THAM KHẢO CHUYÊN ĐỀ
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu hỏi 1: (Trang 71) Anh chị hãy phân tích nội dung và phương thức lãnh đạo của ĐCS
cầm quyền ? làm thế nào để nâng cao năng lực cầm quyền của ĐCS Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay..........................................................................................................................................................1
Câu 2 : (Trang 105) Trình bày nội dung cương lĩnh đầu tiên của ĐCS VN và ý nghĩa của
nó?..........................................................................................................................................................5
Câu 3: (Trang 134) Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương:...........8
Câu 4 : (Trang 169) Những Chủ trương và biện pháp của đảng sau khi giành chính quyền
từ tháng 9/1945- 12/1946.......................................................................................................................9
Câu 5 : (Trang 178) Nội dung Đường lối kháng chiến đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp và đường lối cách mạng đảng ta của đại hội II (Trang 185) (1946-1954):..........................13
Câu 6: (Trang 212 ) Anh/chị trình bày nội dung đường lối của Đảng ta trong cuộc tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 giai phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước?...........14
Câu Đại Hội 4 Trang 269 Nội dung đường lối cách mạng XHCN 1970..............................15
Câu 7: Bằng kiến thức lịch sử Đảng, anh/chị hãy chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam ra
dời là sản phẩm kết hợp ba yếu tố Chủ nghĩa Mac-Lê nin với phong tào công nhân và quá trình yêu
nước?....................................................................................................................................................15
Câu 8. Bằng kiến thức Lịch sử Đảng anh/chị hãy chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là tất yếu khách quan?...................................................................................................................17
Câu 9: Trình bày hoàn cảnh lịch sử với mối quan hệ biện chứng giữa hai miền được Đảng
ta thông qua Đại Hội III toàn quốc của Đảng (9/1960)?.....................................................................21
Câu 10: Anh/chị hãy trình bày hoàn cảnh lịch sử và nội dung đường lối đổi mới của Đảng
ta thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (T12/1986)..........................................................24
Câu 11: Anh/chị hãy chứng minh vì sao Đảng ta xem xây dựng Đảng là nghĩa vụ then chốt
có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng ?.............................................................26
Câu hỏi 1: (Trang 71) Anh chị hãy phân tích nội dung và phương thức lãnh
đạo của ĐCS cầm quyền ? làm thế nào để nâng cao năng lực cầm quyền của ĐCS
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Anh chị hãy phân tích nội dung và phương thức lãnh đạo của ĐCS cầm
quyền:
Đảng cầm quyền : Có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền, chi phối chính
quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền, thể hiên và thực hiện tư tưởng, đường
1
lối chủ trương của đảng đó phù hợp với lập trường và phụ cấp lợi ích của giai cấp,
tầng lớp mà đảng đó đại diện.
Đảng cộng sản cầm quyền : Có nghĩa là Đảng lãnh đạo nhân dân giành được
chính quyền, thiết lập hệ thống chính trị mới, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng cộng sản cầm quyền là thời kỳ Đảng giành được chính quyền Nhà nước
và sử dụng Nhà nước như một cộng cụ mạnh mẽ và sắc bén của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của mình, xây dựng xã
hội chủ nghĩa và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền:
Nội dung lãnh đạo: Đảng phải lãnh đạo toàn diện đối với các lĩnh vực của đời
sống xã hội và toàn diện hệ thống chính trị, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội
hợp pháp. Không một tổ chức, một lĩnh vực nào của đời sống xã hội mà Đảng không
lãnh đạo, không phải chịu trách nhiệm. Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân,
trước dân tộc. Tuy nhiên, do đã có Nhà nước và các đoàn thể nhân dân thực hiện các
công việc quản lý và hoạt động theo chức năng của mỗi tổ chức, cho nên Đảng tập
trung thực hiện tốt các nội dung lãnh đạo chủ yêu như sau:
Một là : Đảng đề ra cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chính sách lớn
trên các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục, an ninh, quốc
phòng v v… Đây được coi là những quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng để Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị vận dụng, thể chế hóa
thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch công
tác và tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng của từng tổ chức. Đảng tôn trọng tính
độc lập, sáng tạo và quy chế hoạt động của từng tổ chức.
Hai là : Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh đủ
năng lực và hoạt động có hiệu quả, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân ;
chăn lo xây dựng và cũng cố các đoàn thể nhân dân đủ sức tập hợp được rộng rãi quần
chúng nhân dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực đời sống
xã hội. Trên lĩnh vực này, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc đề ra các quan điểm,
nguyên tắc, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng tổ chức và hoạt động của các
tổ chức; giúp đở các tổ chức xác định mục tiêu, chức năng nhiệm vụ trong thời kỳ
mới. Đảng không can thiệp vào công việc cụ thể, quy tắc, quy chế hoạt động của các
thành viên khác trong hệ thống chính trị.
Ba là: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngủ cán bộ theo
nguyên tác tập trung dân chủ, nhất là chủ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị.
Trên lĩnh vực này, nội dung lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc Đảng đề ra các quan
điểm, chủ trương về công tác cán bộ từ khâu đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đánh giá, sử
dụng, luân chuyển cán bộ…. Đảng quyết định những chính sách lớn về cán bộ. Đảng
trực tiếp bố trí và quản lý cán bộ của các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và
các đoàn thể nhân dân.
Bố là : Đảng tiến hành kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước và các tổ chức trong
hệ thống chính trị. Nội dung kiểm tra, giám sát của Đảng chủ yếu tập trung vào việc
2
quán triệt và tổ chức thực hiện các quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng,
việc chấp hành pháp luật và tinh thần trách nhiệm trước nhân dân. Đảng vừa trực tiếp
kiểm tra, giám sát vừa tổ chức phối kết hợp hoạt động kiểm tra, giám sát của các hệ
thống kiểm tra, giám sát của Đảng, thanh tra nhà nước, kiểm tra, giám sát của các
đoàn thể nhân dân.
Về phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong điều kiện đảng cầm
quyền:
Với vai trò là người lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và xã hội, Đảng cộng
sản cầm quyền lãnh đạo của mình không phải bằng quyền lực hành chính mà bằng các
phương thức thích hợp như:
- Đảng xây dựng cương lĩnh chính trị, đường lối, quan điểm, chủ trương, các
nghị quyết có tính nguyên tắc nhằm giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị
quan trọng.
- Bằng công tác tư tưởng và công tác tổ chức cán bộ, bằng hoạt động của đội
ngủ đảng viên và hệ thống tổ chức đảng, bằng phát huy vai trò làm chủ của quần
chúng nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng không bao biện và làm
thay chức năng quản lý nhà nước, lạm dụng quyền lực, nhưng Đảng cũng không buôn
lỏng sự lãnh đạo. Lực lượng lãnh đạo của xã hội, song Đảng lãnh đạo trong khuôn khổ
Hiến pháp và Pháp luật. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X xác định đây là một
nguyên tắc xây dựng Đảng. Đảng đòi hỏi các tổ chức Đảng, mọi cán bộ, đảng viên
phải nghiêm chĩnh chấp hành pháp luật. Ở bắt kỳ đâu trên bất cứ cương vị nào, đảng
viên cũng phải phấn đấu hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao, gương mẫu trong
lao động, sản xuất, công tác và học tập, luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức, là mgười
công dân gương mẫu trong XH.
