Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI TRONG GIẢNG DẠY PHÂN MÔN ÂM NHẠC THƯỜNG THỨC THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.67 KB, 32 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN YÊN MỸ
TRƯỜNG THCS NGHĨA HIỆP

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI
TRONG GIẢNG DẠY PHÂN MÔN ÂM NHẠC THƯỜNG THỨC THCS

Bộ môn: Âm nhạc
Tác giả: Vũ Thị Hậu
Tổ:
Khoa học xã hội
Trường: THCS Nghĩa Hiệp

Năm học 2017 - 2018


MỤC LỤC

Nội dung
Phần mở đầu

A

Trang
1

I

Đặt vấn đề.

1



1

Thực trạng của vấn đề.

1

1.1

Mục đích, ý nghĩa và tác dụng của sáng kiến.

3

1.2

Phạm vi sáng kiến

5

Phương pháp tiến hành

5

2.1

Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn

5

2.2


Các biện pháp tiến hành và thời gian tạo ra giải pháp

10

2

B

Nội dung đề tài

11

I

Mục tiêu

11

1

Mục tiêu nghiên cứu

11

2

Nhiệm vụ

11


II

Các giải pháp của sáng kiến
Tác dụng của việc áp dụng phương pháp đổi mới trong giảng dạy

12

1
2
2.1

phân môn Âm nhạc thường thức.
Một số phương pháp đổi mới trong giảng dạy phân môn Âm
nhạc thường thức.
Sự phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt

12
12
13

a

Lồng ghép nội dung học tập qua tổ chức trò chơi

13

b

Tổ chức hoạt động học theo nhóm


15

c

Tổ chức hoạt động học ngoài không gian lớp học

18

Phương pháp học bằng cảm nhận thính giác

19

2.2
2.3

Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy phân môn Âm

22

III

nhạc thường thức.
Thực nghiệm sư phạm

1

Mục đích thực nghiệm

25


2

Bài soạn minh họa để dạy học thực nghiệm

25

C
1

Phần kết luận
Kết luận chung

25

34
34


2

Điều kiện áp dụng, những triển vọng trong việc vận dụng và phát

35

2.1

triển giải pháp
Kiến nghị


2.2

Đề xuất

36

Tài liệu tham khảo

40

35

ĐỀ TÀI: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI TRONG GIẢNG DẠY
PHÂN MÔN ÂM NHẠC THƯỜNG THỨC THCS
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I .Đặt vấn đề.
1. Thực trạng của vấn đề
Theo chủ trương của Bộ giáo dục và đào tạo, để cho không khí vui vẻ, giải
trí tinh thần sau những giờ học căng thẳng, Âm nhạc đã được đưa vào chương
trình đào tạo ở các cấp mầm non, tiểu học, và đặc biệt là ở bậc THCS. Ngoài ra,
sự phát triển nhạc cảm còn giúp các em phát triển tốt các chức năng tâm lí như:
khả năng cảm nhận, tư duy, trí nhớ, óc tưởng tượng, độ tập trung trong công việc,
và đặc biệt là một trong những phương tiện hiệu quả nhất để thực hiện nhiệm vụ
giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, tạo cơ sở hình thành nhân cách con người.
Môn Âm nhạc ở trường THCS bước đầu hình thành cho học sinh sự hiểu
biết và năng lực cảm thụ âm nhạc. Trong chương trình Âm nhạc THCS gồm có 3
phân môn:
+ Học hát
+ Nhạc lý – Tập đọc nhạc
+ Âm nhạc thường thức

Phân môn âm nhạc thường thức giúp cho học sinh có một “Trình độ văn
hóa âm nhạc nhất định”, bao gồm sự hiểu biết, năng lực thực hành tối thiểu và
năng lực cảm thụ âm nhạc. Muốn đạt được điều này thì người giáo viên phải
hướng dẫn tổ chức cho các em hoạt động học tập tốt ở 2 phân môn trong chương
trình âm nhạc ở trường THCS. Đó là học hát, nhạc lý – Tập đọc nhạc.
Phân môn Âm nhạc thường thức là một trong 3 phân môn của môn học
Âm nhạc ở trường THCS, có 4 dạng bài là:


+ Giới thiệu nhạc cụ
+ Giới thiệu các hình thức biểu diễn
+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm
+ Một số vấn đề của đời sống Âm nhạc
Đặc điểm và tính chất mỗi dạng bài là khác nhau, nên mỗi dạng bài giáo
viên cần phải xây dựng quy trình dạy học riêng. Mỗi nội dung Âm nhạc thường
thức đã chứa đựng tính văn hóa Âm nhạc (Như: thưởng thức, nghe, xem ca nhạc,
thị hiếu âm nhạc, nhận xét – đánh giá và hưởng ứng các hoạt động âm nhạc,
những kiến thức sơ giản về âm nhạc,…). Dạy tốt mỗi nội dung của phân môn Âm
nhạc thường thức chính là góp phần vào việc hình thành trình độ văn hóa âm
nhạc nhất định cho học sinh theo như mục tiêu môn học đề ra.
Bên cạnh đó, đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề mà toàn ngành
giáo dục đang hết sức quan tâm, những định hướng chung về đổi mới phương
pháp dạy học cho nhiều môn học có thể nêu gọn trong 4 vấn đề:
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
- Tăng cường thực hành giảm bớt lý thuyết.
- Tăng cường áp dụng các thiết bị và phương tiện dạy học.
- Dạy học theo tinh thần hợp tác giữa thầy và trò, giữa trò với trò.
Phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học là nội dung cần
quan tâm nhất trong vấn đề đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Thông qua
đó, đại đa số các em học sinh được giáo dục về Âm nhạc để nâng cao năng lực

cảm thụ và thẩm mĩ Âm nhạc ở mức độ cần thiết theo mục tiêu chung của môn
học.
Hiện nay, trong trường THCS đa số giáo viên giảng dạy đã nhận thức được
tầm quan trọng của đổi mới pháp dạy học, có tìm tòi trong công tác giảng dạy nên
bước đầu đã đạt được những kết qủa khả quan, khích lệ. Tuy nhiên những giờ
học như thế vẫn còn chưa nhiều. Đâu đó trong những tiết học Âm nhạc, vẫn còn
tình trạng học sinh nếu không nói chuyện, làm việc riêng thì lại ngủ.


