Canada và 40 người Trung Quốc. Những
người tham gia cuộc thí nghiệm sẽ tạo thành các cặp thoại như sau: Người nói
Canada – người nghe Canada, người nói Trung Quốc – người nghe Trung Quốc,
người nói Canada - người nghe Trung Quốc, Người nói Trung Quốc – người
nghe Canada. Kết quả cho thấy hiện tượng ngắt lời xuất hiện trong tất cả các cặp
thoại. Tuy nhiên, chức năng của từng loại ngắt lời được sử dụng theo từng cặp
loại. Trong cặp thoại giữa người nói Trung Quốc – người nghe Trung Quốc, các
ngắt lời mang tính cộng tác xuất hiện nhiều hơn mang tính xâm phạm. Người
Canada có xu hướng sử dụng ngắt lời có tính xâm phạm nhiều hơn. Tác giả cũng
cho thấy ngắt lời không được thực hiện thành công nhiều hơn trong các nhóm có
các vai giao tiếp không chung nền văn hóa (cụ thể ở đây là giữa các cặp nói

Canada – người nghe Trung Quốc và người nói Trung Quốc – người nghe
Canada) hơn là các nhóm có chung nên văn hóa (giữa các cặp người nói Trung
Quốc – người nghe Trung Quốc và người nói Canada – người nghe Canada).
Giữa các nhóm không chung nên văn hóa, các ngắt lời có tính xâm phạm xuất
hiện nhiều hơn (Từ dữ liệu nghiên cứu trong [82], các tác giả người Canada có
xu hướng sử dụng các ngắt lời mang tính xâm phạm nhiều hơn người Trung
Quốc). Nghiên cứu này ủng hộ cho giả thuyết rằng ngắt lời trong hội thoại là một
hiện tượng có trong mọi nền văn hóa nhưng phong cách ngắt lời lại mang đặc
trưng của từng nền văn hóa (Watzalawick, Bavelas, và Jackson, 1967 [130];
Murata, 1994 [105]; Guillot, 2005 [81]).
Liên quan đến khái niệm ngắt lời, đa số các nhà nghiên cứu đều đồng tình
với quan điểm rằng ngắt lời là một hiện tượng phổ biến nhưng không có những
đóng góp tích cực trong giao tiếp. Cụ thể khi bàn về giao tiếp trong hội thoại, tác
giả Đinh Văn Đức (2012) [14] cho rằng, “khi giao tiếp cả người nói và người
nghe đều phải tế nhị trong hành động ngôn từ, nói năng phải lời, tôn trọng thể
11


diện của đối tác, người nói cần phải khiêm nhường uyển chuyển, giữ thể diện
cho mình và tránh xâm phạm lãnh địa, lợi ích của người khác” ([14]; tr.518).
Bàn về tính chất, đặc điểm của ngắt lời, theo tác giả Nguyễn Đức Dân (2000)
[8], ngắt lời hay lối nói “xen ngang” là hiện tượng không bình thường, không
lịch sự (trừ phi tranh luận hoặc cãi nhau). Tác giả cũng cho rằng: “ngắt lời cũng
liên quan đến văn hóa, tập tục và những quy ước của từng dân tộc, từng xã hội.
Chúng thường phản ánh những quan hệ tôn ti, những cương vị nào đó. Chủ tọa
có quyền ngắt lời một thành viên trong cuộc họp. Cha mẹ có quyềng ngắt lời con
cái. Thủ trưởng có thể dừng lời một nhân viên. Nhưng không có chuyện ngược
lại” ([8]; tr. 88). Cùng quan điểm này, tác giả Nguyễn Văn Khang (2012) [26]
khi bàn về lời nói có tính xã hội đã cho rằng: “các quy tắc nói năng trong một
cộng đồng xã hội còn biểu hiện ở sự luân lưu trong giao tiếp và cách nói xen