Làm thế nào để nâng cao năng lực cầm quyền của ĐCS Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay
Năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là tổng hòa những phẩm
chất, tri thức, kinh nghiệm, phương thức, phương pháp lãnh đạo của Đảng tạo thành
sức mạnh, uy tín giúp Đảng có thể tập hợp lực lượng, đáu tranh giành chính quyền
và tổ chức thực hiện thành công lý tưởng, mục tiêu chính trị,củng cố địa vị cầm quyền
của Đảng. cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là : Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và cả dân tộc. Đảng phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu những kinh nghiệm, tri thức của nhân
loại, tham khảo kinh nghiệm các Đảng Cộng sản trên thế giới để áp dụng vào thực tiễn
cách mạng nước ta. Biểu hiện cụ thể ở việc hiểu sâu sắc về bản chất cách mạng và
khoa học, phương pháp luận, nắm vững tinh thần, lập trường, quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
3
Thứ hai, nâng tầm trí tuệ, không ngừng phát triển tư duy lý luận và tổng kết
thực tiễn của Đảng
Tầm trí tuệ của Đảng chính là trình độ trí tuệ của Đảng gắn với mỗi giai đoạn
lịch sử nhất định, là sự kết hợp chặt chẽ của bốn yếu tố: năng lực tư duy, tri thức tích
lũy được, sự sáng tạo phát hiện ra cái mới, sự vận dụng các yếu tố của trí tuệ vào cuộc
sống. Nâng tầm trí tuệ của Đảng, trình độ lý luận của Đảng là phương thức hiệu quả
nhất để khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí. Đảng ta cần quan tâm tập trung một số
nội dung sau:
Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đảng, chống lại những quan điểm bôi nhọ, những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan tâm tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm, thành công và không
thành công từ thực tiễn lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta cũng như các Đảng Cộng
sản trên thế giới để bổ sung, phát triển học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
Mặt khác, đấu tranh chống biểu hiện bảo thủ, giáo điều khi vận dụng lý luận
vào thực tiễn. Kịp thời thay đổi những chủ trương, chính sách không phù hợp.
Thứ ba, đổi mới, chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới
Đổi mới, chỉnh đốn là việc Đảng quyết tâm từ bỏ những lạc hậu, lỗi thời, khắc
phục những sai lầm, khuyết điểm, giữ vững và tăng cường mối liên hệ máu thịt với
nhân dân, vững vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng
lợi.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải bắt đầu từ việc thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ và kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, đảm bảo cho Đảng có tổ chức
chặt chẽ, đoàn kết thống nhất và có sức chiến đấu cao.
Thứ tư, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trọng tâm là phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Lãnh đạo bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước là một trong những phương thức
cầm quyền chủ yếu của Đảng. Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà
nước mà phải có cơ chế phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước
trong quản lý đất nước và xã hội. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước phải
được triển khai toàn diện trên các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại.
Thứ năm, đổi mới công tác tổ chức, công tác cán bộ trọng tâm là đội ngũ cán
bộ chủ chốt các cấp
Công tác tổ chức và cán bộ là hai nội dung trọng tâm trong nhiệm vụ đổi mới
Đảng về tổ chức. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới Đảng về tổ chức đòi hỏi phải tập
trung lãnh đạo tiếp tục kiện toàn tổ chức của Đảng các cấp trọng tâm là tổ chức cơ sở
Đảng, phân định rõ bộ máy tổ chức Đảng với tổ chức của Nhà nước cả về quy mô và
chức năng, nhiệm vụ.
Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực hiệu quả
4
Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền đảm bảo cho Đảng không có sự cạnh
tranh quyền lực. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức đối với Đảng ta do nguy cơ sự tha
hóa quyền lực mà biểu hiện cụ thể là sự độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần chúng.
Chính vì vậy, để củng cố vị trí và nâng cao năng lực cầm quyền, Đảng phải thiết lập
cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hiệu
Câu 2 : (Trang 105) Trình bày nội dung cương lĩnh đầu tiên của ĐCS VN
và ý nghĩa của nó?
Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng
sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản
thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản Việt Nam. Điều này phản
ánh quá trình tự ý thức của người cộng sản Việt Nam về nhu cầu phải thống nhất các
tổ chức cộng sản thành một đảng công sản duy nhất.
- Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Điều
lệ vắn tắt của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và
Đảng Công sản Việt Nam gởi tới đồng bào cả nước như việc thành lập Đảng. Các văn
kiện đó hợp thành thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Quyết định đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đại diện Đông Dương Cộng sản Đảng không đến kịp nên ngày 24 tháng 2
năm 1930 đã xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung cơ bản của Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng là:
Thứ nhất: Về phương hướng cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Thứ Hai: Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam
+ Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh và tổ chức
quân đội công nông.
+ Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn
của đế quốc (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,…) giao cho chính phủ công nông
binh quản lí, tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia
cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày
nghèo, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ.
+ Về văn hóa – xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; phổ thông giáo dục theo
hướng công nông hóa, nam nữ bình quyền…
Thứ ba: Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận
dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thuộc địa cách mạng, đánh đổ bọn
địa chủ và phong kiến; phải đoàn kết công nhân, nông dân và phải dựa vào dân cày
nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung
nông …đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư bản An
5
Nam mà chưa rõ phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất làm cho họ đứng trung lập;
đối với những đối tượng đã ra mặt phản cách mạng (Đại địa chủ, tư sản mai bản) thì
kiên quyết đánh đổ.
Thứ tư: Về xác định phương pháp cách mạng: Sử dụng bạo lực cách mạng
quần chúng để đánh đổ đế quốc phong kiến.
Thứ năm: Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là sực lượng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục được đại
bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong
khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào ngượng bộ một chứt lợi
ít gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.
Thứ sáu: Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế
giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua đã
chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
a/ Ý nghĩa của sự ra thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã qui tụ 3 tổ chức cộng
sản thành một Đảng cộng sản duy nhất- Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường
lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của
phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam
và hệ tư tưởng Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là “một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam
ta . Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng”.
Về quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khái quát: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.
Thực tế lịch sử cho thấy, trong quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ vận
dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát triển học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản.
Đại hội VII của Đảng (năm 1991) chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết
hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế,
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã
có cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc
6
theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa ra đời đã nắm bắt được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải
quyết được tình trạng khủng khoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo
cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX; mở ra con đường và phương hướng phát triển mới
của đất nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn
của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên
những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào
sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
b/ Ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta là một cương lĩnh cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm
tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc.
Đường lối lãnh đạo là một trong những vấn đề chiến lược của mỗi Đảng cầm
quyền. Xác định được điều đó,ngay từ khi ra đời,tại hội nghị thành lập Đảng,các đại
biểu đã thông qua Chính cương vắn tắt,sách lược vắn tắt,điều lệ tóm tắt,đó được coi
như là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.Mặc dù còn sơ lược,vắn tắt nhưng nó
đã khẳng định tính đúng đắn sáng tạo khoa học và trở thành kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách mạng và đặc biệt có giá trị trong thời
đại ngày nay!
Trước hết chính cương lĩnh khẳng định tính chất của cách mạng Việt nam là
cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới cách mạng xã hội chủ
nghĩa.Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn quá độ lên XHCN,tức là đã hoàn thành
cơ bản nhiệm vụ CMTSDQ và CMRĐ,vì vậy nhiệm vụ hàng đầu hiện nay là xây dựng
cơ sở vật chất cho CNXH tiếp tục,kiên trì con đường đi lên XHCN,xây dựng nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa,tức là không thay
đổi chiến lược cách mạng,không xa rời nguyên lí của Chủ nghĩa Mác Lê nin mà làm
cho nhiệm vụ ấy thực hiện có hiệu quả ,vận động theo tiến trình của lịch sử và dân
tộc.
Cương lĩnh cũng khẳng định lực lượng cách mạng là công nhân nông dân,tiểu
tưu sản trí thức.Đối với phú nông trung nông hoặc tư sản thì phải lôi kéo lợi dụng họ
hoặc ít nhất là làm cho họ trung lập! Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại ngày
nay,bên cạnh liên minh công nông làm nền tảng,chúng ta cần phát huy hơn nữa sức
mạnh đại đoàn kết của cả dân tộc, trong đó có mọi thành phần xã hội tạo nên sức
mạnh tổng hợp để tiến nhanh tiến mạnh vào thời đại.
Cương lĩnh cũng khẳng định Đảng cộng sản -đội tiên phong của giai cấp vô
sản-giữ vai trò lãnh đạo. Điêù này có vai trò quan trọng trong việc chống âm mưu diễn
biến hoà bình,trong bối cảnh tình hình thế giới còn nhiều phức tạp với các cuộc bạo
loạn lật đổ, đảo chính! Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng không chỉ tạo nên một nền chính
7
trị hoà bình ổn định mà còn tạo nên điều kiện cơ bản từ đó phát triển kinh tế,đảm bảo
đời sống nhân dân,thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó Cương lĩnh khẳng định CMVN là một bộ phận của cách mạng thế
giới vì vậy phải đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đây phải chăng cũng chính là cơ sở
mà sau này được Đảng ta kế thừa và phát huy.