Từ thực tế giảng dạy 1 số năm môn Âm nhạc ở trường THCS tôi nhận thấy
muốn giờ học hiệu quả, tránh sự nhàm chán cho các em khi học phân môn này, từ
đó phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh.
Trong phạm vi sang kiến kinh nghiệm của mình tôi đề cập đến một số
phương pháp đổi mới trong giảng dạy phân môn âm nhạc thường thức ở
trường mình giảng dạy.
1.1. Mục đích, ý nghĩa và tác dụng của sáng kiến
*. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lí luận về phương pháp đổi mới giảng
dạy để khẳng định rõ vai trò – ý nghĩa của việc áp dụng các phương pháp dạy học
theo mô hình trường học mới trong việc học môn Âm nhạc ở trường THCS nhằm
gây hứng thú học tập cho học sinh. Đề tài đi sâu vào xác định một số phương
pháp cần sử dụng trong dạy học phân môn Âm nhạc thường thức.
Hoàn thành tốt đề tài sẽ là cơ sở để tôi vận dụng vào thực tế dạy học ở
trường THCS. Để đạt được mục đích trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Tìm hiểu lý luận của các nhà giáo dục về các phương pháp dạy học tích
cực cho môn Âm Nhạc nói chung và phân môn Âm Nhạc thường thức nói riêng
trong các tài liệu giáo dục và các tài liệu có liên quan tới đề tài.
- Tìm hiểu thực tiễn việc dạy học Âm nhạc nói chung và chất lượng giảng
dạy bộ môn, tình hình tiếp nhận phương pháp học tập mới môn âm nhạc của học

sinh tại trường THCS Nghĩa Hiệp - Yên Mỹ - Hưng Yên.
- Tìm hiểu nội dung chương trình sách giáo khoa Âm nhạc để lựa chọn
những nội dung cần và có thể sử dụng phương pháp dạy học mới cho phân môn
Âm Nhạc thường thức
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở một lớp để kiểm chứng các phương
pháp đề xuất trong đề tài, trên cơ sở rút ra kết luận khoa học.
*. Ý nghĩa và tác dụng của sáng kiến.
Trong giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường phổ thông là một trong bốn mặt
giáo dục quan trọng nhất: Đức - Trí- Thể -Mĩ. Cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc


xuất phát từ tác phẩm, từ nghệ thuật trình diễn tạo nên những hình tượng âm nhạc
có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ làm rung động lòng người, hướng con người tới
Chân- Thiện -Mĩ… vì thế sẽ để lại những tác dụng như ;
- HS tiếp thu bài một cách chủ động trong mọi tình huống sư phạm.
- HS thực hiện yêu cầu bài học sáng tạo, khoa học không bị gò bó nhồi nhét.
- HS tự tin khi trình bày các tác phẩm trước đám đông phát huy các khả năng
thiên bẩm mà không cần sự áp đặt của giáo viên.
- HS thực sự cảm nhận được sự khác biệt giữa việc học môn Âm nhạc với các
môn khoa học khác.
- HS thêm yêu thích môn học hơn, tích cực hoạt động trong các phong trào
văn hóa văn nghệ của trường trong các đột hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn
trong năm.
1.2 . Phạm vi sáng kiến.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là áp dụng một số phương pháp đổi mới
trong giảng dạy phân Âm Nhạc thường thức ở trường THCS Nghĩa Hiệp.
2 . Phương pháp tiến hành.
2.1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
* Cơ sở lí luận.
Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khóa VIII đã chỉ rõ: “Phương

pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người
học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Vấn đề trên được hiểu cụ
thể: Một là: Hiệu quả thực sự của việc dạy học là học sinh biết tự học; tự hoàn
thiện kiến thức và tự rèn luyện năng lực, phẩm chất, hai là: Nhiệm vụ khó khăn
và quan trọng nhất của GV là làm sao cho học sinh thích học, ba là: Dạy học
phải làm cho HS cảm thấy biết thêm kiến thức của mỗi bài học là có thêm những
điều bổ ích, lý thú.
Theo quan niệm của các nhà tâm lý học: Hứng thú là một thuộc tính tâm lí
- nhân cách của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và
làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng


thú. M.Gorki từng nói: Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc. Cùng với
tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết
quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo.Trong khi đó, việc
khảo sát thực tế dạy học đã cho thấy một số bộ phận học sinh không có hứng thú
trong học tập trong môn Âm nhạc, đặc biệt là các em học sinh khối 8 và khối 9.
Điều này vừa được xem như là một biểu hiện vừa được xem như một nguyên
nhân cơ bản khiến cho việc giảng dạy môn Âm nhạc chưa thật sự hiệu quả.
Với các luận điểm trên, chúng tôi quan niệm rằng thực chất của việc dạy
học là truyền cảm hứng và đánh thức khả năng tự học của người học. Còn nếu
quan niệm người dạy truyền thụ, người học tiếp nhận thì người dạy dù có hứng
thú và nỗ lực đến mấy mà chưa truyền được cảm hứng cho HS, chưa làm cho
người học thấy cái hay, cái thú vị, giá trị chân thực mà tri thức đem lại thì giờ dạy
vẫn không có hiệu quả. Người học chỉ tự giác, tích cực học tập khi họ thấy hứng
thú. Hứng thú không có tính tự thân, không phải là thiên bẩm. Hứng thú không tự
nhiên nảy sinh và khi đã nảy sinh nếu không duy trì, nuôi dưỡng cũng có thể bị
mất đi. Hứng thú được hình thành, duy trì và phát triển nhờ môi trường giáo dục
với vai trò dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của GV. GV là người có vai trò quyết định
trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học tập cho HS nên việc

