Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Chính sách đào tạo trọng dụng nhân tài của vua lê thánh tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.01 KB, 8 trang )

Chính sách đào tạo trọng dụng nhân tài của Vua Lê Thánh Tông
27/02/2017

Lê Thánh Tông là một vị minh quân. Các nhà sử học các thời đều đã đánh giá như vậy. Như một
điều rất biện chứng, minh quân ấy cũng xây dựng cho mình một lực lượng hiền thần để trợ giúp
và phò tá. Nghiên cứu về sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông để đúc rút ra những bài học cho hậu
thế sẽ không thể toàn diện nếu chúng ta không nghiên cứu thái độ, cách ứng xử của vua Lê
Thánh Tông và vương triều dưới thời vua Lê Thánh Tông với hiền tài của quốc gia mà nói theo
ngôn ngữ hiện nay, đó chính là chính sách đào tạo, trọng dụng nhân tài.
1.  Những  khía cạnh cơ  bản của chính  sách đào tạo, trọng dụng  nhân tài của vua Lê Thánh Tông
Dựa trên các tư  liệu lịch sử và kết quả  nghiên cứu đã được công bố, có thể  thấy, chính sách đào tạo, trọng
dụng   nhân   tài   của   vua   Lê   Thánh   Tông   thể   hiện   ở   những   điểm   cốt   lõi   sau   đây:
Thứ  nhất, bày tỏ minh thị cam kết trọng dụng nhân tài. Sử  cũ chép rằng, vào năm Nhâm Ngọ  (1462), khi
mới lên ngôi được 2 năm, vua Lê Thánh Tông có sắc dụ cho thượng thư các bộ quan trọng là Bộ lại (Thượng
thư   Lại  bộ   Nguyễn Như   Đổ), Bộ  hình (Thượng thư  Hình bộ  Trần Phong), Bộ  binh (Thượng thư  Binh  bộ
Nguyễn Vĩnh Tích), Bộ hộ (Thượng thư Hộ bộ Nguyễn Cư Pháp) rằng  “Nghe Tư Mã Quang có nói rằng: Người
quân tử là cội gốc để tiến lên trị bình, kẻ tiểu nhân là thềm bậc để đi đến họa loạn. Ta và các người thề với trời
đất dùng người quân tử  bỏ kẻ tiểu nhân, ngày đêm chăm chắm nhớ  lấy, các ngươi chớ  lãng quên” .[1] Sử  cũ
cũng chép điều tâm niệm của vua Lê Thánh Tông mong muốn những bề tôi của mình là bậc hiền tài. Vua từng
dụ Thượng thư Hộ bộ Nguyễn Cư Đạo (vốn là bạn của vua từ khi còn thơ  ấu) rằng “ta lúc ít tuổi, làm bạn với
ngươi, khi lên làm vua, người làm quan Kinh diên. Nói về thần hạ thì người đối với ta là bạn tri kỷ, là bạn học
thức… Ngươi nên hết lòng hiệp sức… chí công vô tư, ngăn lấp hối lộ. Được như  thế  thì ta được tiếng là vua
biết người, người được tiếng là tôi hết trung, vinh hiển cha mẹ, vẻ  vang danh tiếng, r ạng r ỡ trong sử sách,
nghĩa lại chẳng khoái lắm sao! Nếu không làm được như  thế, thì ta là vua không biết người, mà người là tôi
làm   vì.   Trong   hai   điều   ấy,   người   chọn   đằng   nào   thì   chọn.”[2]
Thứ hai, củng cố hệ thống giáo dục, khuyến khích việc học tập, bồi dưỡng tài năng: hiểu thấu lẽ nhân tài
phải do rèn luyện, bồi dưỡng, đào tạo mới thành, vua Lê Thánh Tông rất chú ý tới việc tạo dựng môi trường
ươm nhân tài thông qua việc thiết lập hệ thống giáo dục. Vua Lê Thánh Tông đã trực tiếp viết “Chiếu khuyến
học”. Ông cho lập nhà Thái Học để tạo nơi ăn, chốn ở cho các sĩ tử về Thăng Long thi hội, cấp học bổng Quốc
Tử Giám cho học trò nghèo học giỏi và siêng năng, đặt ra các quan coi việc học (giáo thụ) tại các châu, lộ, in
và phát sách cho các địa phương.[3] Trên thực tế, nhiều lần vua Lê Thánh Tông trực tiếp ra đề cho các thí sinh