Như vậy dù còn rất vắn tắt sơ lược nhưng Cương lĩnh chính trị đã khẳng định
tính đúng đắn trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và đặc biệt có ý
nghĩa lâu đai trong tiến tình vận động cách mạng của Đảng ta nhất là trong thời đại
ngày nay.
Câu 3: (Trang 134) Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông
Dương:
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản
Đông Dương diễn ra tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27-31/3/1935 do đồng chí Hà
Huy Tập chủ trì. Đại hội có 13 đại biểu đại diện cho các tổ chức cơ sở Đảng trong
nước và ngoài nước. Đại hội thông qua 14 Nghị quyết quan trọng và 6 bản Điều lệ của
Đảng và của các đoàn thể quần chúng, một bản tuyên ngôn gửi Quốc tế Cộng sản
cùng các Đảng Cộng sản anh em….
Đại hội thảo luận và đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu trước mất:
Một là: Cũng cố và phát triển Đảng. Nhiệm vụ củng cố và phát triển Đảng bao
gồm : Mở rộng tổ chức đảng; củng cố lực lượng hiện tại; khôi phục, liên lạc với
những tổ chức và đảng viên mất liên lạc; Phát triển Đảng ở vùng công nghiệp”biến
mỗi sản nghiệp thành một thành lũy cách mạng” kết nạp thêm công nhâ, nông dân, trí
thức, phụ nữ, dân tộc thiểu số; làm cho các tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh, thống nhất về ý chí và hành động thường xuyên giáo dục lý luận cho đảng viên
và quần chúng” Trong các cơ quan chỉ đạo của Đảngbắt buộc để cho các phần tử vô
sản chiến đa số để đảm bảo cho Đảng đi đúng đường lối chính trị vô sản”. Đại hội ủy
quyền cho Ban Cháp hành Trung ương định kế hoạch phát triển đảng viên mới đào tạo
cán bộ.
Hai là : thu phục quảng đại quần chúng lao động. Đại hội chỉ rõ, Đảng mạnh là
căn cứ vào ảnh hưởng và thế lực của Đảng trong quần chúng. Nếu Đảng không liên
lạc mật thiết với quần chúng, không được quần chúng tán thành và ủng hộ các khẩu
hiệu của Đảng thì Nghị quyết của Đảng chỉ là lời nói suông. Để thu hút rộng rãi quần
chúng, Đảng phải bênh vực, dẫn dắt quần chúng, củng cố và phát triển các tổ chức
quần chúng, đưa họ vào mật trận thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội chỉ rõ
Đảng muốn chỉ huy nổi phong trào, muốn đưa phong trào cách mạng tiến tới trình độ
cao, tới toàn quốc vũ trang bạo động, đánh đổ đế quốc phong kiến.
Ba là : Chống chiến trang đế quốc, Đại Hội chỉ rõ Đảng phải mở rộng tuyên
truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, phải vạch trần mặt nạ hòa bình giả dối của
bọn đế quốc, nhất là đế quốc Pháp ở Đông Dương. Đại Hội đề ra nhiệm vụ chống
chiến tranh đế quốc, bảo vệ liên bang Xôviết là nhiệm vụ của Đảngvà của các đoàn
thể cách mạng.
8
Đại hội thông qua điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dương, gồm 59 điều quy
định về tên đảng, về tôn chỉ, mực đích, nhiệm vụ của đảng viê, về điều kiện kết nạp
đảng viên, về những đối tượng phải đưa ra khỏi đảng, về tổ chức của Đảng, về nguyên
tắc của Đảng, về thu, chi tài chính của Đảng, về đảng đoàn và nhiệm vụ của các đại
biểu Đảng đối với tổ chức thanh niên cộng sản.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương gồm 13 ủy viên ( 9 chính thức, 4 dự
khuyết) Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Đông Dương đánh dấu sự khôi phục
hệ thống tổ chức của Đảng, nhất là khôi phục được cơ quan lãnh đạo Trung ương và
sự hồi phục phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương, Thành công của Đại
hội đem đến cho đảng viên và quần chúng cách mạng niềm tin vào sự thắng lợi của
cách mạng trong tương lai, chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đấu mới.
Câu 4 : (Trang 169) Những Chủ trương và biện pháp của đảng sau khi
giành chính quyền từ tháng 9/1945- 12/1946
Sau khi Cách mạng tháng tám thành công, tình hình khó khăn đặt ra trước mắt
Đảng và nhân dân ta những nhiệm vụ nặng nề và cấp bách. Chúng ta vừa phải xây
dựng và củng cố chính quyền cách mạng ở các cấp, vừa phải khôi phục kinh tế, giải
quyết nạn đói, nạn thất học, vừa phải đấu tranh với các thế lực thù địch để bảo vệ
chính quyền cách mạng và khẳng định vị thế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng và chế độ xã hội mới
Ngày 3-9-1945 tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp đầu
tiên của Chính phủ lâm thời. Người đã thay mặt Chính phủ nêu lên “những nhiệm vụ
cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”: giải quyết nạn đói, nạn dốt; tổ
chức tổng tuyển cử; giáo dục tinh thần của nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm,
liêm, chính; bỏ những thứ thuế vô nhân đạo; cấm hút thuốc phiện và đề nghị Chính
phủ tuyên bố: “tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”
Ngày 25-11-1954, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “ Kháng chiến, kiến quốc”,
trong đó xác định nhiệm vụ trước mắt: “ Nhiệm vụ riêng trong nước là phải củng cố
chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho
nhân dân”
Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc đã thu được thắng lợi to lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử tại Hà Nội với số phiếu cao nhất 98,4%. Ngày 2-31946 tại phiên họp đầu tiên, Quốc hội khóa I đã chỉ thị Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm 12 thành viên. Ở các địa phương, nhân dân
đã bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng nhân dân cử ra Ủy ban hành chính
thay cho Ủy ban lâm thời được thành lập trong tổng khởi nghĩa. Ngày 9-11-1946 tại
kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta.
9
Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1946, tính hợp hiến và hợp pháp của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Công hòa được xác lập.
Nhằm tăng cường sức mạnh về chính trị, Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng khối đoàn kết toàn dân. Ngày 29-5-1946, Hội
Liên hiệp quốc dân việt Nam được thành lập. Đảng Xã hội Việt Nam ra đời ngày 227-1946, các đoàn thể như công thương cứu quốc, sinh viên cứu quốc, công nhân cứu
quốc, thanh niên cứu quốc lần lượt mở hội nghị để thống nhất tổ chức và hành động.
Để mở rộng Mặt trận đoàn kết, Nha dân tộc thiểu số được thành lập. Hội nghị các dân
tộc thiểu số được thành lập. Hội nghị các dân tộc thiểu số toàn quốc được tổ chức
tháng 12-1945 và Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số khu vực miền Nam là cơ sở
chính trị - xã hội rộng lớn, là chỗ dựa cho chính quyền nhân dân trong những năm
kháng tháng đầu tiên quản lý đất nước, chống thù trong, giặc ngoài.
khắc phục những khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội
Phong trào diệt giặc đói được phát động trên cả nước. Trong thư gửi nhân dân
toàn quốc về việc chống giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị: “ Cứ mười ngày
nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân
nghèo”. Cả nước dáy lên nhiều phong trào: “Hũ gạo tiết kiệm”, “ ngày đồng tâm”,
“tăng gia sản xuất”, “tấc đất, tấc vàng”, khai hoang phục hóa, khôi phục hầm mở, xí
nghiệp, nhà máy, v.v.. Đồng thời, chính phủ lâm thời ký một loạt các sắc lệnh quan
trọng: sắc lệnh ngày 7-9-1945, bãi bỏ thuế thân; ngày 26-10-1945, Chính phủ ban
hành nghị định giảm thuế 20% và miễn thuế hoàn toàn cho đồng bào vùng bị lụt bão;
ngày 16-11-1945, Chính phủ ra thông tư về việc tạm chia ruộng đất công cho dân cày
nghèo. Đến cuối 1945, đầu năm 1946 nạn đói về cơ bản bị đẩy lùi, đời sống nhân dân
bước đầu ổn định.
Để khắc phục khó khăn cho nền tài chính quốc gia, Chính phủ phát động “tuần
lễ vàng”, “quỹ độc lập” và “quỹ đảm phụ quốc phòng”. Trong tuần lễ vàng từ ngày 17
đến ngày 24-9-1945 nhân đan đóng góp 370 kg vàng và 60 triệu đồng.