ứng dụng phương pháp dạy học tích cực là điều rất quan trọng trong giáo dục
hiện nay.
Quá trình dạy học gồm 5 thành tố cơ bản: Mục đích dạy học, nội dung dạy
học, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, phương tiện và thiết bị dạy học,
kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
Với các thành tố đó, có nhiều nhóm biện pháp tạo hứng thú học tập cho
học sinh và chúng thuộc những bình diện khác nhau của quá trình dạy học. Có
biện pháp tác động vào việc trình bày mục tiêu bài học, có biện pháp tác động
vào nội dung dạy học, có biện pháp tác động vào phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học, có biện pháp tác động vào phương tiện, thiết bị dạy học, có biện pháp
tác động vào kiểm tra đánh giá (bao gồm cả nhận xét), tác động vào quan hệ
tương tác thân thiện giữa thầy - trò, trò - trò...


Phần nội dung chương trình để làm mới được là một việc làm khó, không
phải giáo viên nào cũng làm được. Đây là vấn đề mang tầm vĩ mô và đã được Bộ
giáo dục đưa vào lộ trình trong đề án giáo dục. Với chương trình hiện hành chúng
ta vẫn có thể tác động vào phương pháp, hình thức tổ chức daỵ học của mình.
Điều này chúng ta cũng đã làm, tuy nhiên quan trọng là sự đổi mới ở mỗi giáo
viên.
* Cơ sở thực tiễn
Trong những năm qua ngành giáo dục đã tạo được nhiều chuyển biến tích
cực trong quá trình dạy học. Phương pháp dạy học, hình thức tổ chức, phương
pháp kiểm tra, đánh giá đã hướng tới năng lực và phẩm chất của người học.
Thực tế vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa "nhập cuộc”, họ coi đó là môn
phụ nên chưa đầu tư nhiều cho giáo án. Vì vậy việc dạy còn nặng việc truyền thụ
kiến thức, chỉ sử dụng một vài phương pháp quen thuộc như thuyết trình hoặc
đàm thoại, làm mẫu. Xem nhẹ việc giúp học sinh phát triển những năng lực cần
thiết nhằm giải quyết những vấn đề trong thực tiễn. Theo phương pháp dạy đó
khô khan, kém hấp dẫn, nặng về cung cấp kiến thức. Điều này dễ sa vào lối dạy

truyền thụ kiến thức thầy giảng trò nghe và chép, học sinh không chủ động lĩnh
hội kiến thức.Từ đó khiến cho học sinh cảm thấy giờ học trở nên nặng nề, khô
khan, không thiết thực. Đối với môn Âm nhạc, học sinh được thực hành nhiều,
nhưng nếu bài nào cũng áp dụng một vài phương pháp dạy học truyền thống thì
học sinh dễ nhàm chán, ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy, và chất lượng chung
của bộ môn.
Về phía học sinh: Với phương pháp truyền thụ kiến thức nhàm chán học
sinh ghi nhớ bài học một cách rời rạc, máy móc, khó cảm nhận về bộ môn, khó
ghi nhớ, hoạt động thực hành không tích cực, học sinh khó nắm bắt được tính tích
cực của bộ môn với đời sống. Bên cạnh đó định hướng của gia đình, của phụ
huynh coi môn này là môn phụ không giúp gì cho thi cử, cũng như không giúp
ích cho công việc sau này. Cụ thể ngay khi các em mới bắt đầu bước vào lớp đầu
tiên của khối THCS các em đã tỏ ra coi thường thậm chí học đối phó vì cho đây
là môn phụ…


Hệ quả: Học sinh nhàm chán, chưa thực sự tích cực và yêu môn học, coi
nhẹ môn học. Dẫn đến các em không hình thành được khả năng mạnh dạn, thiếu
năng động và tự tin trước đám đông và mọi hoạt động xã hội.
* Điều tra thực trạng
Kết quả khảo sát cuối năm học 2016 – 2017:

Loại /Lớp

Đạt
Chưa đạt

6A
SL
%


35
100%

SL
%

37
100%

SL
%

0
0%

SL
%

0
0%

Lớp /Loại

Đạt
Chưa đạt

7A

Chưa đạt


35
0%

SL
%

32
0%

SL
%

0
0%

SL
%

0
0%

8A

Chưa đạt

8B

SL
%


32
0%

SL
%

27
0%

SL
%

0
0%

SL
%

0
0%

Lớp /Loại
Đạt

7B

SL
%


Lớp/Loại

Đạt

6B

9A

9B

SL
%

27
0%

SL
%

22
0%

SL
%

0
0%

SL
%


0
0%

Kết quả học tập như trên nhưng trong thực tế số lượng học sinh thực sự hứng
thú và tích cực trong môn học chưa đạt được như vậy.
2.2. Các biện pháp tiến hành và thời gian tạo ra giải pháp


2.2.1. Các biện pháp tiến hành
*Nghiên cứu lí thuyết .

Phương pháp phân tích: Tìm hiểu, phân tích

chương trình sách giáo khoa Âm nhạc, các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề
tài để xác định các phương pháp phù hợp.
Phương pháp tổng hợp: Chúng tôi sẽ lựa chọn những kiến thức về các
phương pháp dạy học tích cực để tổng hợp nội dung kiến thức cần và có thể sử
dụng trong quá trình giảng dạy.
*Nghiên cứu thực tiễn.
* Đối với giáo viên: Đề tài khảo sát thực tế việc dạy học Âm nhạc nói chung
và phân môn Âm nhạc thường thức nói riêng thông qua phỏng vấn, tìm hiểu tài
liệu.
* Đối với học sinh: Tiến hành điều tra tình hình học tập, cách tiếp nhận
phương pháp dạy học mới của học sinh tại trường THCS Nghĩa Hiệp.
*Thực nghiệm sư phạm.
Soạn một bài thực nghiệm vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực
để gây hứng thú học tập trong dạy học Âm nhạc.Tiến hành dạy thực nghiệm ở
trường trung học cơ sở Nghĩa Hiệp nhằm kiểm chứng những phương pháp mà đề
tài nêu ra từ đó rút ra những kết luận khoa học và khẳng định tính khả thi của đề