ngang vào, chêm vào khi giao tiếp. Chẳng hạn, trong khi ở xã hội Việt Nam cũng
như không ít xã hội khác “rất kị” cách cướp lời không lịch sự trong giao tiếp mà
không có xin lỗi trước, nói xen vào hay ngắt lời người khác thì tại một bản
Antique của Ấn Độ lại coi đây là một nét đẹp, đáng khích lệ trong giao tiếp”
([26]; tr. 334).
Trong các nghiên cứu về ảnh hưởng của yếu tố quyền lực đến phong cách
giao tiếp, Phạm Thị Thu Trang (2008) [44] trong“Biểu hiện của quan hệ quyền
thế trong các diễn ngôn hội thoại”đã kết luận rằng như sau: trên phương diện
cách thức tổ chức hội thoại, ngắt lời thể hiện qua các hiện tượng tranh lời, cướp
lời, lời chêm xen thường xuất hiện khi người nó ở vị thế cao muốn khẳng định vị
thế của mình. Xét về sự tuân thủ hay không tuân thủ các nguyên lí hội thoại thì
nhân vật A (ở vị thế cao hơn) đều có khả năng tuân thủ hay vi phạm phương
châm lượng trong nguyên lí cộng tác; song chỉ có nhân vật A là chủ động thực
hiện các hành vi làm phương hại đến thể diện của người đối thoại. Ngoài ra, cả

12


hai nhân vật cùng tùy mục đích giao tiếp mà thực hiện các chiến lược lịch sự bao
gồm cả lịch sự dương tính và lịch sự âm tính.
Xét về cấu trúc cũng như chức năng ngắt lời, trong luận án tiến sĩ “Cấu trúc
liên kết của cặp thoại (trên ngữ điệu tiếng Việt)”, tác giả Phạm Văn Thấu (2000)
[38] đã đề cập tới cặp chêm xen. Theo tác giả, cặp chêm xen là dạng đặc biệt về
chức năng và cấu trúc, được hình thành từ các hình vị chêm xen không có liên
quan đến nội dung chủ đề chính của cặp thoại. Gọi là chêm xen vì nó không
cùng cấp độ với những hành vi khác trong lượt lời, không làm đặc điểm căn bản
của lượt lời và của tham thoại bị phá vỡ, do vậy không ảnh hưởng tới sự tiếp tục
bình thường của hội thoại. Chúng chủ yếu có chức năng liên nhân. Ví dụ các
hành vi nghi thức, chống nhiễu, đưa đẩy, sửa chữa, cùng cố … Do tính chất
“chêm xen” mà chúng có vị trí khá tự do, nhưng thường gặp hơn cả là ở giữa các

lượt lời. Hành vi chêm xen còn như một công cụ chiến thuật hội thoại để dẫn
nhập hoặc chuyển hướng đề tài.
Ngắt lời cũng được chú ý đến như một hiện tượng không chỉ xuất hiện
trong các cuộc thoại mà còn trong các lời thoại dẫn. Trong luận án của tiến sĩ
Mai Thị Hảo Yến (2001) [49] “Hội thoại trong chuyện ngắn Nam Cao (các hình
thức thoại dẫn)”, tác giả đã có được kết luận về hiện tượng tranh cướp lời trong
hội thoại thực tế đã được từ vựng hóa trong lời dẫn. Tác giả đã dẫn ra các ví dụ
như sau:
• Hiện

tượng tranh cướp lời trong hội thoại thực tế được tái hiện trong

lời dẫn. Ví dụ: Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át: Mặc nó! Nó
không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
• Hiện tượng không cho phép nói của hội thoại thực tế cũng được dẫn
trong lời dẫn. Ví dụ: Bà toan cãi nhưng ông ra hiệu không được nói và
nói lắp đi: Mình là vợ, anh Hiệp đây là bạn, còn tôi thì …
Nghiên cứu về tính lịch sự trong giao tiếp, tác giả Vũ Tiến Dũng (2003)
[9] trong luận án tiến sĩ “Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính (qua một số
13


hành động nói)” đã đưa kết luận như sau: tính lịch sự trong giao tiếp là kết
quả của việc sử dụng các phương pháp xác định nhằm điều hòa và gia tăng
những gia trị nhân văn của những người tham gia giao tiếp, nhất là trong đối
thoại. Lịch sự có tác dụng tăng cường hiệu quả các hành động nói. Lịch sự có
tính phổ quát đối với nhiều dân tộc nhưng cách thể hiện thì lại mang đậm màu
sắc dân tộc và khu vực địa lí. Theo các nhà nghiên cứu Âu – Mỹ, lịch sự chủ
yếu gắn với các chiến lược mà con người thực hiện trong tương tác xã hội. Vì
vậy, các nhà nghiên cứu thường áp dụng lí thuyết lịch sự chiến lược. Bên