thi   đình,   hỏi   về   việc   trị   quốc   để   chọn   người   tài.[4]
Thứ  ba, tổ  chức thi công bằng để  tuyển chọn người tài làm nguồn bổ  nhiệm quan lại :[5] Kế  tục kinh
nghiệm hay của các đời trước, Lê Thánh Tông rất coi trọng việc tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài cho
quốc gia. Khác với các đời trước, Lê Thánh Tông cho tổ  chức kỳ thi tuyển chọn nhân tài cho quốc gia với tần
suất nhiều hơn, nhằm để nhân tài có thêm cơ hội phát lộ. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết “từ năm Nhâm Tuất
[1442] đến năm Quý Mùi [1463], hoặc 6 năm một khoa thi, hoặc 5 năm một khoa, 3 năm một khoa thì năm
Bính Tuất [1466] này mới bắt đầu”.[6] Lê Thánh Tông chính là người cho dựng tấm bia tiến sỹ tại Văn miếu
Quốc Tử  giám vào năm 1484 trong đó chứa đựng câu nói bất hủ  “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
[7] Ông cũng là vị vua đặt ra lệ “vinh quy bái tổ” (từ năm 1481) để tôn vinh những người đỗ đại khoa. Số tiến sĩ
tuyển chọn được trong 38 năm trị vì của Lê Thánh Tông là 501 vị, bằng một nửa số tiến sĩ mà các triều vua Lý,
Trần,   Hồ   tuyển   chọn   được   trong   398   năm   trước   đó.[8]
Đánh giá về  khoa cử thời Hồng Đức, sử cũ có ghi “Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ
rộng rãi, cách chọn người công bằng: đời sau càng không thể theo kịp. Kẻ sĩ bấy giờ học được rộng mà không
cần phải tìm tòi tỉ  mỉ. Tài được đem ra  ứng dụng mà không bỏ  rơi. Trong nước không bỏ  sót nhân tài. Triều
đình
 
không
 
dùng
 
người
 
kém”.[9]
Vua chọn quan, lại chủ  yếu qua thi cử  chứ không tuyển chọn người theo dòng máu xuất thân, mà nói như
ngôn ngữ  hiện nay là để  chọn “người tài chứ  không phải chọn người nhà”. Người trong hoàng tộc mà không
có thực tài thì có thể được phong quan, tước nhưng chỉ là các quan có hàm để  được ăn lộc chứ  không nắm
thực quyền. Nói theo ngôn ngữ của quản trị hiện đại là vì việc mà tìm người xử lý chứ  không phải nhìn người
để   giao   việc.   Quan   lại   có   trình   độ   học   vấn   cộng   với   thực   tài   thì   mới   được   bổ   nhiệm. [10]
Theo Lê Quý Đôn “khoảng giữa niên hiệu Hồng Đức, mở  rộng khoa cử, tuyển nhiều nhân tài, sĩ tử  … mong
sao thi đỗ để ra làm quan. … phương pháp thi cử nghiêm ngặt, người điềm tĩnh được tiến lên, người cầu may



bị   sàng   sảy,   cho   nên   người   tại   chức   ít   thói   cầu   cạnh   mà   trong   nước   biết   quý   danh   nghĩa” .[11]
 Trong thực tế, nhiều người đỗ  đạt cao đã được vua trao cho những chức vụ  quan trọng. Chẳng hạn, Thân
Nhân Trung (đỗ  tiến sĩ năm 1469) được giao nhiều trọng trách như  Thượng thư  bộ  Lễ, Thượng thư  bộ  Lại,
Đông các Đại học sĩ kiêm Tế tửu Quốc tử giám. Trạng nguyên Lương Thế  Vinh (đỗ  trạng nguyên năm 1463)
từng   được   trao   giữ   chức   Trực   học   sĩ,   Thị   thư   và   Chưởng   viện   sự   ở   Hàn   lâm   viện.
Ngoài ra, vua Lê Thánh Tông rất chú ý tới việc bảo đảm kỷ  luật các kỳ  thi để  các kỳ  thi trở  thành kênh chọn
người tài cho vương triều. Điều 98 Bộ luật Hồng Đức quy định rõ “quy chế thi cử đối với quan chủ khảo”, theo
đó “các quan chủ ty chấm thi cùng với người dự thi có thân thuộc, cần phải hồi tỵ mà không từ chối thì phạt 50
roi, biếm một tư; nếu là các quan di phong,[12] đằng lục[13] thì phải phạt 80 trượng. Thi hương thì được giảm
một bậc. Các khảo quan khác (biết có sự không hồi tỵ này) mà cứ chấm quyển thi cùng là quan di phong, đằng
lục đều được giảm một bậc. Nếu không nên hồi ty mà hồi ty thì cũng xử tội như thế.”[14] Điều 99 Bộ luật Hồng
Đức cũng quy định “những cử  nhân vào thi hội mà mượn người làm hộ  bài thi, cùng người làm hộ  đều phải
biếm 3 tư; thi hương thì phải biếm hai tư. Người giấu sách vở  đem vào trường thi phải phạt 80 trượng. ”[15]
Thứ tư, thiết lập chế độ đãi ngộ quan lại công bằng, tùy theo tính chất công việc khó dễ  mà định đoạt .
Năm Hồng Đức thứ  tám (1477), vua Lê Thánh Tông ban Chiếu về  chế  độ  bổng lộc trong đó nêu rõ “lộc để
khuyên người có công, tùy theo công việc nặng hay nhẹ… các quan văn, quan võ trong kinh và ngoài các đạo
chức việc không giống nhau, thì việc cấp lộc nên làm cho tỏ  rõ việc nặng nhọc, việc nhàn rỗi… Quan trong
kinh, nếu giữ chức phiền kịch thì cấp bổng lộc tiến lên hai bậc, chức phiền kịch vừa tiến lên một bậc; chức giản
dị lùi xuống một bậc, chức giản dị lắm lùi xuống hai bậc.” [16] Cụ thể hơn, Lê Thánh Tông quy định chế độ đãi
ngộ với quan lại như sau:

TT

Phẩm
Chánh nhất phẩm
Tòng nhất phẩm
Chánh nhị phẩm
Tòng nhị phẩm[17]

Chánh tam phẩm
Tòng tam phẩm
Chánh tứ phẩm
Tòng tứ phẩm
Chánh ngũ phẩm
Tòng ngũ phẩm
Chánh lục phẩm
Tòng lục phẩm
Chánh thất phẩm
Tòng thất phẩm
Chánh bát phẩm
Tòng bát phẩm
Chánh cửu phẩm
Tòng cửu phẩm
Giản nha môn
Thái giản nha môn
Nhàn tản nha môn
Thái nhàn tản nha môn

Chế độ đãi ngộ
80 quan
74 quan
68 quan
62 quan
56 quan[18]
52 quan
48 quan
44 quan
40 quan
36 quan[19]

33 quan
30 quan
27 quan
24 quan
21 quan
18 quan[20]
16 quan
14 quan
12 quan
10 quan
8 quan
6 quan[21]

         
Thứ năm, trọng dụng hiền tài cũng đồng nghĩa với việc đặt yêu cầu, tiêu chuẩn rất cao đối với hiền tài
trong quá trình được trọng dụng: Có thể nói, góc nhìn hiền tài của vua Lê Thánh Tông rất biện chứng, toàn
diện và rất độc đáo. Trọng dụng hiền tài không phải chỉ là trao quyền cao cùng với chế độ đãi ngộ hậu hĩnh mà
còn đòi hỏi người được trọng dụng phải luôn sống theo những tiêu chuẩn khắt khe. Để  thực sự là minh quân,
đi kèm với đội ngũ hiền thần, vua Lê Thánh Tông đã từng nói rõ đạo làm vua cùng tiêu chuẩn của các bề tôi


trung. Trong bài Quân đạo (Đạo làm vua) và Thần tiết (Tiết của người bề tôi) trong Quỳnh uyển cửu ca (Chính
khúc
 
ca
 
vườn
 
Quỳnh),
 


 
Thánh
 
Tông
 
từng
 
nói:
          
“Hạ
 
dục
 
nguyên
 
nguyên
 
thượng
 
kinh
 
thiên.
          
Chế
 
trị
 
bảo
 

bao
 

 
kế
 
thuật,
          
Thanh
 
lâm
 
quả
 
dục
 
tuyệt
 
du
 
điền.
          
Bàng
 
cáu
 
luận
 
nghệ
 

phu
 
văn
 
đức,
          
Khắc   cật   binh   nhung   trung   tướng   quyền.”   (Quân   đạo).
           (Tức là: Dưới dưỡng nuôi trăm họ, trên kính trời. Trị  dân, giữ  nước thường nghĩ sự  noi theo người
trước. Chay lòng, ít ham muốn, bỏ hẳn thói chơi săn bắn. Rộng tìm kẻ  tài giỏi để  ban bố  văn đức. Sắm sửa
binh
 
bị
 
coi
 
trọng
 
quyền
 
kẻ
 
làm
 
tướng).
          
“Đan
 
trung
 
cảnh

 
nhật
 
linh
 
lâm,
          
Trí
 
chủ
 
an
 
dân,
 
nghĩa
 
khái
 
thâm.
          