tài.
Sử dụng phương pháp toán học thống kê trên cơ sở so sánh các giá trị thu
được giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá hiệu quả của những biện
pháp mà đề tài đưa ra.
2.2.2. Thời gian tạo ra giải pháp
Các phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực và tạo hứng thú
học tập trong dạy học là đề tài rất rộng lớn. Vì vậy trong khuôn khổ một sáng
kiến tôi tập chung làm rõ vai trò ý nghiã của việc sử dụng một số phương pháp
dạy học tích cực có thể vận dụng trong khi giảng dạy cụ thể môn Âm nhạc khối
6, 7, 8, 9 trong thời gian 2 năm học 2015 – 2016 , 2016- 2017 ở trường THCS
Nghĩa Hiệp.
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI


I .MỤC TIÊU
1. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lí luận về phương pháp đổi mới giảng dạy
để khẳng định rõ vai trò – ý nghĩa của việc áp dụng các phương pháp dạy học
theo mô hình trường học mới trong việc học môn Âm nhạc ở trường THCS nhằm
gây hứng thú học tập cho học sinh. Đề tài đi sâu vào xác định một số phương
pháp cần sử dụng trong dạy học phân môn Âm nhạc thường thức.
Hoàn thành tốt đề tài sẽ là cơ sở để tôi vận dụng vào thực tế dạy học ở trường
THCS.
2. Nhiệm vụ .
Để đạt được mục đích trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu lý luận của các nhà giáo dục về các phương pháp dạy học tích
cực cho môn Âm nhạc nói chung và phân môn Âm nhạc thường thức nói riêng
trong các tài liệu giáo dục và các tài liệu có liên quan tới đề tài.
- Tìm hiểu thực tiễn việc dạy học Âm nhạc nói chung và chất lượng giảng
dạy bộ môn, tình hình tiếp nhận phương pháp học tập mới môn âm nhạc

của học sinh tại trường THCS Nghĩa Hiệp - Yên Mỹ - Hưng Yên.
- Tìm hiểu nội dung chương trình sách giáo khoa Âm nhạc để lựa chọn
những nội dung cần và có thể sử dụng phương pháp dạy học mới cho phân
môn Âm nhạc thường thức.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở một lớp để kiểm chứng các phương
pháp đề xuất trong đề tài, trên cơ sở rút ra kết luận khoa học
II. CÁC GIẢI PHÁP CỦA SÁNG KIẾN
1. Tác dụng của việc áp dụng phương pháp đổi mới trong giảng dạy
phân môn Âm nhạc thường thức.
Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho HS ý thức được
lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Mục tiêu này có thể được trình bày
một cách tường minh ngay trong nội dung bài học. Với mỗi bài học cụ thể, giáo
viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính lợi ích của một nội dung nào đó. Chẳng
hạn, tại sao trong cuộc sống lại cần có tính năng động, sáng tạo trong cuộc


sống…..Tính lợi ích của các nội dung dạy học cũng được thể hiện rõ khi chúng ta
đặt ra sự đối lập giữa “có nó” và “không có nó”.
Trước đây, khi giảng dạy phân môn Âm nhạc thường thức, chúng tôi
thường giảng dạy cho học sinh nghe những kiến thức có trong SGK, và những
kiến thức mở rộng do chúng tôi tìm tòi từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Nói
chung, người thầy nỗ lực đem toàn bộ kiến thức thu thập được, truyền giảng lại
cho học sinh. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động.
Ngày nay, song song với việc đổi mới chương trình, thay đổi phương pháp
giảng dạy, nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao chat lượng dạy và học theo
hướng tích cực, học sinh tự học, tự nghiên cứu, sao cho kiến thức được chiếm
lĩnh bởi người học, khắc phục lối học một chiều, thụ động, rèn luyện tư duy sáng
tạo của người học.
Tôi xin đề cập đến một số phương pháp như: Phương pháp vấn đáp,
phương pháp học bằng cảm nhận thính giác, phương pháp thuyết trình, phương

pháp ứng dụng công nghệ thông tin,
2. Một số phương pháp pháp đổi mới trong giảng dạy phân môn Âm
nhạc thường thức
2.1 Sự phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt
a. Lồng ghép nội dung học tập qua tổ chức trò chơi
Giáo viên tổ chức trò chơi học tập nhất thiết phải là một bộ phận của nội
dung bài học, phải là một phần cấu tạo nên bài học. Trong trò chơi, khi mọi thứ
đều thật, học sinh được trải nghiệm, từ đó bộc lộ năng lực của các em.
Giáo viên chia học sinh theo nhóm phù hợp, cho học sinh xem nhanh lại
những thông tin kiến thức có trong SGK trong khoảng 3-5 phút (Vì GV đã yêu
cầu học sinh chuẩn bị bài ở tuần học trước). Sau đó gấp sách lại cùng thảo luận
các câu hỏi GV đã chuẩn bị sẵn ở bảng phụ.
Sau hiệu lệnh, các nhóm phất cờ giành quyền ưu tiên trả lời. Nhóm nào
phất cờ trước sẽ giành được quyền trả lời (Lưu ý: Nhóm nào phất cờ trước khi có
hiệu lệnh của GV thì sẽ bị mất quyền trả lời). Hoạt động này giúp học sinh rèn
luyện tính tự chủ, kiên nhẫn, năng động, nhạy bén.