cạnh đó, một số nhà nghiên cứu khác căn cứ vào các cứ liệu của một nền văn
hóa phương Đông như Gu, Matsumoto… lại cho rằng lịch sự gắn với chuẩn
mực ứng xử, chịu áp lực mạnh mẽ của chuẩn mực cộng đồng nên lí thuyết mà
họ áp dụng ở đây là lí thuyết lịch sự chuẩn mực. Quan điểm cơ bản của lịch
sự chuẩn mực là lịch sự chịu áp lực mạnh của các giá trị xã hội như tuổi tác,
vị thế, giới tính, uy tín cá nhân, gia đình, dòng tộc.Trong khóa luận, tác giả
cũng đã tìm hiểu mối quan hệ giữa lịch sự và giới tính và đã có kết quả: xét
trong mối quan hệ với lịch sự thương tác bằng ngôn ngữ của nam giới và nữ
giới cũng có phần khác nhau. Nữ giới trong giao tiếp thường biểu hiện
tínhnhẹ nhàng, uyển chuyển thường nhấn mạnh tôn ti, thứ bậc hơn nam giới
trong tương tác xã hội.
Từ những nghiên cứu đưa ra trên đây, có thể thấy ngắt lời là một hiện
tượng một mặt có khả năng phá vỡ hội thoại, mặt khác lại có khả năng duy trì
hội thoại. Trong thực tế giao tiếp, bất kì nhân tố nào cũng có thể ảnh hưởng
trực tiếp tới cuộc thoại, ngoài các nhân tố tác động của ngoại cảnh như: âm
thanh, sự mất tập trung; còn có các nhân tố chủ quan của chính những người
tham gia giao tiếp. Từ thực tế này chúng tôi đi vào nghiên cứu hiện tượng
ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên, đối tượng là học sinh tiểu học, hi vọng tìm ra

14


được những kiểu ngắt lời và chức năng của việc ngắt lời trong giao tiếp của
học sinh tiểu học.
3.

Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp của học

sinh tiều học, từ đó hướng tới năng lực giao tiếp của học sinh tiểu học.

Nhiệm vụ nghiên cứu:


Tìm hiểu các loại ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của học sinh tiểu học
Tìm hiểu các chức năng của ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của học sinh

4.

tiểu học
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



- Đối tượng: Học sinh tiểu học trường tiểu học Đặng Trần Côn. Đề tài
tiến hành nghiên cứu về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của học
sinh tiểu học trường tiểu học Đặng Trần Côn trong những hoàn cảnh khác
nhau. Đối tượng học sinh có độ tuổi từ 6 đến 10.
- Phạm vi nghiên cứu: đối tượng học sinh trường tiểu học Đặng Trần Côn
– Hà Nội được khảo sát trong tháng 12/2017.
5.


Phương pháp nghiên cứu
Phân tích hội thoại: tác giả đã tiến hành nghiên cứu các tài liệu liên quan
đề hoàn thiện hệ thống lí thuyết phục vụ cho đề tài nghiên cứu “hiện tượng



ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của học sinh tiểu học”.
Thủ pháp thống kê: từ những đoạn hội thoại được tác giả khóa luận bóc

băng và thống kê được 487 hội thoại ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của



học sinh tiểu học Đặng Trần Côn.
Phương pháp miêu tả: Phương pháp này dùng để miêu tả các ngữ liệu
được thể hiện dưới dạng hội thoại, qua đó tìm ra những đặc điểm cụ thể



của vấn đề cần trình bày.
Phương pháp định tính: trò truyện, phỏng vấn sâu đối với các em học sinh

6.

tiểu học để đạt được kết quả mà nhiệm vụ nghiên cứu đề ra.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
15