Để chống lại nạn dốt, ngày 8-9-1945 Chính phủ ra sắc lệnh thành lập Nha bình
dân học vụ. Trong lời kiêu gọi Chống nạn thất học, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “
Muốn giữ nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu. Mọi người Việt Nam phải
hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, có kiến thức mới để có thể tham gia
vào công việc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Hưởng ứng lời kiêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào xóa mù chữ đã
phát triển rộng khắp cả nước. Chỉ trong một thời gian ngắn đã có 2,5 triệu người biết
đọc, biết viết. Thắng lợi của diệt giặc đói và diệt giặc dốt có ý nghĩa to lớn về mặt
chính trị, xã hội và văn hóa. Đây là một trong những nhân tố chủ yếu đầu tiên tạo nên
sự ổn định chính trị, niềm tin của nhân dân vào Đảng và Chính phủ do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đứng đầu.
Tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ, mở đầu cuộc
xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngay sáng 23-9-1945 trong khi quân và dân Sài Gòn –
10
Chợ Lớn đang chống trả quyết liệt cuộc xâm lược của thực dân Pháp, Xứ ủy và ủy ban
nhân dân Nam Bộ họp tại đường Cây Mai – Chợ Lớn (nay là số nhà 629 đường
Nguyễn Trãi – Quận 5) đề ra chủ trương chỉ đạo cuộc kháng chiến.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn diễn ra vô cùng anh dũng.
Ngày 26-9-1945, Chủ tịch hồ Chí Minh đã gửi thư kiêu gọi đồng bào miền Nam
kháng chiến và khẳng định sự giúp đỡ của cả nước đối với cuộc chiến đấu chống thực
dân Pháp.
Cuối tháng 10 – 1945, quân Pháp được tăng viện đã phá vỡ vòng vây sài Gòn –
Chợ Lớn và mở rộng đánh chiếm toàn miền Nam. Ngày 25-10-1945, Xứ ủy Nam Bộ
họp tại Thiên Hộ (Mỹ Tho) đã kiểm điểm tình hình cuộc kháng chiến và đề ra các biện
pháp về quân sự, chính trị, xây dựng chính quyền, v.v. để tiếp tục đẩy mạnh kháng
chiến. Bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
ngày 25-11-1945 nêu rõ: ”Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng… Khẩu hiệu vẫn là “dân tộc trên hết” “Tổ quốc trên hết”.
Kẻ thù chính chúng ta là thực dân Pháp xâm lược. Phải tập trung ngọn lửa đấu tranh
vào chúng”. Tháng 12-1945, Ủy ban kháng chiến miền Nam được thành lập.
Cuộc chiến đấu không cân sức của nhân dân Nam Bộ chống lại một đội quân
nhà nghề diễn ra hết sức ác liệt. Ở Nam Bộ, chúng ta không đánh bại được kế hoạch
mở rộng chiến tranh của Pháp, nhưng chính cuộc chiến đấu đó đã bước đầu làm thất
bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp và để lại nhiều kinh
nghiệm cho cuộc kháng chiến của cả nước sau này.
Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao
Để tránh đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng ta đã có những đối
sách hòa hoãn thích hợp với từng kẻ thù và lợi dụng mâu thuẫn giữa các kẻ thù để
phân hóa, loại bỏ chúng.
- Tạm hòa với Tưởng ở miền bắc để tập trung chống Pháp ở miền Nam ( từ
tháng 9-1945 đến tháng 3-1946):
Đảng ta xác định: Mặc dù quân Tưởng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, lật
đổ chính quyền cách mạng song kẻ thù chính của nhân dân ta vẫn là thực dân Pháp
xâm lược. Do đó, chúng ta cần phải nhân nhượng, hòa hoãn với quân Tưởng để tập
trung ngon lửa đấu tranh chống lại thực dân Pháp.
Mục tiêu nhân nhượng: Tạm hòa hoãn với Tưởng để có thời gian xây dựng lực
lượng về mọi mặt, chuẩn bị cho kháng chiến toàn quốc.
Nguyên tắc nhân nhượng: Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, chính quyền
cách mạng và mục tiêu độc lập dân tộc thống nhất đất nước.
Nội dung hòa hoãn, nhân nhượng với Tưởng: Về kinh tế, ta cung cấp lương
thực, thực phẩm cho 20 vạn quân Tưởng, thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu về nhà ở,
điều kiện sinh hoạt cho quân đội Tưởng, cho lưu hành đồng tiền quan kim trên thị
trường. Về chính trị, ta chấp nhận mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp lâm thời
cho Việt Quốc, Việt Cách tham gia và chấp nhận dành 70 ghế trong Quốc hội cho Việt
11
Quốc, Việt Cách tham gia không qua bầu cử. Về quân sự, tránh mọi xung đột với quân
đội Tưởng.
Sách lược tạm hòa hoãn với Tưởng đã làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền
dân chủ nhân dân Việt Nam của Quốc dân Đảng Trung Hoa, tạo điều kiện cho nhân ta
có thêm thời gian củng cố và xây dựng lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược.
- Hòa hoãn với thực dân Pháp, xây dựng và pháp triển lực lượng cách mạng,
chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc (từ tháng 3-1946 đến tháng 121946):
Ngày 28-12-1946, chính quyền Tưởng và thực dân Pháp ký kết Hiệp ước HoaPháp, theo đố Tưởng tạo điều kiện cho Pháp đưa quân ra miền Bắc nước ta thay thế
quân Tưởng. Trước sự thay đổi của tình hình, Đảng chủ trương chuyển sang thực hiện
sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với Pháp.
Mục đích của sách lược nhằm đuổi ngay quân Tưởng về nước, tránh cùng lúc
đối phó nhiều kẻ thù và bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị
cho cuộc chiến đấu mới.
Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh đã ký với đại diện
Chính phủ Pháp J.Xanhtơny Hiệp định sơ bộ về quan hệ Việt – Pháp.
Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hòa để tiến nêu rõ
ý nghĩa quan trọng của việc ký hiệp định với Pháp nhằm thống nhất tư tưởng trong
toàn Đảng, đồng thời nhấn mạnh việc cảnh giác đề phòng, chuẩn bị sẵn sàng chiến
đấu nếu Pháp bội ước.
Sau Hiệp định sơ bộ 6-3, nhiều hoạt động trên mặt trận ngoại giao được đẩy
mạnh nhằm đi đến một hội nghị chính thức. Ngày 24-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã có cuộc hội đàm với Đắcgiăngliơ – Cao ủy Pháp ở Đông Dương tại Hạ Long quyết
định họp Hội nghị trù bị tại Đà Lạt trước khi tiến hành đàm phán chính thức tại Pari.
Ngày 16-4-1946, phái đoàn Quốc hội Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu
sang thăm nước Pháp. Hội nghị trù bị diễn ra tại Đà Lạt từ ngày 19-1946 đến ngày 115-1946 thì bế tắc do thực dân Pháp vẫn cố tình chia cắt đất nước ta.
Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam lên đường thăm
chính thức Pháp theo lời mời của Chính phủ Pháp.
Hội nghị Việt – Pháp diễn ra tại Phôngtennơblô từ ngày 6-7-1946 đến ngày 109-1946 thì bế tắc. Ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với M.Mute Bộ
trưởng Hải ngoại Pháp bản Tạm ước nhằm tiếp tục tìm một giải pháp hòa bình cho
cuộc xung đột Pháp – Việt.
Các nỗ lực ngoại giao của chính phủ Việt Nam Dân chủ Công hòa sau Tạm ước
14-9-1946 đều bị tư tưởng hiếu chiến của các thế lực thực dân phá bỏ. Đêm 19-121946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, sự hòa hoãn với thực dân Pháp chấm dứt.
Những kinh nghiệm của Đảng về xây dựng và bảo vệ chính quyền cách
mạng
12
Quá trình xây dựng và bảo vệ chính quyền nhà nước trong những năm 19451946 đã để lại những kinh nghiệm có ý nghĩa căn bản đối với sự nghiệp cách mạng
của Đảng, toàn dân.
Nhanh chóng xác lập cơ sở pháp lý và tính hợp hiến của chính quyền nhà nước;
chăm lo xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền nhân dân từ Trung ương đến tận cơ
sở.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn dân để xây
dựng và bảo vệ những thành quả chính quyền cách mạng. Đồng thời tranh thủ thời
gian chuẩn bị những điều kiện thiết yếu để sẳn sàng đối phó với cuộc chiến tranh có
thể xảy ra.
Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện sự nhân nhượng
có nguyên tắc về chính sách ngoại giao thêm bạn bớt thù.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong mọi hoàn cảnh, nhất là
trong tình hình có nhiều đảng phái đối lập và sự chống phá của các loại kẻ thù.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt nam trong những năm 1945-1946
đã khẳng định được sức mạnh và tính ưu việt của một thể chế chính trị mới trong lịch
sử phát triển của đất nước và con người Việt Nam.
Câu 5 : (Trang 178) Nội dung Đường lối kháng chiến đường lối kháng
chiến chống thực dân Pháp và đường lối cách mạng đảng ta của đại hội II (Trang
185) (1946-1954):
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
Ngày 19-12-1946, thay mặt Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra
lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Từ Tuyên ngôn độc lập đến Chỉ thị về Kháng
chiến kiến quốc (25-11-1945); Công việc khẩn cấp bây giờ (10-1946); Chỉ thị Toàn
dân kháng chiến ngày 12-12-1946 và lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh (19-12-1946), những quan điểm cơ bản của đường lối kháng chiến đã
hình thành. Giữa năm 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết một loạt các bài báo
tập hợp thành cuốn sách kháng chiến nhất định thắng lợi. Về cơ bản, đường lối chung
của cuộc kháng chiến tập trung ở một số nội dung sau:
Mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
Tính chất của kháng chiến lúc này vẫn là “cuộc cách mạng giải phóng. Cuộc
cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được hoàn độc lập”.
Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến được xác định ngay từ đầu là “ vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc”. Hai nhiệm vụ đó bổ sung, hỗ trợ cho nhau đưa sự nghiệp cách
mạng đến thắng lợi.
Lực lượng kháng chiến: Huy đông sức mạnh toàn dân tộc, các tầng lớp nhân
dân tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam và các tổ
chức quần chúng khác.
13
Phương châm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp được khái quát: Toàn
dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính để đưa cuộc kháng chiến đi đến
thắng lợi.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp về bản chất là đường lối chiến
tranh nhân dân Việt Nam. Trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc bổ sung, phát triển, cụ thể hóa đường lối kháng
chiến phù hợp với yêu cầu thực tế của từng giai đoạn lịch sử. Đường lối đó đã trở
thành ngọn cờ dẫn dắt và là động lực chính trị tinh thần đưa nhân dân ta tiến lên chiến
đấu và chiến thắng thực dân Pháp xâm lược.
Đường lối cách mạng đảng ta của đại hội II (Trang 185)
Đại Hội II của Đảng được tổ chức tại xã Vĩnh quang
Câu 6: (Trang 212 ) Anh/chị trình bày nội dung đường lối của Đảng ta trong
cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 giai phóng hoàn toàn
miền Nam thống nhất đất nước?
Sau khi thất bại điện Biên phủ trên không năm 1972 với 12 ngày đêm Đế quốc
Mỹ cuối đầu ký hiệp định Pari, trên đà thắng lợi đó đảng ta đã đề ra đường lối để giải
phóng Miền Nam. Nội dung đường lối của Đảng ta đã được thể hiện rõ ở Hội nghị lần
thứ 21 Ban chấp hành trung ương Đảng.
Hiệp định Pari đã ký kết, nhưng do mưu đồ của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài
Gòn nên miền Nam vẫn chưa được hòa bình. Mỹ tiếp tục chi viện cho chính quyền Sài
Gòn. Chính quyền tay sai ngang nhiên xé bỏ hiệp ước Pari, thực hiện nhiều hành động
khủng bố trong vòng tạm chiến và tiến hành lấn chiếm vùng giải phóng.
Trước tình hình đó, tháng 7/1973 Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành trung
ương Đảng đã ra bản Nghị quyết lịch sử. “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn
mới”
Khi phân tích tình hình cách mạng miền Nam, hội nghị dự kiến hai khả năng:
Một là, ta có thể từng bước buột địch thi hành Hiệp định Pari;
Hai là, ta lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng để đánh bại địch, giành thắng
lợi hoàn toàn. Trong bất kể tình huống nào, cách mạng miền Nam vẫn là con đường
bạo lực cách mạng, chiến lược của cách mạng miền Nam vẫn là chiến lược tiến công.
Hội nghị 21 đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là hoàn
thành cách mạng dân tộc, tập trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và tập đoàn tư sản
thống trị, tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ, đẩy lùi và thắng địch, từng bước xóa bỏ chế
độ thực dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc dân chủ thực sự, thực hiện hòa
hiệp dân tộc, thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện một miền Nam hòa bình, đôc
lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
Về con đường của Cách mạng miền Nam, Nghị quyết khẳng định: “Con đường
cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng” Bất kể trong tình hình nào, ta
14
cũng phải nắm vững thời cơ,giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh
hoạt đẻ đưa cách mạng miền Nam tiến lên.
Quán triệt tinh thần của nghi quyết 21, phong trào phản công chống lấn chiếm,
phá bình định phát triển mạng mẽ trên toàn miền Nam. Phong trào đấu tranh tại các đô
thị miền Nam thi hành Hiệp định Pari đòi dân sinh, dân chủ phát triển mạnh mẽ.
Thắng lợi toàn diện, trong năm 1973 đã tạo đà và đặt nền tảng cho bước ngoặt của
cuộc kháng chiến.
Hậu phương miền Bắc đã có những tiến bộ vượt bậc về kinh tế, quân sự, văn hó
XH. Tháng 10/1973 Bộ chính trị phê chuẩn kế hoạch của Bộ Quốc phòng về xây dựn
các quân đoàn chủ lực, giao thông vận tải chiến trường và công tác hậu cần được đẩy
mạnh hơn bao giờ hết, 30 vạn cán bộ, thanh niên xung phong và hàng chục vạn thanh
niên đã được gọi nhập ngũ trong năm 1974.
Thực hiện Nghị Quyết lần thứ 21 BCH trung ương khóa III, cả hai miền Nam
và miền Bắc điều thi đưa chiến đấu và lao động sản xuất với tinh thần giải phóng miền
Nam, thồng nhất đất nước. Sau một thời gian chuẩn bị, từ ngày 30/9/1974 đến ngày
8/10/1974, Bộ Chính trị họp bàn về chủ trương giải phòng miền Nam. Tại Hội nghị
này, Bộ Chính trị đã phê chuẩn kế hoạch hai năm và kế hoạch tác chiến năm 1975.
Từ ngày 8/12/1974 đến ngày 8/1/1975, Bộ Chính trị tiếp tục họp (lần 2). Kết
thúc hội nghị, bộ Chính trị chỉ rõ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng
hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thcs cuộc kháng chiến cống mỹ.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy bắt đầu bằng Chiến dịch Tây nguyên với trận
mở đầu vào thị xã Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975.
Sau khi làm chủ Buôn Ma Thuột và toàn bộ Tây Nguyên, tiêu diệt và làm tan rã
toàn bộ lực lượng quân Đoàn II và hệ thống chính quyền ngụy ở quân khu II. Ngày
18/3/1975, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành tổng
tiến công chiến lược hoàn thành kế hoạch 2 năm (1975-1976) ngay trong năm 1975.
Ngày 21/3/1975, Chiến dịch Huế-Đà Nẵng bắt đầu. Ngay đêm 25/3/1975, Bộ
Chính trị bổ sung quyết tâm chieens lược : giải phòng miền Nam trước mùa mưa.
Ngày 26/3/1975 giải phóng Huế
Ngày 29/3/1975 giải phóng Đà Nẵng
Trên đà thắng lợi liên tiếp, Hội nghị Bộ Chính trị 31/3/1975 quyết định giải
phóng miền Nam trong tháng 4/1975.
Sau khi tạo thế và lực, ngày 26/4/1975 Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh giải
phóng Sài Gòn – Gia Định bắt đầu. Năm cánh quân từ năm hướng lấy điểm đến là
trung tâm Sài Gòn kết hợp với pháo lệnh, xe tăng và không quân đã nhanh chống tiêu
diệt hàng chục vạn quân địch, đề bẹp các trung tâm đề kháng, phòng thủ để tiến công
vào thành phố. Vào lúc 11 giờ 30 phúc ngày 30/4/1975 cờ chiến thắng đã được cắm
trên dinh độc lập.