Ví dụ: Giới thiệu nhạc sĩ Lưu Hữu Phước: Âm nhạc 6 – Tiết 10
Cách tổ chức: GV ghi sẵn các câu hỏi ở bảng phụ và đọc lần lượt từng câu
cho các nhóm:
Câu 1: Cho biết năm sinh – năm mất, nơi sinh của nhạc sĩ Lưu Hữu
Phước?
Câu 2: nhạc sĩ Lưu Hữu Phước bắt đầu soạn những bản nhạc đầu tiên năm
ông bao nhiêu tuổi?
Câu 3: Ngoài việc sáng tác, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước còn làm nghề gì?
Câu 4: Kể tên một số tác phẩm mang tính lịch sử của nhạc sĩ Lưu Hữu
Phước?
Câu 5: Kể tên một số tác phẩm thiếu nhi của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước?
Câu 6: Ông được Nhà nước truy tặng gì?

Nhóm nào có số lượng câu trả lời đúng nhiều nhất là nhóm thắng. Giáo
viên cộng điểm cho nhóm trả lời đúng để tạo hứng thú trong thi đua. Cuối cùng
tuyên dương nhóm giành chiến thắng.
Theo tôi, ở phân môn này, chúng ta cũng không nên đặt nặng kiến thức bắt
học sinh phải học thuộc. Ví dụ: giới thiệu về nhạc sĩ, các em chỉ cần nhớ:
- Năm sinh, năm mất (nếu nhạc sĩ đã mất), quê quán.
- Các tác phẩm âm nhạc tiêu biểu nhất của nhạc sĩ ấy.
- Nhạc sĩ được Nhà nước ghi nhận những đóng góp cho nền âm nhạc nước
nhà như thế nào?
- Nắm được hoàn cảnh ra đời, tính chất âm nhạc, nội dung ý nghĩa của tác
phẩm tiêu biểu được giới thiệu trong sách giáo khoa.
Trong đó, việc giới thiệu các tác phẩm của nhạc sĩ là quan trọng nhất.
*Ưu điểm và hạn chế của hình thức tổ chức trò chơi qua phương pháp
vấn đáp
- Ưu điểm.
Đây là hình thức học tập bằng hoạt động nên hấp dẫn được học sinh, từ đó
duy trì tốt sự chú ý của các em với bài học. Bên cạnh đó còn giảm tính căng
thẳng của giờ học và tạo cơ hội rèn luyện kĩ năng hợp tác cho học sinh.


- Hạn chế.
Khi tổ chức trò chơi học sinh rất dễ sa đà vào việc chơi mà ít chú ý đến
tính chất học tập của các trò chơi.
* Một số điều cần lưu ý: Để sử dụng được phương pháp tổ chức trò chơi,
giáo viên cần lưu ý:
- Hình thức chơi đa dạng, tránh gây nhàm chán cho học sinh
- Thời gian tổ chức các trò chơi chỉ 3- 5 phút, tránh kéo dài.
- Trước khi chơi, giáo viên cần nêu rõ luật chơi. Luật chơi cần dễ nhớ, dễ
thực hiện. Dụng cụ chơi đơn giản, dễ làm hoặc dễ chuẩn bị.
- Sau khi học sinh chơi xong cần có nhận xét đánh giá, tuyên dương động

viên.
- Tổ chức trò chơi học tập được áp dụng khi giới thiệu bài mới, trong phần
nội dung bài học hoặc luyện tập.
- Các trò chơi học tập cần đảm bảo yêu cầu phổ cập: nghĩa là trò chơi
mang tính vừa sức, học sinh trung bình cũng có thể giải quyết trong thời gian
ngắn, nhiều học sinh có thể tham gia.
- Trong trò chơi phải có chỗ cho sự sáng tạo mang tính cá nhân.
b. Tổ chức hoạt động học theo nhóm
Học theo nhóm là hình thức học tập mà nhiều thành viên trong lớp cần
phối hợp với nhau nhằm giải quyết những nhiệm vụ chung của bài học. Giáo viên
tổ chức học theo nhóm sẽ phát huy tính tích cực, sáng tạo, năng lực, sở trường,
tinh thần và kĩ năng hợp tác của mỗi thành viên trong nhóm. Phương pháp này
kích thích lòng ham mê học tập của học sinh, tránh lối học thụ động. Đồng thời,
phát huy tinh thần đoàn kết cao, các em biết hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ kiến thức,
kinh nghiệm, tự đánh giá, tự điều chỉnh vốn tri thức của cá nhân. Khi giải quyết
xong vấn đề, các kiến thức đó sẽ trở nên dễ nhớ và nhớ lâu.
Việc tổ chức học tập theo nhóm đa dạng và phong phú: Đó có thể là thảo
luận cặp đôi hoặc theo góc…. Với các kĩ thuật “ khăn phủ bàn” “ Kĩ thuật mảnh
ghép”…
* Ưu điểm và hạn chế của dạy học theo nhóm


+ Ưu điểm
Hoạt động hợp tác trong nhóm sẽ làm cho từng thành viên quen dần với sự
phân công hớp tác trong lao động xã hội, hiệu quả học tập sẽ tăng lên nhất là lúc
phải giải quyết vấn đề khó khăn, cần sự phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành
công việc.
Trong hoạt động hợp tác, mục tiêu hoạt động là mục tiêu của toàn nhóm,
nhưng mỗi cá nhân được phân công một nhiệm vụ cụ thể, phối hợp với nhau để
đạt mục tiêu chung. Khi đưa mô hình này vào trường học chính là chuẩn bị cho