Về ý nghĩa lí luận, đề tài làm rõ tính đa dạng của hiện tiện tượng ngắt lời
trong giao tiếp tự nhiên của học sinh tiểu học, từ đó chúng ta có những cơ sở lí
thuyết để giải quyết các vấn đề được nghiên cứu. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu
có thể là nguồn tài liệu cho những nghiên cứu khác cùng chủ đề.
Đồng thời nghiên cứu cũng mang giá trị thực tiễn trong việc giúp giải quyết
các vấn đề trong giao tiếp tự nhiên của học sinh tiểu học, từ đó định hướng học
sinh tiểu học ứng xử phù hợp trong giao tiếp tự nhiên, tạo môi trường giao tiếp
với những câu chuyện vui vẻ, phù hợp. Qua nghiên cứu về hiện tượng ngắt lời
trong giao tiếp tự nhiên của học sinh tiểu học phần nào chúng ta thấy được tính
cách và hành động của học sinh tiểu học….

7.

Kết cấu nghiên cứu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nghiên
cứu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết và tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Phân loại ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của học sinh
tiểu học (Nghiên cứu hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của
học sinh tiểu học Đặng Trần Côn – Hà Nội).
Chương 3. Chức năng của ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của học
sinh tiểu học.

16


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lí thuyết về hội thoại
1.1.1. Khái niệm hội thoại
Hội thoại là hình thức giao tiếp căn bản và phổ biến của con người. Theo
Hornby et. al. (1963) [136] và Collins (1987) [106], hội thoại là “sự trao đổi
ngôn ngữ thông qua phương tiện ngôn ngữ” (Conversation is the exchange of
language through language) là cuộc nói chuyện thân mật, tự nhiên trong đó
người ta trao đổi thông tin, ý kiến và tình cảm với người khác (Conversation is a
friendly, natural talk in which people exchange information, ideas and emotions
to one another).
Ở Việt Nam, những năm gần đây các nhà ngôn ngữ học cũng đã đi sâu
nghiên cứu vấn đề hội thoại. Đỗ Hữu Châu (1993) là một trong những nhà
nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam đi đầu trong lĩnh vực ngữ dụng học, ông xem

hội thoại là “hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ”. Nguyễn
Thiện Giáp cho rằng: “Hội thoại là giao tiếp hai chiều, có sự tương tác qua lại
giữa người nói và người nghe và sự luân phiên lượt lời.” [25: tr64] Hội thoại
gồm có các dạng cơ bản như: song thoại (dialogue) là một cuộc thoại chỉ gồm có
hai nhân vật đối đáp với nhau; tam thoại (trilogue) là hội thoại có ba người và
khi có nhiều người tham gia là đa thoại.
1.1.2. Các đơn vị hội thoại
Hội thoại cũng có cấu trúc tôn ti, thứ bậc của nó. Theo lí thuyết hội thoại
của trường phái phân tích diễn ngôn Birmingham (Anh) và các nhà phân tích hội
thoại Thụy Sĩ - Pháp, Đỗ Hữu Châu, Đỗ Thị Kim Liên coi hội thoại là một tổ
chức gồm 5 bậc: cuộc thoại (interaction) - đoạn thoại (sequence) - cặp thoại/
cặp trao đáp (exchange) - tham thoại/lượt lời (move) - hành vi ngôn ngữ (speech
act). Cuộc thoại là một lần trao đổi giữa các cá nhân trong một hoàn cảnh giao
17


tiếp xã hội nào đó. “Để có một cuộc thoại và chỉ có một cuộc thoại, điều kiện cần
và đủ là có một nhóm nhân vật có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, trong
một khung thời gian – không gian có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, nói về
một vấn đề có thể thay đổi nhưng không đứt quãng.”. [7- 298]
Ví dụ: (3)
A – Sao bây giờ mới bảo tôi?
B - Thì anh có để tôi nói đâu.
A - Thạc bị giết bằng gì?
B - Bằng một con dao một lưỡi, thứ dao gấp bỏ túi như vẫn bán ở các
cửa hàng.
A – Đâm ở ngực?
B – Không, ở vai…
(Thế Lữ - Gói thuốc lá)
b. Cấu trúc hội thoại