Nội
 
minh
 
ngoại
 
phủ
 
hồi

 
thiên
 
lực
          
Hậu
 
lạc
 
tiên
 
ưu
 

 
thế
 
tâm”
 
(Thần
 
tiết).
          (Tức là: Lòng son quang minh, nhập tinh soi xét tới. Có nghĩa khí sâu sắc để trung với chúa và an dân…
Sức chuyển dời trong nước bình trị, ngoài nước mến yêu. Lòng giúp đời vui sau thiên hạ, lo trước thiên hạ).
[22]
Hiền tài được sử  dụng, nhất là khi đã làm quan thì phải sống trong cơ chế giám sát, ràng buộc, chế  ước lẫn
nhau rất chặt chẽ do nhà vua ban hành. Dụ  Hiệu định quan chế do Lê Thánh Tông ban hành vào năm 1471
(tức sau 11 năm trị vì) nêu rõ việc đặt ra quan chế này là để “trách nhiệm … có nơi quy kết, khiến cho quan to,
quan nhỏ đều ràng buộc với nhau, chức trọng chức khinh cùng kiềm chế  lẫn nhau. Uy quyền không lạm, thế
nước

 
khó
 
lay.”[23]
Với vua Lê Thánh Tông, không có chuyện đã bổ  nhiệm làm quan thì mãi mãi vẫn là quan. Thay vào đó,
vua đặt ra lệ khảo thí và khảo khóa để buộc các quan đều phải thường xuyên lo trau dồi, rèn luyện đạo đức
và năng lực.[24] Vua đặt ra lệ 3 năm khảo thi một lần cho các quan lại đương chức để  kiểm tra trình độ  học
vấn (không trừ  một ai, kể cả trạng nguyên). Quan lại được đánh giá theo tiêu chí có “xứng chức” hay không
(với các tiêu chí cụ thể hơn như: có làm cho dân nhiều lên không, có làm cho dân giàu lên không, có làm cho
dân
 
biết
 
lễ
 
nghĩa
 
hơn
 
không).[25]
Vua Lê Thánh Tông đã từng có sắc chỉ rằng  “các quan viên lười biếng bỉ ổi, đê tiện yếu hèn, nếu có con cháu
công   thần   thì   bãi   chức   cho   về   hạng   dân,   nếu   là   con   cháu   thường   dân   thì   bãi   chức   sung   quân.” [26]
          Vua Lê Thánh Tông chính là vị vua đầu tiên đưa ra một cách khá hệ thống luật hồi tỵ. Theo đó, vua cấm
quan lại 5 điều thường rất dễ phạm như sau: (1) Cấm quan, lại lấy vợ người địa phương nơi mình trị nhậm; (2)
Cấm quan, lại mua đất, mua vườn, mua ruộng, mua nhà tại địa phương nơi mình trị nhậm; (3) Cấm quan, lại
lấy người địa phương nơi mình trị  nhậm làm cấp phó giúp việc cho mình; (4) Cấm quan, lại kết làm thông gia
với người địa phương nơi mình trị nhậm; (5) Cấm đưa quan, lại về trị nhậm tại quê hương bản quán. [27] Phải
chăng, đó chính là một trong những hình thức kiểm soát xung đột lợi ích của đội ngũ quan, lại được hình thành
rất sớm trong lịch sử  nước ta và hiện nay vẫn còn nhiều nhân tố  hợp lý rất đáng nghiên cứu, học tập để  áp
dụng.

          Bộ luật Hồng Đức đòi hỏi tính chính trực của các vị quan đại thần. Điều 625 Bộ luật này quy định tội “các
quan đại thần nếu biết việc có hại mà không giãi bày can ngăn, lại a dua vân theo”. Theo đó  “các quan đại
thần và các quan tâu việc, biết có điều bất tiện, hại đến quân dân mà không hết sức giãi bày để bỏ điều ấy đi,
thì xử tội biếm hay bãi chức. Nếu a dua trước mặt để thuận ý vua, lúc lui chầu lại nói khác, thì xử tội đồ hay tội
lưu.”[28]
Ngoài ra, việc đề  cử  không được người tài dưới triều vua Lê Thánh Tông có thể  bị  trị  tội. Điều 174 Bộ  luật
Hồng Đức quy định “những người làm nhiệm vụ cử người mà không cử được người giỏi thì bị biếm hoặc phạt
theo   luật   nặng   nhẹ;   nếu   vì   tình   riêng   hoặc   lấy   tiền   thì   xử   tội   nặng   thêm   hai   bậc.”  [29]
2.
 