các em thích ứng với đời sống xã hội mà trong đó mỗi người sống và làm việc
theo sự phân công và hớp tác với cộng đồng.
+ Hạn chế.
- Dạy học theo nhóm có thể gây ồn trong lớp, giáo viên khó kiểm soát.
- Có học sinh không thích học theo nhóm vì muốn chứng tỏ khả năng của
mình với giáo viên hơn là với các bạn.
- Việc phân nhóm gặp khó khăn với những lớp đông học sinh. Số học sinh
trong một nhóm đông, giáo viên sẽ khó phát hiện học sinh không hoạt động, ỷ lại
nhiệm vụ cho nhóm trưởng hoặc các bạn khác trong nhóm….
* Một số điêu cần lưu ý khi tổ chức dạy học theo nhóm.
- Giáo viên:
+ Trước khi lên lớp giáo viên cần chuẩn bị các nội dung như: mục tiêu của
hoạt động nhóm, nội dung thảo luận có phù hợp không,nên chia làm mấy nhóm,
bao nhiêu thời gian, các dồ dung kèm theo, dự kiến tình huống và cách giải
quyết.
+ Khi tổ chức thảo luận cần: Yêu cầu học sinh nghiên cứu trước bài,
hướng dẫn thực hiện, giải đáp thắc mắc của học sinh trước khi thảo luận (nếu có).
Khi tiến hành cho học sinh thảo luận giáo viên cần giám sát các nhóm để
có những can thiệp kịp thời mang lại hiệu quả. Lắng nghe quá trình trao đổi học
sinh trong nhóm để xem có học sinh nào “ đứng ngoài lề”hoạt động không? Nếu
có cần có cách đưa các em vào không khí chung của nhóm. Trong suốt buổi thảo
luận giáo viên cần theo dõi sát các nhóm. Nếu nhóm nào hoàn thành trước thời


gian quy định thì sẽ khen ngợi, khuyến khích và giao thêm nhiệm vụ. Ngược lại
nhóm nào chậm thì cần nhắc nhở để nhóm hoàn thành hoạt động của minh đúng
thời gian quy định.
Kết thúc hoạt động cần có sự đánh giá, nhận xét. Nếu số lượng nhóm ít thì
các nhóm sẽ lần lượt trình bày, sau đó các nhóm nhận xét, bổ sung và cuối cùng
giáo viên chốt kiến thức. Nếu số lượng nhóm đông có thể linh họat trong kiểm tra

đánh giá kết quả như kiểm tra chéo giữa các nhóm, so sánh với kết quả chốt của
giáo viên và các nhóm báo cáo kết quả của nhóm mình được kiểm tra.
-Với học sinh:
Để dạy học theo nhóm diễn ra hiệu quả học sinh cần chuẩn bị những thứ
cần thiết mà giáo viên đã dặn dò. Học thuộc bài cũ và chuẩn bị bài mới. Chuẩn
bị tài liệu về vấn đề mà giáo viên đã dặn trước…
c. Tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học
Dạy học ngoài không gian lớp học giúp HS tìm hiểu rất nhiều kiến thức, kĩ
năng từ cuộc sống. Dạy học ngoài không gian lớp học là một hình thức tổ chức
dạy học có nhiều lợi thế để phát triển năng lực giao tiếp cho HS, một năng lực
cần thiết cho tất cả mọi môn học nói chung và môn Âm nhạc nói riêng.
Các em có thể tham gia hoạt động học tập ở sân trường, trên sân khấu,
thậm chí để giờ học thành công, giáo viên có thể tổ chức giờ học Âm nhạc thành
một chương trình văn nghệ, kết hợp với các phương tiện hỗ trợ âm thanh như loa,
micro, để tạo hứng thú cho các em tự do sáng tạo, nhập vai, bộc lộ cá tính, năng
khiếu và phát triển năng lực bản thân. Đồng thời hình thành thói quen hợp tác,
tương trợ, học hỏi lẫn nhau.
Ví dụ: Trong tiết học hát, giáo viên tổ chức ngoài trời. Tiến trình bài học
vẫn được tổ chức lần lượt. Đầu tiên giáo viên hát mẫu bằng cách nhập vai ca sĩ
biểu diễn bài hát theo đúng tiết tấu, giai điệu và thể hiện biểu cảm của bài hát; khi
đó học sinh ở dưới sẽ là các Fan hâm mộ và chú ý nghe giai điệu của bài hát mới.
Sau đó sẽ bình luận bài hát qua việc tìm hiểu về tác giả, nội dung, kết cấu và tiết
tấu bài như thế nào. Hoạt động tiếp theo, các bạn sẽ luyện thanh và học hát.


Và khi đến phần luyện tập, giáo viên có thể tổ chức thành Hội thi âm nhạc.
Các nhóm sẽ lên tập biểu diễn bài hát theo các hình thức hát như tốp ca, tam ca,
song ca, đơn ca trên sân khấu cùng với âm thanh và micro. Đội nào hát đúng giai
điệu và thể hiện tốt sẽ được tuyên dương. (Với tiết 1 học hát, giáo viên chưa yêu
cầu các em thuộc lời, có thể sử dụng SGK)

Tổ chức tiết học ngoài trời sẽ giúp HS tri giác trực tiếp đối tượng và ghi
nhớ tốt, không phải tri giác gián tiếp qua các phương tiện dạy học.
*Ưu điểm và hạn chế của dạy học ngoài không gian lớp học.
- Ưu điểm.
Việc thay đổi không gian học tập sẽ tác động tích cực tới tâm lý của học
sinh. Các em sẽ được “làm mới” nội dung bài học, giúp các em năng động hơn cả
về thể chất lẫn tinh thần. Học sinh được làm quen với việc lập kế hoạch, làm việc
theo nhóm, rèn kĩ năng giao tiếp ứng xử, biểu diễn, tự tin trước mọi người….
- Hạn chế
Đây là hoạt động chịu nhiều sự chi phối: đòi hỏi thời gian, giáo viên khó
quản lí hoạt động của học sinh, chỉ phù hợp với một số nội dung.
* Một số lưu ý khi tổ chức học tập ngoài không gian lớp học.
- Giáo viên cần trình kế hoạch với nhà trường (BGH) từ đầu năm học, đầu học
kì.
- Giáo viên cần quản lý tốt các em trong quá trình học tập ngoài không gian lớp
học.
- Giáo viên cần định hướng các nội dung, vấn đề cần tìm hiểu, chỉ rõ cho các
em trong quá trình tìm hiểu.
- Giáo viên phải nhận xét, đánh giá hoạt động của học sinh. Cần có nhận
xét để rút kinh nghiệm cho các hoạt động tiếp theo.
2.2 Phương pháp học bằng cảm nhận thính giác
Theo tôi, một trong những thao tác quan trọng khi dạy phân môn Âm nhạc
thường thức là phải cho học sinh được “nghe”
* Nghe cái gì?