Trong cuộc thoại, mỗi lần nói của một người là một lượt lời. Lượt lời
là đơn vị cơ bản của hội thoại. Trong một lượt lời có thể gồm một hoặc
nhiều phát ngôn với chức năng và mục đích khác nhau và có liên kết chặt
chẽ với nhau. Mỗi lượt lời được xây dựng trên cơ sở những lượt lời trước
đó. Vậy là có sự luân phiên lượt lời và nghĩa là cấu trúc của một cuộc thoại
là a1b1a2b2a3b3…Cơ chế của sự luân phiên lượt lời bị chi phối bởi những
quy ước đối với việc trao lời, giành lời, nhường lời, gối lời… Hai lượt lời
có liên quan trực tiếp với nhau và đứng kề nhau làm nên một cặp thoại.
Trong một cặp thoại, lượt lời thứ nhất có chức năng định hướng cho lượt lời
thứ hai. Nói cách khác khi nói một điều, người ta dự đoán, chờ đợi một điều
khác sẽ xảy ra; khi thực hiện một hành động ngôn ngữ, người ta chờ đợi
một hành động ngôn ngữ đáp ứng. Nghĩa là có sự tác động của hiệu lực tại
lời của hành động ngôn ngữ ở lượt lời thứ nhất lên lượt lời thứ hai.
Ví dụ: (4)
Con: Hôm nay, mẹ có đi chợ không? (hỏi)
Me: Có. (đáp)
Trường hợp mà lượt trao lời của Sp1 phát ra nhưng không có lượt lời
đáp lại của Sp2 thì cuộc thoại đó khó thành. Bởi lẽ, tất cả các hành động
18


ngôn ngữ đều đòi hỏi sự hồi đáp. Sự hồi đáp có thể thực hiện bằng lời hoặc
phi lời như những tác động vật lí của nhân vật hội thoại: gật đầu, khoát tay,
đi thẳng… Sự hồi đáp bằng các hành động ngôn ngữ tương thích với hành
động dẫn nhập (trao lời) tạo thành những cặp hành động ngôn từ như: hỏi trả lời; chào – chào; đề nghị - đáp ứng; mệnh lệnh – tuân theo…Mối quan
hệ giữa lượt lời dẫn nhập và hồi đáp trong cặp thoại là mối quan hệ thống
nhất chặt chẽ. Cặp thoại được xem là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu, cơ sở của
hội thoại.
Mỗi cuộc thoại bao giờ cũng có bắt đầu và kết thúc, chúng làm nên
ranh giới của cuộc thoại. Cuộc thoại có thể chứa nhiều chủ đề. Một chủ đề

lại có nhiều vấn đề. Tập hợp các lượt lời trao đổi về một vấn đề sẽ làm
thành một đoạn thoại. Do vậy, cấu trúc hội thoại bao gồm các đơn vị như
cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại.
1.1.3. Nguyên tắc hội thoại
Trong hội thoại có những quy tắc nhất định, tuy không được nói ra
thành lời nhưng người tham gia hội thoại cần phải tuân thủ để quá trình giao
tiếp đạt hiệu quả. Hầu hết chúng ta khi giao tiếp đều có khả năng nhận biết
khi nào, chỗ nào, quy tắc nào bị vi phạm.
C.K Orecchioni đã chia quy tắc hội thoại thành ba nhóm:
- Các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời
- Những quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại
- Những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại
Về nguyên tắc hội thoại, có hai luận điểm rất đáng quan tâm đó là
nguyên tắc cộng tác hội thoại (co-operative principle) và nguyên tắc lịch sự
(principle of politeness).
Trong một cuộc hội thoại, vấn đề là làm sao để người nghe lĩnh hội
được ý của người nói. P.Grice tin rằng phải có một cơ chế chi phối việc
sáng tạo và lĩnh hội những phát ngôn ấy. Đó là cái được gọi là nguyên tắc
cộng tác hội thoại. Nguyên tắc này được ông phát biểu trong công trình
“Logic và sự hội thoại” (1975) như sau: Hãy làm cho phần đóng góp của
19