Một
 
số
 
bình
 
luận
  Thứ nhất, khi nói về thái độ, cách ứng xử với hiền tài của Lê Thánh Tông thì điều đầu tiên có lẽ nên nhắc tới
đó là bản thân Lê Thánh Tông vốn là một người tài đức. Các nhà viết sử nổi tiếng xưa nay đều nhắc tới điều
này. Đại Việt sử ký toàn thư chép Lê Thánh Tông “thực là bậc vua anh hùng tài lược…Vua sinh ra,…thần sắc
anh dị, tuấn tú, sáng suốt, chững chạc, thực là bậc thông minh đáng làm vua, bậc trí dung đủ giữ nước… Tính
trời sinh tri, mà sớm khuya không rời quyển sách; tài năng lỗi lạc mà chế  tại lại càng lưu tâm. Ưu điều thiện,
thích người hiền, chăm chăm không mỏi”.[30] Tiểu sử vua Lê Thánh Tông có đoạn chép  “sức học của vua có
nguồn gốc, rừng kinh bể sử không đâu là không kê cứu”.[31] Sử thần Vũ Quỳnh ghi “Vua tự trời cao siêu, anh


minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi, văn hay, mà thánh học rất chăm, tay không lú nào rời quyển
sách. Các sách kinh sử, các sách lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng tinh thông”.[32] Vua Lê Thánh
Tông “sửa tam đức để  thiện lòng người, coi học hành để  chấn hưng văn hóa… Kính tôn bậc nho cố  cựu, lễ
phép với bực đại thần. Thưởng phạt thì rõ ràng. Chính lệnh thì nghiêm minh. … Siêng cần dân sự thì lấy việc

làm ruộng, trồng dâu làm gốc… Không chuộng châu báu lạ kỳ, không ưa xa xỉ… biết các quan là nguồn gốc
trị   loạn,   nên  đem  liêm  giới   khuyên  răn.  Hết lòng  hiếu  kính  triều  trước, mà  bỏ   luôn  thú  vui  phóng  túng ”.
[33]Trong đời sống thường nhật, vua Lê Thánh Tông  “xa kẻ nịnh, thân người hiền tài. Cố gắng mưu yên định
cho dân. Phát động chính trị ôn hòa. Lấy chín điều[34] mà làm việc nước”.[35] PGS.TS. Nguyễn Minh Tường
viết “Lê Thánh Tông… là một vị  vua thông minh, “hùng tài đại lược”, có tư  chất và tính khí rất cao minh”.
[36] Thực tế lịch sử thời vua Lê Thánh Tông là minh chứng rõ nét cho chân lý: vua sáng là điều kiện tiên quyết
để  có nhiều hiền thần. Có vua tài năng là điều kiện để  người tài được trọng dụng. Suy rộng ra, trong mỗi
ngành, mỗi cơ  quan, đơn vị, có lãnh đạo tài năng thì mới có môi trường để  người giỏi được trân trọng, phát
huy.
Thứ hai, chính sách đãi ngộ, trọng dụng hiền tài kể trên trước hết xuất phát từ nhận thức rất sâu sắc của vua
Lê Thánh Tông và vương triều dưới thời vua Lê Thánh Tông về tầm quan trọng của hiền tài đối với sự phát
triển của quốc gia và đối với sự  vững bền của vương triều . Điều đó thể  hiện rất rõ trong Văn bia tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất (1442) trong Văn miếu Quốc tử  giám được vua Lê Thánh Tông giao cho Thân Nhân Trung
soạn vào năm 1484: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế  nước mạnh rồi lên cao,
nguyên khí suy thì thế  nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy, các đấng Thánh Đế  minh vương chẳng ai không lấy
việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ  sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ  sĩ quan hệ  với quốc gia
trọng đại như thế: cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng”.[37] Có thể nói, những câu nói bất hủ
kể trên chính là tư tưởng và điều khắc cốt, ghi tâm của vị vua sáng Lê Thánh Tông. Có niềm tin ấy, thiết nghĩ,
không chỉ ngài học từ trong sách vở, mà bản thân nhà vua chứng nghiệm qua sự lên ngôi của ngài và kết quả
đất nước thịnh trị những năm sau đó như là kết quả của sự “xe duyên” người tài đức với vị trí phù hợp, xứng
tầm. Lê Thánh Tông, trước khi làm vua vốn là bậc hiền tài, khi được trao ngôi báu, đã làm xoay chuyển thế cục
của nước Đại Việt thời bấy giờ.  Điều rất đáng nhắc tới là tư  duy  chỉ  trao trọng trách cho người xứng
đáng – một tư duy rất tiến bộ của quần thần khi chọn lựa và tôn ngài lên làm vua. Bia ở  Chi Lăng về tiểu sử
vua Lê Thánh Tông (do Thân Nhân Trung soạn năm 1498 tức 1 năm sau ngày mất của vua Lê Thánh Tông)
có đoạn nói về “mưu tính” của các đại thần khi tôn Lê Tư Thành lên ngôi báu như sau “ Ngôi trời thực khó, ngai
vàng rất quan trọng, nếu không phải bực đại đức khó có thể  kham được. Nay Gia vương thiên tư  minh
duệ, khí lược trầm hùng, trội xa đồng lớp, các vị vương khác chẳng sánh kịp. Lòng người đều theo thì ý trời có
thể
 