Giáo viên tự trình bày hoặc cho học sinh nghe một số tác phẩm âm nhạc
tiêu biểu giới thiệu trong SGK, giáo viên nên giới thiệu them các tác phẩm khác
của những nhạc sĩ có nhiều đóng góp cho nền Âm nhạc Việt Nam. Tuy nhiên với
thời lượng cho phép trong một tiết học, chúng ta không thể cho học sinh nghe

nhiều, nhưng ít nhất cũng nghe một số trích đoạn. Qua đó, giáo viên khuyến
khích các em sưu tầm nghe thêm.
* Nghe bằng cách nào? Nghe như thế nào để đật hiệu quả cao?
Để tạo sự tập trung lắng nghe của học sinh, chúng ta nên tổ chức thi đua
dưới dạng “Nốt nhạc vui”. Giáo viên chuẩn bị thêm một số trích đoạn khác.
Ví dụ: Giới thiệu về nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, lớp 9 – Tiết 10, giáo viên có
thể sưu tầm thêm một số trích đoạn nổi tiếng của ông, sau đó cho học sinh nghe
giai điệu và đoán tên tác phẩm như:
DẠ ÂM

MÀU ÁO CHÚ BỘ ĐỘI


KHÚC TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI
HÀ TĨNH

DÁNG ĐỨNG BẾN TRE


2.3 Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong giảng dạy phân môn
Âm nhạc thường thức.
Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học và công nghệ. Trong những năm qua
việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy đã đem lại hiệu quả to lớn. Nhưng như vậy là
đồng nhất ứng dụng CNTT với đổi mới phương pháp dạy học mà CNTT là
phương tiện tạo nên tính tích cực, chủ động cho học sinh. Trong khi các thông tin
được đưa vào SGK nói chung và môn Âm nhạc nói riêng đã cũ, không mang tính
cập nhật thì CNTT chính là cách để giáo viên cập nhật nhưng thông tin mang tính
thời sự, làm cho bài giảng gần gũi hơn với học sinh. Giáo viên có thể ứng dụng
CNTT để tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua các hình thức sau:
- Sử dụng CNTT để xây dựng tư liệu bài giảng đó là các thông tin, sự kiện,

tranh ảnh, video liên quan đến nội dung bài học.
- Ứng dụng CNTT qua các phần mềm ( giáo án điện tử, bài giảng điện tử)
- Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số trang web để học sinh có
thể tự truy cập để tìm hiểu sau đó viết báo cáo, hoặc thiết lập các bài powerpoint
về liên quan đến chủ đề bài học.
Ví dụ: Tiết 26 – Lớp 6: Sơ lược về nhạc hát và nhạc đàn
1

2

3

4

5

6


7
Dàn hợp xướng

8
Độc tấu sáo trúc

9
Tam tấu

*Ưu điểm và hạn chế của ứng dụng CNTT
+ Ưu điểm

- Tạo hứng thú cho học sinh nhờ hình ảnh sinh động, thông tin nhanh
- Tạo môi trường học tập mang tính tương tác cao, khắc phục tình trạng
thầy đọc, trò chép, học sinh rèn được tính chủ động tìm kiếm tri thức, sắp sếp hợp
lý quá trình tự học, tự rèn luyện.
+ Hạn chế
- Khả năng sử dụng CNTT ở một số giáo viên còn hạn chế nên chất lượng
các thông tin được sử dụng chưa cao. Còn hiện tượng lỗi phông chữ, trình chiếu
hoặc lại lạm dụng quá CNTT biến giờ học như một buổi xem phim và triển lãm
tranh ảnh.
- Một số trường CNTT còn thiếu.
- Một số học sinh chưa quen với cách học này nên thay vì nghe và ghi
chép, thảo luận, các em lại say sưa xem phim và bình luận.
* Một số lưu ý khi sử dụng CNTT để tạo hứng thú học tập cho học
sinh.


- Giáo viên cần lựa chọn thông tin, hình ảnh, video… có nội dung thiết
thực với bài học.
- Khi thiết kế cần chú ý phù hợp nội dung, tránh lạm dụng.
- Không coi đây là một phương pháp dạy học. Không coi CNTT là độc tôn,
là duy nhất mà cần phối hợp với các phương pháp dạy học khác.
III.THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Mục đích thực nghiệm.
Thực nghiệm là để kiểm nghiệm trong thực tế những dự kiến và một số
phương pháp học tập cho học sinh qua dạy học bộ môn Âm nhạc.
Căn cứ vào đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tiến hành
thực nghiệm ở môn Âm nhạc 7 trường THCS Nghĩa Hiệp trong năm học 2015 –
2016 và 2016- 2017 và tiếp tục thực nghiệm trong năm học 2017- 2018
2. Bài soạn minh họa để dạy học thực nghiệm
Ngày soạn: 23/10/2017

Tuần 11

TIẾT 11

ÔN BÀI HÁT:CHÚNG EM CẦN HOÀ BÌNH ÔN
TẬP ĐỌC NHẠC: TĐN SỐ 4
ÂM NHẠC THƯỜNG THỨC: NHẠC SĨ ĐỖ NHUẬN VÀ
BÀI HÁT “HÀNH QUÂN XA”
A. MỤC TIÊU:
1. Kiến thức:
- Hát đúng giai điệu của bài hát, thể hiện đúng đảo phách và biết ngân dài đủ
phách,thể hiện sắc thái hồn nhiên, vui tươi, trong sáng.
- Đọc nhạc,hát lời,chính xác bài TĐN số 4.
- Hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ .
2. Kĩ năng:
- Đọc chính xác,trình bày hoàn chỉnh bài TĐN số 4,kết hợp đánh nhịp 4/4.
3. Thái độ:
- Qua bài hát giáo dục các em tình cảm yêu hòa bình,sống đoàn kết, yêu
thương nhân ái.