mình ở giai đoạn mà cuộc hội thoại được xem xét đúng như mục đích hay
phương hướng mà cuộc thoại đòi hỏi và mình đã chấp nhận tham gia. [dẫn
theo 11 - 130]
Nguyên tắc này được cụ thể hoá thành bốn phương châm cơ bản:
- Phương châm về chất (the maxim of quality)
+ Đừng nói những điều mà mình tin là sai.
+ Đừng nói những điều mà mình không có bằng chứng chính

xác.
- Phương châm về lượng (the maxim of quantity)
+ Hãy làm cho phần đóng góp của mình có lượng tin đúng như
nó được đòi hỏi cho mục đích của cuộc thoại.
+ Đừng đóng góp lượng tin của mình nhiều hơn điều mà cuộc
thoại đòi hỏi.
- Phương châm quan hệ (the maxim of relevance). Hãy đóng góp
những điều có liên quan, nghĩa là hãy nói vào đề.
- Phương châm cách thức (the maxim of manner) Hãy nói cho rõ ràng,
đặc biệt là:
+ Tránh tối nghĩa
+ Tránh mơ hồ
+ Nói ngắn gọn
+ Có trật tự, mạch lạc
Những phương châm này, tuy không nói ra lời nhưng được mọi người
thừa nhận trong quá trình giao tiếp. Việc tuân thủ các phương châm hội
thoại chính là thể hiện tinh thần cộng tác hội thoại. Cuộc thoại nào cũng
đòi hỏi phải có sự cộng tác cho dù đó là cuộc cãi lộn, gây sự, chửi bới
nhau. Song trong thực tế, người ta luôn có sự vi phạm các phương châm
vừa nêu. Người ta có thể không tuân thủ các phương châm do thiếu văn
hoá giao tiếp; do giữ phép lịch sự; do cố ý để người nghe hiểu theo hàm ý
nào đó…
Lịch sự là một nhân tố có ảnh hưởng to lớn đến các phát ngôn trong
quá trình giao tiếp và hiệu quả giao tiếp. Do vậy, nhiều nhà ngôn ngữ học
đã xem lịch sự là một nguyên tắc hội thoại quan trọng.
20


Lịch sự, theo quan niệm của các nhà văn hoá, là môt chuẩn mực xã
hội, tức là, hành vi xã hội có lễ độ hay phép xã giao trong phạm vi văn hoá.

Trong giao tiếp, con người phải nói năng sao cho phù hợp với vị thế xã hội,
hoàn cảnh giao tiếp. Các nhà nghiên cứu ngữ dụng học nhìn nhận lịch sự
dưới góc độ của sự cộng tác hội thoại, như một phương châm hội thoại, một
hành động giữ gìn thể diện trong hội thoại. Hiện nay, nói đến nguyên tắc
lịch sự là nói tới khái niệm “thể diện” và “giữ thể diện” trong hội thoại.
Khái niệm này được Brown và Levinson định nghĩa là: hình ảnh bản thân
trước công chúng của một cá nhân mà mỗi cá nhân muốn mình có được.
(“Face” the public selfimage that every number wants to claim for himself).
Theo G.Yule: “Bên trong một cuộc tương tác, lịch sự được định nghĩa như
là phương diện dùng để chứng tỏ sự nhận thức được thể diện của người
khác.” [101-119] Còn Nguyễn Thiện Giáp viết: “Thể diện là hình ảnh bản
thân trước công chúng của một cá nhân, nó liên quan đến ý thức xã hội và
tình cảm mà mỗi cá nhân có và mong muốn người khác tri nhận.” [25-104]
Theo nghĩa này, lịch sự được hiểu là người nói phải có giải pháp sử dụng
ngôn từ để bảo toàn được thể diện của những người tham gia giao tiếp.
Thể diện (face) được Brown và Levinson phân biệt thành hai phương
diện: thể diện âm tính (negative face) và thể diện dương tính (positive face).
Thể diện dương tính là những điều mà mỗi người muốn mình được
khẳng định, được người khác ưa thích, tôn trọng, tán thưởng, đánh giá cao.
Thể diện âm tính là những điều mà mỗi người muốn mình không bị ai
cản trở trong hành động, muốn được tự do hành động theo cách mình lựa
chọn. Vậy là, mỗi người có một không gian cá nhân, bao gồm cả thể xác và
tâm hồn, không ai được xâm phạm như cơ thể, những vật dụng riêng tư,
niềm tin, suy nghĩ, sự yêu thích… Thể diện âm tính tương ứng với thuật
ngữ “lãnh địa” của Goffman.