biết

 
được.”[38]
3.   Gợi   ý   một   số   bài   học   kinh   nghiệm   và   liên   hệ   với   thực   tiễn   Việt   Nam   hiện   nay
Lê Thánh Tông đã mất cách đây 520 năm nhưng những gì Lê Thánh Tông đã làm trong việc trọng dụng hiền
tài vẫn gợi cho chúng ta rất nhiều điều đáng suy ngẫm. Tất nhiên, dùng thực tiễn của lịch sử cách chúng ta
khá xa để  nói về  bài học cho ngày hôm nay là điều không đơn giản. Mỗi thời mỗi khác, không thể  sao chép
máy móc kinh nghiệm quá khứ để áp cho hiện tại. Chúng ta hiện nay đã chuyển sang chế độ chính trị dân chủ
XHCN người dân đã không còn vị trí thần dân mà là vị trí công dân, mọi người, về nguyên tắc, đều bình đẳng
trước pháp luật và được tự do thi thố tài năng. Mặc dù vậy, tấm gương và kinh nghiệm lịch sử Lê Thánh Tông
với   việc   trọng   dụng   hiền   tài   vẫn   gợi   cho   chúng   ta   những   điều   rất   cần   học   ở   vị   minh   quân   này:
Thứ nhất, muốn trọng dụng hiền tài, trước tiên phải thực sự hiểu sâu sắc tầm quan trọng của hiền tài đối với
sự phát triển của quốc gia và sự vững mạnh của chế độ. Không chỉ kinh nghiệm thời vua Lê Thánh Tông mà
chính thực tiễn phát triển của thời hiện tại đang cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của nhân tài đối với sự phát
triển của quốc gia. Điều đó lại càng trở nên rõ nét trong bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư ở đó đổi mới, sáng tạo, cùng hệ thống công nghệ cao, công nghệ tự động hóa, trí thông minh
nhân tạo trở  thành nhân tố  then chốt quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia và sức cạnh tranh của mỗi nền
kinh tế. Thật khó có quốc gia hùng cường nếu đất nước thiếu những người tài năng đủ  sức làm chủ  những
thành tựu mới nhất trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng, khoa học và công nghệ, luật
pháp, quản trị quốc gia. Trước những vấn đề  khá bức xúc trong việc sắp xếp, bổ nhiệm cán bộ  ở  một số  cơ
quan, địa phương trong thời gian qua, đã đến lúc, chúng ta phải làm sao để  người dân thực sự cảm nhận rõ
nét hơn và tin tưởng vững chắc rằng chế độ  ta là chế  độ  trọng dụng nhân tài, coi trọng hiền tài. Đây cũng là
một trong những tư tưởng nền tảng của chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu tiên sáng lập chế độ. Những
động thái gần đây của Lãnh đạo Đảng và Chính phủ trong việc phê phán các biểu hiện lệch chuẩn trong công
tác cán bộ, đồng thời bày tỏ  quyết tâm “chọn người tài thay vì người nhà” đang được đông đảo người dân


hoan nghênh,  ủng hộ. Thực hiện nghiêm túc định hướng đó để  hình thành nên nền công chức, công vụ  dựa
trên thực tài sẽ rất có lợi cho sự phát triển trước mắt và lâu dài của Việt Nam. Tôi cho rằng, đã đến lúc các cấp
lãnh đạo cần quyết liệt hơn nữa trong công tác phát hiện, bồi dưỡng nhân tài, tạo môi trường “cạnh tranh” lành
mạnh, công bằng thực sự trong tuyển dụng, bổ nhiệm, chọn lựa nhân sự  vào các vị  trí trong nền công chức,

công vụ  nước ta và cả  trong hệ  thống chính trị, qua đó người tài có cơ  hội để  thể  hiện và thi triển năng lực
thực
 
sự
 
của
 
mình.
Thứ  hai, đối với hiền tài, cần thực sự tin tưởng và giao trọng trách tương xứng với tài năng và đạo đức của
người được giao cùng chế độ đãi ngộ thỏa đáng. Công tác đánh giá, phân loại, quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ
cần làm tốt hơn nữa để những người “giỏi lo việc nước” được kịp thời phát hiện và trọng dụng thỏa đáng. Đi
kèm với đó, cần tiếp tục hoàn thiện chế  độ  trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ  quan, đơn vị, gắn trách
nhiệm với quyền hạn, giảm bớt cơ chế chịu trách nhiệm tập thể, tăng cường cơ chế quy trách nhiệm cá nhân
của thủ  trưởng cơ  quan, đơn vị  đối với kết quả  hoạt động của từng cơ  quan, đơn vị  trong hệ  thống công
quyền. Mạnh dạn trao quyền tự chủ hơn cho thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm, sử
dụng ngân sách, khen thưởng, kỷ luật vì mục đích chung là nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Cần tiếp
tục cải cách chế độ tiền lương và các chế độ đãi ngộ có liên quan xứng đáng với tài năng, đóng góp của người
được trọng dụng. Một hệ  thống lương còn nhiều mặt mang tính “tượng trưng” như  hiện nay là điều rất cần
quan
 