15
Câu Đại Hội 4 Trang 269 Nội dung đường lối cách mạng XHCN 1970
Câu 7: Bằng kiến thức lịch sử Đảng, anh/chị hãy chứng minh Đảng Cộng
sản Việt Nam ra dời là sản phẩm kết hợp ba yếu tố Chủ nghĩa Mac-Lê nin với
phong tào công nhân và quá trình yêu nước?
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam lâm vào khủng hoảng về
đường lối cứu nước. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước
– Con đường cách mạng vô sản dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê nin.
Với sự chuẩn bị công phu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, tháng 2 năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập, đảm nhiệm
vai trò lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của
cách mạng Việt Nam vì:
+ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu cho cuộc sống đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới đó là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo
duy nhất đối với cách mạng Việt Nam.
+ Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng
đúng đắn đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo của các phong trào
yêu nước đầu thế kỷ XX. Sự kiện thành lập Đảng là bước ngoặt vô cùng quan trọng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản Việt Nam đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt
Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
+ Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho
những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam.
+ Sự ra đời của Đảng khẳng định con đường đi lên của dân tộc Việt Nam từ
năm 1930 là con đường cách mạng vô sản, gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội là con đường đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử.
Nhưng tại sao Nguyễn Ái Quốc lại nêu thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi nó
là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều này là do những lý do sau:
Một là, Phong trào yêu nước có vị trí, vaqi trò cực kì to lớn trong quá trình phát
triển dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, có vai trò cực kì to lớn và là nhân tố quyết định sự nghiệp chống
giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân.
Chỉ tính riêng trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp độ hộ, phong trào yêu nước ở nước
ta đã dâng lên mạnh mẽ như những lớp sóng cồn nối tiếp nhau. Phong trào yêu nước
liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã kết thành chủ
nghĩa yêu nước và trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.
Hai là, Phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước bởi vì hai phong
trào đó đều có mục tiêu chung. Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và có phong
trào đấu tranh, kể cả lúc đầu là đấu tranh kinh tế, tự phát và sau này là đấu tranh chính
16
trị thì phong trào công nhân ngay từ đầu đã kết hợp được và kết hợp liên tục với
phong trào yêu nước. Có sự kết hợp này là do xã hội nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản
giữa toàn thế giới dân tộc Việt Nam với bọn Đế quốc và tay sai. Mâu thuẫn giai cấp
nằm trong mâu thuẫn dân tộc. Vì vậy, giữa hai phong trào dều có mục tiêu chung, yêu
cầu chung: giải phong dân tộc, làm cho Việt Nam được độc lập, xây dựng đất nước
hùng cường. Hơn nữa chính bản thân phong trào công nhân, xét về nghĩa nhất định,
cũng mang nội dung phong trào yêu nước, vì phong trào đấu tranh của công nhân
không những chống lại ách áp bức giai cấp mà còn chống lại ách áp bức dân tộc.
Ba là, Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong
trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỉ XX, nông dân
Việt Nam chiếm khoảng 90% dân số. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự nhiên
của giai cấp công nhân. Đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam do điều kiện lịch sử chi phối,
không có công nhân nhiều dời mà họ xuất thân trực tiếp từ nông dân nghèo. Giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân hợp lại thành quân chủ lực của cách mạng.
Bốn là, Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trong thúc
đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong trào yêu
nước Việt Nam đầu thế kỉ XX ghi dấu ấn đậm nét bởi vai trò của trí thức, tuy số lượng
không nhiều nhưng lại là “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực
dân Pháp xâm lược và bọ tay sai cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất
nước. trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX, một trong những nét nổi bậc nhất là sự
bùng phát các tổ chức yêu nước mà thành viên là những người lãnh đạo tuyệt đại đa số
là trí thức yêu nước căm giặn bọn cướp nước và bọn bán nước. Là những người rất
nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội đón nhận những “luồng gió
mới” về tư tưởng của các trào lưu trên thế giới dội vào Việt Nam.
Câu 8. Bằng kiến thức Lịch sử Đảng anh/chị hãy chứng minh Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là tất yếu khách quan?
* Hoàn cảnh lịch sử thế giới: Từ nữa thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ
giai đoạn tự do cạnh tranh phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tiến hành xâm
chiếm các nước thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ra đời. Mâu thuẫn mới xuất hiện:
Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc.
- Phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh
mẽ, tác động sâu sắc đến nước ta.
- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) và sự ra đời của Quốc
tế Cộng sản (Quốc tế III-1919) làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, mở đầu thời đại
mới thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới.
Chính những yếu tố đó khẳng định cách mạng muốn thành công phải có sự lãnh
đạo của Đảng.
* Tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam:
17
- 1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Đến năm 1897, Thực
dân Pháp hoàn toàn thành công cuộc xâm chiếm Bình Định Việt Nam và bắt đầu xác
lập chế độ cai trị, khai thác thuộc địa Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực:
+ Về chính trị: Điển hình là chính sách “Chia để trị”.
+ Về kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành 2 cuộc khai thác thuộc địa: Lần thứ nhất
(1897-1914), lần thứ hai (1919-1929)
+ Về văn hóa: Thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, thực hiện chính
sách ngu dân và ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới và
Việt Nam.
- Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội
Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc.
+ Về tính chất xã hội: Từ xã hội phong kiến thành xã hội thuộc địa nửa phong
kiến.
+ Về mâu thuẫn cơ bản trong xã hội: Nổi bậc hai mâu thuẩn: Mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân với
địa chủ phong kiến.
+ Về cơ cấu giai cấp trong xã hội: Giai cấp cũ (Địa chủ phong kiến và nông
dân) bị phân hóa; xuất hiện những giai cấp mới (công nhân, tư sản và tiểu tư sản).
- Phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân diễn ra mạnh mẽ (Cuộc đấu
tranh theo lập trường phong kiến, nông dân chủ tư sản, tiểu tư sản), nhưng do chưa có
một đường lối chính trị đúng đắn, thiếu một tổ chức với tư cách là một chính đảng
lãnh đạo và chưa tập hợp được rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào lực lượng đấu tranh
cho nên các phong trào đấu tranh đã lần lượt thất bại. Đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt
Nam lâm vào khủng hoảng về đường lối cứu nước và lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp và sự thất thế của triều đình nhà
Nguyễn, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xã hội Việt Nam dấy lên nhiều phong trào
yêu nước với hai khuynh hướng tư tưởng chủ yếu, đó là:
- Các phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến:
+ Phong trào Cần Vương với các cuộc khởi nghĩa: khởi nghĩa Ba Đình (18811887), khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892), khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896)…
+ Cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo ở miền
núi phía Bắc (1897-1913).
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
+ Xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu hướng cải cách của Phan Châu
Trinh.
Phan Bội Châu chủ trương bạo động để giành độc lập dân tộc nhưng dựa vào sự
giúp đỡ bên ngoài (dựa vào Nhật để đánh Pháp), thiết lập một nhà nước theo mô hình
quân chủ lập hiến như của Nhật (1905) và sau đó theo chế độ cộng hòa tư sản ở Trung
Quốc (1912).
18
Phan Châu Trinh chủ trương bất bạo động, tiến hành cải cách văn hóa, mở
mang dân trí, làm cho dân giàu, nước mạnh, nhưng lại dựa vào nhà nước “Bảo hộ
Pháp”.
+ Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên (19191923).
+ Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp
dưới (1925-1926).
+ Phong trào Cách mạng quốc gia tư sản của Việt Nam quốc dân Đảng do
Nguyễn Thái Học đứng đầu (1927-1930) và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2/1930).
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt
Nam đã đứng lên đấu tranh chống Pháp, nhưng các phong trào đấu tranh đều thất bại,
xã hội Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước.
- Trước yêu cầu cấp bách phải tìm đường cứu nước mới, ngày 5 tháng 6 năm
1911 Nguyễn Ái Quốc đã lên đường sang các nước phương tây, nơi có khoa học, kỹ
thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, xem các nước làm thế nào để rồi trở
về giúp đồng bào mình thoát khỏi ách nô lệ. Quá trình chuẩn bị cho những điều kiện
cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có thể chia
thành hai giai đoạn sau:
+ Từ 1911 đến 1920: Giai đoạn đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Người đi đến nhiều nơi trên thế giới để tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn và khảo sát
cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu
bước chuyển biến về tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, gắn liền với tư tưởng
yêu nước với lí tưởng của chủ nghĩa cộng sản, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa
Mác – Lênin. Người quyết định đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của
cách mạng vô sản.