21


Như vậy, lịch sự trong hội thoại có thể được hiểu là những phương

thức dùng để tỏ ra rằng thể diện của người đối thoại được mình thừa nhận
và tôn trọng.
Trong giao tiếp, nếu một người nói ra cái gì đó có dấu hiệu làm tổn hại
về mặt thể diện của người đối thoại hoặc chính mình thì đó là hành động đe
doạ thể diện. Ngược lại, nếu nói thế nào làm giảm khả năng đe doạ thể diện
hoặc đề cao thể diện thì đó là hành động giữ gìn thể diện.
Ví dụ: (5) Quan sát cặp thoại sau:
Chàng trai: Gánh nặng mà đi đường dài,
Để anh gánh đỡ một vai nên chồng.
Cô gái: Gánh nặng thì chị trả công,
Mặt em chẳng đáng làm chồng chị đâu.
Trong câu nói của mình, chàng trai đã đưa ra hai yêu cầu “gánh giúp”
và “làm chồng”. Nghĩa là, chàng trai muốn can thiệp vào sự tự do hành
động của cô gái, cho rằng cô gái không có khả năng thực hiện hành động và
thể hiện sự yêu thương đối với cô gái. Như vậy, chàng trai đã đồng thời vừa
thực hiện hành động đe doạ thể diện cô gái vừa giữ gìn thể diện của mình
(chàng trai đề cao mình). Tương tự câu nói của chàng trai, câu trả lời của cô
gái là sự từ chối việc “làm chồng” và đề nghị trả công việc “gánh giúp”,
nghĩa là thực hiện hành động đe doạ thể diện chàng trai và khẳng định thể
diện của mình.
1.2. Ngắt lời
1.2.1. Khái niệm
Ngắt lời là một trong những hiện tượng thường thấy trong giao tiếp hội
thoại. Có thể ngắt lời xảy ra khi Sp2 cắt ngang hay xen ngang phát ngôn của
Sp1. Rất nhiều nhà ngôn ngữ học đã tiến hành nghiên cứu các phạm trù của ngắt
lời và cố gắng đưa ra các định nghĩa nhưng dường như họ cũng chưa thực sự đạt
được sự thống nhất. Zimmerman D. và West C. (1975) [136] định nghĩa “ngắt
lời là khi lượt lời của người nói tiếp theo bắt đầu trong lượt lời của người đang
nói, có nghĩa là, ít nhất hai âm tiết trước khi kết thúc đơn vị lượt lời hiện tại”
22



([136]; tr.114). Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn dụng học Việt ngữ
(2000) [16] đã định nghĩa ngắt lời là “khi người nói thứ hai bắt đầu nói ở chỗ
trong lời nói của người thứ nhất không có chỗ ngừng và cũng không phải là chỗ
kết thúc của câu hoặc cú đoạn” ([16]; tr.68).
Khóa luận của chúng tôi tiếp thu, quan niệm về ngắt lời của Nguyễn Thiện
Giáp, từ đó nhận diện một số loại ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của học sinh
tiểu học như sau:
1.2.2. Phấn biệt ngắt lời với các khái niệm: chêm xen, chồng lấp, …
1.2.3. Phân loại ngắt lời
a. Ngắt lời thông thường
Ngắt lời thông thường xuất hiện khi người ngắt lời thành công trong chuỗi
lời; trong khi người bị ngắt lời thành công trong chuỗi lời, trong khi người ngắt
lời chưa hoàn thành câu của họ. Người bị ngắt lời dừng lời nói của họ ngay lập
tức hoặc họ kết thúc sau đó vì người ngắt lời đột ngột giành lời.
Ví dụ: B thành công trong lượt lời của mình trog khi A vẫn nói. B thể hiện
quan điểm khác bằng cách ngắt lượt lời nói cảu A. Khi này A trở thành người bị
ngắt lời, dừng lời nói của mình không lâu sau khi sau khi B bắt đầu nói. Do đó A
không thể thể hiện hay giải thích một cách hoàn chình, trong khi đó B có thể nói
chính xác cụ thể lượt lời của mình.
b. Ngắt lời chồng lấn
Xảy ra khi người bị ngắt lời vẫn có thể hoàn thành phát ngôn của mình dù
người ngắt lời của họ khi họ đang nói. Loại này là sự diễn ra đồng thời của các
phát ngôn. Do đó, mặc dù người nói ban đầu có khả năng kết thúc lượt lời của
họ, nhưng người ngắt lời vẫn cắt lượt.
Ngắt lời chồng lấn vì không có một sự ngắt đoạn nào trong phát ngôn/ lượt
nói cùa A mặc dù A bị ngắt lời và bị B xen vào. A vẫn giữ lượt nói của mình cho
đến khi A hoàn thành thông điệp mà mình muốn nói, mặc dù B cố tình ngắt lời.
B cũng hoàn thành phát ngôn của mình khi ngắt lời.