tâm
 
khắc
 
phục.
          Thứ ba, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ đội ngũ cán bộ, công chức bởi đây chính là lực lượng có thể góp
phần rất lớn cho sự  phát triển của đất nước khi đó là đội ngũ tiên tiến nhưng cũng có thể  gây nhiều vấn đề
phức tạp khi bị tha hóa, biến chất. Cần học tập cách tiếp cận của vua Lê Thánh Tông khi vừa trọng dụng hiền
tài nhưng cũng yêu cầu rất cao đối với đội ngũ nhân tài khi được trọng dụng, ngăn ngừa các nguy cơ, biểu
hiện tha hóa khi đã có quyền lực  ở trong tay. Trên cơ sở đó, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với

đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm thực sự không có vùng cấm trong kiểm soát quyền lực, không
ai đứng trên pháp luật, cao hơn pháp luật. Tinh thần của luật hồi tỵ mà vua Lê Thánh Tông khởi xướng rất nên
nghiên
 
cứu
 
để
 

 
hình
 
thức
 
áp
 
dụng
 
phù
 
hợp.
Thứ  tư, đầu tư  mạnh cho giáo dục và khoa học, công nghệ theo hướng coi trọng hiệu quả, đề  cao thực học,
học gắn chặt với hành, dùng thực tiễn để  kiểm tra tài năng, năng lực của người được đào tạo. Gắn kết chặt
chẽ  giữa hoạt động giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ  với thực tiễn sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp, với nhu cầu quản trị  quốc gia. Bảo đảm hệ  thống giáo dục và hệ  thống nghiên cứu khoa học, công
nghệ thực sự là vườn ươm nhân tài cho quốc gia, là động lực thực sự cho quá trình phát triển kinh tế đất nước
trong
 
bối
 

cảnh
 
hội
 
nhập.
 Thứ  năm, thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng và Nhà nước về  công tác cán bộ. Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ  XII đã nêu rõ chủ  trương của Đảng và Nhà nước ta  “xây dựng nền hành chính hiện đại,
chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả…Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm và tính chuyên nghiệp cao…Đổi mới công tác
tuyển dụng, đề  bạt cán bộ, công chức, bảo đảm cạnh tranh, công khai, minh bạch. Đánh giá cán bộ, công
chức phải dựa trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ” .[39] Có thể nói, những yêu cầu mà Đảng đặt ra đối với
nền hành chính và đội ngũ cán bộ, công chức là rất trúng với nguyện vọng của nhân dân, trúng với đòi hỏi của
thực tiễn phát triển đất nước hiện nay và rất tương đồng với những gì mà vua Lê Thánh Tông đặt ra đối với
nền hành chính và đội ngũ quan lại cách đây hơn 500 năm. Thực hiện đúng đắn, đầy đủ chủ trương của Đảng
vừa nêu đang là đòi hỏi rất cấp bách và cũng chính là việc chúng ta kế  thừa những bài học kinh nghiệm quý
báu   mà   vua   Lê   Thánh   Tông   đã   để   lại   cho   hậu   thế.
         
TS. Nguyễn Văn Cương
 
 

[1] Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2 (Hà Nội: NXB Văn học, 2006) tr. 227.
[2] Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2 (Hà Nội: NXB Văn học, 2006) tr. 273­274.


[3] Đặng   Việt   Thủy,   “Vua   Lê   Thánh   Tông   với   sự   nghiệp   giáo   dục   và   đào   tạo   nhân   tài”
< />post165070.gd>.
[4] Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2 (Hà Nội: NXB Văn học, 2006) tr. 275, 312.
[5] Đại Việt sử  ký toàn thư, Tập 2 (Hà Nội: NXB Văn học, 2006) tr. 335 có chép rằng: Năm Canh Tý (1480),
tháng 6, có sắc chỉ rằng “phàm các lại viên có chân thi Hội đỗ tam trường, thì bổ là Chính quan châu huyện và