+ Từ 1921 đến 1930: Nguyễn Ái Quốc vừa hoạt động thực tiễn, vừa tích cực
nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào cách mạng ở trong
nước, trực tiếp chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện chủ yếu qua nội dung của hai tác
phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp và Đường Kách Mệnh” với những quan điểm cơ
bản sau:
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách
mạng vô sản.
Cách mạng giải dân tộc các thuộc địa có quan hệ mật thiết với cách mạng vô
sản ở chính quốc.
Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “Dân tộc cách mạng”, đánh đuổi đế
quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do.
Cách Mạng muốn thành công phải có lực lượng của toàn dân tham gia, vì cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải đoàn kết dân tộc, phải tổ chức quần chúng,
lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng hình thức và khẩu hiệu thích hợp.
19
Sự cần thiết phải có đảng cách mạng để lãnh đạo quá trình đấu tranh cách
mạng. Đảng có vững cách mạng mới thành công…
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc
trong những năm 20 của thế kỷ XX được truyền bá vào Việt Nam làm cho phong trào
công nhân ở nước ta phát triển nhanh chóng từ tự phát đến tự giác, thúc đẩy những
điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng và chín muồi.
Chính vì thế Đảng CS Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan vì:
- Phù hợp với quy luật của lịch sử: Chủ Nghĩa Đế quốc xâm lược hầu hết các
nước nhỏ yếu trên thế giới và biến các nước này thành thuộc địa. Làm gay gắt thêm
mâu thuẫn vốn có của CNTB, đồng thời nảy sinh mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa
các dân tộc thuộc địa với CNĐQ, các phong trào chống đế quốc diễn ra nhưng đều
thất bại.
Năm 1917 cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi đã làm biến đổi
sâu sắc tình hình thế giới, Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ làm ảnh hưởng và
tác động sâu sắc tới cách mạng vô sản diễn ra ở các nước tư bản, mà còn lan tỏa sâu
rộng ở các nước thuộc địa cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự
giải phóng dân tộc, tác động sâu sắc đến phong trào yêu nước ở Việt Nam, và đã
chứng minh rằng cách mạng muốn thành công thì phải có Đảng lãnh đạo.
+ Đáp ức yêu cầu thực tiễn của cách mạng:
Tất cả các phong trào đấu tranh của Việt Nam theo nhiều khuynh hướng khác
nhau như phong trào phong kiến, dân chủ tư sản, tiểu tư sản đều thất bại, nguyên nhân
chính là do khủng hoảng về đường lối và thiếu sự lãnh đạo của Đảng.
+ Phù hợp với sự chọn lựa của lịch sử và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc:
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình tìm đường cứu nước người đã lựa
chọn, nghiên cứu, tìm tòi cuộc cách mạng vô sản… nhưng phong trào của cách mạng
Việt Nam đều thất bại… đòi hởi phải tìm con đường cứu nước mới.
Tháng 7/1920 người đã đọc Luận cương Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa, tìm ra con đường cách mạng Việt Nam “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc thì không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Năm 1927 với tác phẩm Đường Kách mệnh Người đã khẳng định cách mạng
thành công thì phải có Đảng lãnh đạo, với cách mạng Việt Nam thì cần phải có Đảng.
Sự truyền bá lý luận Mác – Lênin vào cách mạng Việt Nam làm xuất hiện cùng một
lúc ba tổ chức Đảng… đòi hởi bức xúc là phài hợp nhất ba tổ chức Đảng thành một
chính đảng.
+ Đảng ta ra đời là tất yếu khách quan:
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu cho cuộc đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới đó là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối
với cách mạng Việt Nam.
20
Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng
đúng đắn đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và lãnh đạo của các phong trào
yêu nước đầu thế kỷ XX. Sự kiện thành lập Đẩng là bước ngoặt vô cùng quan trọng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản Việt Nam đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt
Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho
những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng khẳng định con đường đi lên của dân tộc Việt Nam từ năm
1930 là con đường cách mạng vô sản, gắn mục tiêu độc lập với chủ nghĩa xã hội là
con đường đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử.
Tóm lại Từ những nội dung nêu trên cho thấy ĐCSVN ra đời là yếu tố khách
quan.
Thực tiễn CMVN hơn 80 năm qua đã chứng minh được điều đó cho nên
ĐCSVN ra đời là một yếu tố khách quan.
Câu 9: Trình bày hoàn cảnh lịch sử với mối quan hệ biện chứng giữa hai
miền được Đảng ta thông qua Đại Hội III toàn quốc của Đảng (9/1960)?
* Hoàn cảnh lịch sử:
a. Tình hình thế giới:
Sau Thế giới chiến tranh thứ hai, Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa bước vào giai đoạn xây dựng đất nước và đạt được những thành tựu kì to lớn.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới diễn ra mạnh mẽ với những bước
tiến mới.
b. Tình hình trong nước:
Trong điều kiện đất nước tạm chia làm hai miền chiến lược khác nhau do Đảng
lãnh đạo. Miền Bắc tiến hành xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ Quốc.
Miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp lạc hậu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Miền Bắc đi lên xây dựng CNXH trong điều kiện quốc tế thuận lợi, nhưng cũng
không ít khó khăn đặc biệt là quá trình cải cách ruộng đất 1954 còn mắc phải một chút
sai lầm khuyết điểm.
Từ Đại hội II của Đảng (1951) đến cuối những năm 50 của thế kỉ XX, tình hình
thế giới và trong nước chuyển biến quan trong và có lợi cho công cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân ta và của nhân dân lao động toàn thế giới.
- Phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân ở các nước tư bản và
phong trào hào bình trên thế giới đã có sự phát triển vượt bậc, só ánh lực lượng trên
thế giới , ưu thế rõ rệt thuộc về lực lượng xã hội chủ nghĩa.
- Ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta
giành được những thắng lợi lịch sử.
21
+ Miền Bắt Việt Nam được hoàn toàn giải phóng đã chuyển sang giai đoạn cách
mạng xã hội chủ nghĩa; hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục và phát triển kinh tế,
văn hóa, hàn gắn vết thương chiến tranh; hoàn thành kế hoạch ba năm cải tọa và phát
triển kinh tế văn háo… Miền Bắc ngày càng được củng cố để trở thành cơ sở vũng
mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
+ Cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam chống Đế quốc Mỹ và tay
sai, mặc dù bị khủng bố rất dã man, vẫn giữ vũng và không ngừng mở rộng. Sự
nghiệp đấu tranh của nhân dân cả nước nhằm thực hiện thống nhất đất nước phát triển
mạnh mẽ. Tình hình ấy đã hình thành hai nhiệm vụ cách mạng chiến lược khác nhau
đòi hỏi Đảng ta phải khẳng định đường lối chiến lược bước đi, chính sách và kiện toàn
sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng.
Nội dung cơ bản của Đại hội III của Đảng:
Đại hội III của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960
Với cương vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch HCM đã đọc lời khai mạc Đại hội. Lời
khai mạc đã khái quát nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và chỉ rõ “ Đại hội lần
này là đại hội xây dựng CNXH ở Miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước
nhà”.
Tiếp đó thay mặt Ban chấp hành trung ương Đảng, Đồng chí Lê Duẩn, ủy viên
bộ chính trị, đọc báo cáo chính trị trước Đại hội.
Báo cáo vạch rõ những biến đổi quan trọng của tình hình cách mạng thế giới và
cách mạng của nước ta, vạch rõ tình hình chung và nhiệm vụ của Đảng trong giai
đoạn cách mạng mới. Cách mạng ở hai Miền đều nhằm mục tiêu chung là thực hiện
hòa bình, thống nhất tổ quốc.
Vì vậy nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là : Tăng cường đoàn kết toàn dân,
kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở Miền Bắc, đẩy
mạnh cách mạng DTDC ở Miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc
lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần thiết thực tăng cường phe XHCN, bảo vệ hòa bình ở Đông
Nam Á và thế giới.
Báo cáo đã phân tích tình hình ở 2 miền Nam, Bắc có 2 chế độ chính trị khác
nhau, từ đó xác định vai trò quan trọng, vị trí cách mạng ở 2 miền : Nhiệm vụ tiến
hành cách mạng XHCN ở miền Bắc là “ Nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát
triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân
dân ta”. Miền Bắc là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước.