- Biết trân trọng những người nghệ sĩ tài ba và những tác phẩm của họ.
=> Đinh hướng hình thành năng lực, phẩm chất:
- Năng lực:
+Tự chủ, hợp tác, sáng tạo
,

+Nghe, biểu diễn, thẩm mỹ.
- Phẩm chất: Sống yêu thương, tự chủ, có trách nhiệm.


B. CHUẨN BỊ
1. Giáo viên:
- Phương pháp: Làm mẫu, phát hiện và giải quyết vấn đề.
- Kĩ thuật : Động não, Khăn trải bàn.
- Phương tiện : Đàn, máy tính ,máy chiếu, video khởi động, bài hát mẫu, bài hát
của nhạc sĩ Đỗ Nhuận .
2. Học sinh:
- SGK,Vở viết Sưu tầm thông tin.
- Tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Việt.
C. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG
* Ổn định :1’ GV kiểm tra sĩ số lớp.
* Kiểm tra : Đan xen trong giờ.
1. Hoạt động khởi động:3’
*Kĩ thuật : Động não.
*Phương pháp : trực quan, thực hành
HS quan sát và nhảy theo video.
2. Hoạt động hình thành kiến thức:32’ ( Nhóm- Cá nhân )
*GV sử dụng
- Kĩ thuật: động não
- Phương pháp hợp tác theo nhóm,làm mẫu
Hoạt động của thầy và trò
HĐ1: năng lực, phẩm chất hình thành

KT trọng tâm

* Năng lực:
+Tự chủ, hợp tác, sáng tạo

I. Ôn bài hát: Chúng em cần



,

+Nghe, biểu diễn, thẩm mỹ.

hòa bình

* Phẩm chất:
Sống yêu thương, tự chủ, có trách nhiệm …..
- Luyện thanh, lấy giọng vừa phải phù hợp .
- GV ? Giai điệu của bài hát?
- Âm nhạc của bài hát nhịp hành khúc vui tươi,
sôi nổi.
GV đàn hướng dẫn.
-Tập thể lớp ôn lại bài hát,hát 1 lần,sửa cao độ Trường độ còn vấp.
- Chia lớp thành 2 nhóm tập thể hiện tình cảm
của bài theo tính chất hồn nhiên nhí nhảnh, kết
hợp lối hát đối đáp nam nữ. Nhóm 1 thể hiện thì
nhóm 2 nghe và gõ đệm theo nhịp bài hát.
- Tập làm một số động tác đơn giản để phụ hoạ
cho bài hát thêm sinh động.
- Tập trình bày bài hát trước lớp theo tốp mỗi tốp
từ 3-4 em.
- Thực hiện cá nhân một số em.
- GV nhận xét cho điểm.
HĐ2:
* Năng lực:
+Tự chủ, hợp tác, sáng tạo
+Nghe, biểu diễn, thẩm mỹ.
* Phẩm chất:

Yêu thiên nhiên,tự chủ, có trách nhiệm .
- Cho HS đọc Gam đô trưởng.
- HS chơi trò chơi : GV chia lớp thành 2 đội Sơn
ca và Họa Mi, Gv đàn 3-4 nốt nhạc trong một
câu bất kì của bài TĐNsố 4 cho hs nghe và nhận
biết đó là câu nào và yêu cầu hs hát lại nguyên

II.Ôn tậpTập đọc nhạc số 4:
.“Mùa xuân về”


vẹn câu nhạc đó. Đội nào có tín hiệu trả lời
nhanh và đúng sẽ được tặng nốt nhạc. Đội nào
chiến thắng sẽ được GV và đội bạn tuyên dương.
- GV đàn cho học sinh đọc hoàn chỉnh bài TĐN
số 4 kết hợp ghép lời ca.
(GV nghe và sửa sai cho học sinh – nếu có)
- Chú ý tiết tấu của bài.
- Khi HS đọc được toàn bài GV cho HS đọc lần
thứ 2 yêu cầu HS đọc nhạc kết hợp gõ phách.
(GV sửa sai).
- Khi HS ghép lời hoàn chỉnh GV chia lớp thành
2 nhóm, 1 nhóm đọc nhạc nhóm còn lại ghép lời
cùng 1 lúc và thực hiện ngược lại.
- HS đọc nhạc, ghép lời theo nhóm kết hợp gõ
phách đều đặn, các nhóm nghe và nhận xét lẫn
nhau.
- Yêu cầu từng nhóm đứng dậy đánh nhịp, GV
quan sát và sửa sai cho HS.
- Một vài HS lên bảng đánh nhịp cho cả lớp đọc

bài kết hợp gõ phách và ghép lời.
- Kiểm tra HS đọc bài cá nhân
HĐ3:
* Năng lực:
,

III.Âm nhạc thường thức(10')

+Tự chủ, hợp tác, sáng tạo

1. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận: ( 1922-

+Nghe, biểu diễn, thẩm mỹ.

1991)

* Phẩm chất:
Tự chủ, có trách nhiệm .
GV hát bài “Việt Nam quê hương tôi”, yêu cầu
hs nghe và đoán bài hát gì?
GV giới thiệu vào bài mới

- Ông sinh năm 1922, quê ở Hải

-GV cho hs xem đoạn video giới thiệu nhạc sĩ

Dương nhưng lớn lên ở Hải

Đỗ Nhuận.


Phòng. Là cánh chim đầu đàn


×