23


c. Ngắt lời gián đoạn
Là người ngắt lời và người bị ngắt lời liên tục thực hiện các lời thoại trong
khi cuộc hội thoại đang diễn ra.
d. Ngắt lời im lặng
Khác với các loại ngắt lời ở trên, nếu như ngắt lời liên quan đến lời nói liên
tục, thì ngắt lời im lặng không xuất hiện trong lời nói liên tục bởi vì người nói
đầu tiên dừng trong giây lát. Khi im lặng xảy ra, người nói chưa kết thúc phát
ngôn của họ, và người ngắt lời xen vào, tiếp lời.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, chúng tôi đã khái quát cơ sở lí luận về một số vấn đề liên
quan đến hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên của học sinh tiểu học, trên
cơ sở đó triển khai đề tài khóa luận. Tiếp thu quan niệm ngắt lời của Nguyễn
Thiện Giáp, và trên cơ sở tư liệu chúng tôi đã nhận diện được 4 loại ngắt lời
trong giao tiếp tự nhiên của học sinh tiểu học. Sự phân loại này phục vụ cho việc
nghiên cứu ở chương 2 và chương 3.

24


CHƯƠNG 2
PHÂN LOẠI NGẮT LỜI TRONG GIAO TIẾP TỤ NHIÊN
CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC

Ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên là một hiện tượng rất phồ biến đối với tất
cả mọi người trong hội thoại và đối với học sinh tiểu học vấn đề này cũng không
phải là một ngoại lệ. Trên cơ sở tư liệu thu thập được, chúng tôi nhận diện được
4 loại ngắt lời xuất hiện trong giao tiếp tự nhiên của học sinh tiểu học, bao gồm:

Ngắt lời thông thường, Ngắt lời chồng lấn, Ngắt lời gián đoạn, Ngắt lời im lặng.
Số liệu thống kê như sau: có tất cả 487 ngắt lời trong giao tiếp tự nhiên, trong đó
244 ngắt lời thông thường, 93 ngắt lời chồng lấn, 107 ngắt lời gián đoạn và 43
ngắt lời im lặng.
Các loại ngắt lời
Số liệu thống kê
Tỉ lệ %
Ngắt lời thông thường
244
50,2
Ngắt lời chồng lấn
93
19
Ngắt lời gián đoạn
107
22,2
Ngắt lời im lặng
43
8,6
Có thể thấy, ngắt lời thông thường chiếm tỉ lệ vượt trội so với ngắt lời gián
đoạn, ngắt lời chồng lấn và ngắt lời im lặng. Sau đây chúng tôi sẽ đi vào phân
tích cụ thể từng loại.
2.1. Ngắt lời thông thường
Ngắt lời thông thường xuất hiện khi người ngắt lời thành công trong chuỗi
lời; trong khi người bị ngắt lời thành công trong chuỗi lời, trong khi người ngắt
lời chưa hoàn thành câu của họ. Người bị ngắt lời dừng lời nói của họ ngay lập
tức hoặc họ kết thúc sau đó vì người ngắt lời đột ngột giành lời.

25



×