Cách mạng miền Nam “ có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa
bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc DCND trong cả
nước”
Báo cáo nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Namvaf chỉ ra rằng, cuộc đấu
tranh cách mạng của ND ta ở miền Nam còn lâu dài, gian khổ là một quá trình phức
tạp kết hợp nhiều hình thức đấu tranh linh hoạt, từ thấp đến cao, hợp pháp và không
22
hợp pháp và lấy việc xây dựng, củng cố phát triển lực lượng cách mạng và quần
chúng làm cơ sở.
Báo cáo trình bày đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc xuất phát từ những
đặc điểm của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH không qua giai đoạn
phát triển TBCN. Trên cơ sở đó, Báo áo chỉ rõ nội dung cơ bản của công cuộc cải tạo
XHCN và xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Báo cáo đề ra nhiệm vụ à phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965) nội dung cơ bản là phải ra sức phấn đấu thực hiện một bước công nghiệp
hóa XHCN, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỷ thuật của CNXH, đồng thời hoàn
thành cải tạo XHCN ở miền Bắc.
Báo cáo phân tích nhiệm vụ của Nhà nước dân chủ nhân dân trong giai đoạn
miền Bắc quá độ lên CNXH và đề ra yêu cầu phải không ngừng củng cố và tăng
cường Nhà nước dân chủ nhân dân, xem đó là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng trong
công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH.
Về đối ngoại nhiệm vụ quốc tế quan trọng của Đảng và Nhà nước là tiếp tục
tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong khối cộng đồng XHCN, tăng cường sự thống
nhất trong phong trào công sản quốc tế, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu và
hành động phá hoại sự đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp xây dựng miền Bắc và đấu traanh
của nhân dân miền Nam.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Báo cáo đã rýt ra những bài học chủ yếu của CM
nước ta trong ba mươi năm qua có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn trong giai đoạn mới của
cách mạng.
Đại hội nghe bản báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ Đảng, báo cáo bổ sung về
nhiệm vụ và phương hướng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân
(1960-1965) do đồng chí Nguyễn Duy Trinh trình bày.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương gồm 47 ủy viên chính thức. Đồng
chí Hồ chí Minh được bầu làm chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí
thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Ý nghĩa của Đại hội:
Đại hội III của Đảng lao động Việt Nam thể hiện sự đoàn kết, nhất trí trong toàn
Đảng về đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Đó là khối
hạt nhân đoàn kết toàn dân, tạo nên nguồn sức mạnh to lownscos tác dụng quyết định
đối với sự phát triển của cách mạng nước ta trên đường đi tới hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và quá trình quá độ lên CNXH ở miền Bắc.
Trong diễn văn bế mạc Đại hội, Chủ tịch HCM đã khẳng định: “ Đại hội lần thứ
III đã đưa kháng chiến đến thắng lợi. Chắc chắn Đại hội lần thứ III sẽ là nguồn ánh
sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi CNXH ở
miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhiệm vụ cách mạng hai miền được Đảng ta
thông qua Đại hội III toàn quốc của Đảng (9//1960).
23
Hai miền với 2 chiến lược khác nhau do Đảng lãnh đạo, miền Bắc tiến hành
cách mạng XHCN, miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Trong đó cách mạng XHCN miền Bắc có
vai trò quyết định đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam, đồng thời
miền Bắc chuẩn bị đầy đủ những điều kiện về vật chất và tinh thần cho cả nước tiến
lên CNXH sau này. Miền Nam là tuyền tuyến lớn, cách mạng miền Nam có vai trò
quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.
Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu
bỏ qua chế độ TBCN. Do vậy, điểm xuất phát của miền Bắc rất thấp (nông nghiệp:
làm ăn cá thể, nhỏ bé, manh mún, kỷ thuật lạc hậu; Công nghiệp: mắt cân đối…).
Trình độ dân trí thấp, cán bộ có trình độ đại học và trung học chuyên nghiệp chưa đáp
ứng được yêu cầu cuargiai đoạn cách mạng mới, cán bộ quảng lý nnawng lực còn hạn
chế … tình hình xã hội miền Bắc phức tạp (các thế lực thù địch, chống phá, dụ dỗ,
cưỡng ép, đồng bào công giáo di cư vào Nam….).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến
ngày 10/9/1960. Dự đại hội có 522 đại biểu chính thức và dự khuyết, thay mặt cho
hơn 50 vạn đảng viên trong nước. Nhiều đoàn đại biểu của các đảng anh em đã đến dự
đại hội.
Sau khi phân tích tình hình nước ta từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, Đại hội đã nêu lên ba đặc điểm của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá
độ. Trên cơ sở đó, đại hội đề ra chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
mới.
Một là: Tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Hai là: giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
hoàn thành cách mạng DTDC miền Nam.
Hai chiến lược cách mạng này có quan hệ mật thiết, tác động, thúc đẩy lẫn nhau
cùng phát triển để thực hiện mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là độc lập, hòa
bình, thống nhất Tổ quốc.
Câu 10: Anh/chị hãy trình bày hoàn cảnh lịch sử và nội dung đường lối đổi
mới của Đảng ta thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (T12/1986).
Hoàn cảnh lịch sử:
Về kinh tế: Sự khủng hoảng kinh tế của các nước XHCN.
Các nước tiến hành đổi mới cải tổ.
Các thế lực thù địch lợi dụng sai lầm của các nước XHCN để chông phá quyết
liệt CNXH.
Trong nước: Khủng hoảng về KT-XH.
Mô hình CNXH không còn thích hợp, cần phải đổi mới
Đại hội VI của Đảng (T12/1986) hoạch định đường lối đổi mới:
24
Đại hội họp từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986 tại thủ đô Hà Nội. Đại hội diễn ra
trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó
khăn, thách thức như:
- Việt nam vẫn chụi tác động của chính sách bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ.
- Kinh tế phát triển chậm, sản xuất trì truệ do sai lầm chủ quan duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan, nóng vội trong cải tạo XHCN, xóa bỏ các thành phần kinh
tế phi XHCN.
Trải qua thời kỳ khảo nghiệm thực tiễn, tìm tòi con đường đổi mới không ít
khuyết điểm, vấp váp nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cũng có được những
thành tựu và kinh nghiệm bước đầu.
Tình hình các nước XHCN cũng có nhiều khó khăn và đứng trước yêu cầu
khách quan phải cải tổ, cải cách. Công cuộc cải cách ở Trung Quốc đạt được những
thành tựu bước đầu
Thực tiễn đó dòi hỏi phải đổi mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng,
đối với vận mệnh của dân tộc.
Nội dung của đường lối đổi mới được Đảng ta thông qua Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (T12/1986)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 15
đến ngày 18/12/1960 tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã nghe và thảo luận Báo cáo chính
trị của Ban chấp hành Trung ương đảng khóa V do Tổng Bí thư Trường Trinh trình
bày và nhiều văn kiện quan trọng khác. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức, 49 ủy viên dự khuyết. Bầu bộ chính trị
gồm 13 ủy viên chính thức, 01 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được
bầu làm tổng Bí thư. Các đồng chí Trường Trinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức THọ là cố
vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Đổi mới cơ cấu kinh tế có chính sách sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế,
xác định nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng cuat hời kỳ quá độ.
Cùng với thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng còn chủ trương
điều chỉnh cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thưc,
thực phẩm, hàng tiêu dùng,hàng xuất khẩu. Bố trí lại cơ cấu sản xuất, chú trọng vị trí
hàng đầu của sản xuất nông nghiệp.
Đổi mới cơ cấu quản lý: Xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính
bao cấp từ lâu đã không tạo động lực phát triển, kìm hãm sản xuất, chưa chú ý tới
quan hệ hàng hóa, tiền tệ, hiệu quả kinh tế và với bộ máy quản lý cồng kềnh, những
cán bộ quản lts kém năng động. Thực hiện cơ chế quản lý mới chú trọng hạch toán
kinh doanh, hiệu quả kinh tế, chú trọng tính kế hoạch, đồng thời sử dụng đúng đắn
quan hệ hàng hó, tiền tệ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI chủ trương: “ Công bố chính sách khuyến
khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành
và cơ sở đòi hỏi kỷ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật đầu tư,
25