các chức Kinh lịch, Thủ lĩnh, Phó sứ. Còn lại viên không có chân thi Hội đỗ tam trường thì chỉ bổ chức Thủ lĩnh
hoặc châu huyện”.
[6] Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2 (Hà Nội: NXB Văn học, 2006) tr. 241.
[7] PGS.TSKH. Nguyễn Hải Kế, “Nước Đại Việt thời Lê sơ – Một vài đặc điểm căn bản của nền tảng chính trị,
kinh tế, văn hóa –xã hội” trong TS. Lê Thị Sơn (chủ biên),  Quốc triều hình luật: Lịch sử hình thành, nội dung và
giá trị (Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 2004) tr. 22.
[8] Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông: Vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2007) tr. 98.
[9] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí: Khoa mục chí (Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1992) tập 2.
[10] Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông: Vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2007) tr. 98.
[11] Lê Quý Đôn, Kiến Văn tiểu lục (Bản dịch) (Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1977) tr. 259.
[12] Phong kín những quyển thi trong những cuộc thi đình để dâng vua.
[13] Sao chép khi thi hội, thi đình, quyển văn của các thí sinh đều phải giao cho viên đằng lục sao tả nguyên
văn ra quyển khác để các khảo quan chấm, cốt để cho khảo quan không biết được chữ của thí sinh.
[14] Viện sử  học, Quốc triều hình luật (Bản dịch quốc ngữ  của TS. Nguyễn Ngọc Nhuận và TS. Nguyễn Tá
Nhí) (TP Hồ Chí Minh: NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995) tr. 65­66.
[15] Viện sử  học, Quốc triều hình luật (Bản dịch quốc ngữ  của TS. Nguyễn Ngọc Nhuận và TS. Nguyễn Tá
Nhí) (TP Hồ Chí Minh: NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995) tr. 66.
[16] Tạ Ngọc Liễn (chủ biên), Lịch sử Việt Nam: Tập III ­ Thế kỷ XV­XVI  (Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 2007)
tr. 158­159.
[17] Ví dụ: Thời Lê Thánh Tông, lãnh đạo Bộ Lại gồm có: Thượng thư, trật tòng nhị phẩm; Tả thị lang, trật tòng
tam phẩm; Hữu thị lang, trật tòng tam phẩm [Xem: PGS.TS. Nguyễn Minh Tường,  Tổ chức bộ máy nhà nước
quân chủ Việt Nam (từ năm 939 đến năm 1884) (Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 2015) tr. 177]
[18] Tức là bớt đều mỗi bậc 6 quan.
[19] Tức là bớt đều mỗi bậc 4 quan.
[20] Tức là bớt đều mỗi bậc 3 quan.


[21] Tức là bớt đều mỗi bậc 2 quan.
[22] Văn học Việt Nam thế kỷ X ­ Nửa đầu thế  kỷ XVIII (Hà Nội: NXB Giáo dục, 1977) [dẫn trong TS. Nguyễn
Văn Phát, “Kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng hiền tài của vua Lê Thánh Tông và những bài học đối với công tác

giáo dục, đào tạo  ở  trường Đại học Hồng Đức hiện nay” trong Quốc triều hình luật: Những giá trị  lịch sử  và
đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2008) tr. 474].
[23] Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông: Vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2007) tr. 104.
[24] Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2 (Hà Nội: NXB Văn học, 2006) tr. 333.
[25] Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông: Vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2007) tr. 99.
[26] Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2 (Hà Nội: NXB Văn học, 2006) tr. 324.
[27] Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông: Vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2007) tr.78.
[28] Viện sử  học, Quốc triều hình luật (Bản dịch quốc ngữ  của TS. Nguyễn Ngọc Nhuận và TS. Nguyễn Tá
Nhí) (TP Hồ Chí Minh: NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995) tr. 226.
[29] Viện sử  học, Quốc triều hình luật (Bản dịch quốc ngữ  của TS. Nguyễn Ngọc Nhuận và TS. Nguyễn Tá
Nhí) (TP Hồ Chí Minh: NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995) tr. 87.
[30] Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2 (Hà Nội: NXB Văn học, 2006) tr. 211­212.
[31] Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông: Vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2007) tr. 389.
[32] Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2 (Hà Nội: NXB Văn học, 2006) tr.386.
[33] Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông: Vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2007) tr. 388­
389.
[34] Tức là (1) tu thân (tu sửa thân mình); (2) tôn hiền (tôn trọng người hiền tài); (3) thân thân (thân ái với
người thân thuộc); (4) kính đại thần (kính trọng các quan đại thần); (5) thể quần thần (rộng lượng đói đãi các
bề  tôi); (6) tử  thứ  dân (thương dân như  con); (7) lai bách công (chiêu tập các nhà công nghệ); (8) nhu viễn
nhân (được lòng các người ở phương xa); (9) hoài chư hầu (làm cảm phục các chư hầu).
[35] Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông: Vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2007) tr. 394.
[36] PGS.TS. Nguyễn Minh Tường, Tổ  chức bộ  máy nhà nước quân chủ  Việt Nam (từ  năm 939 đến năm
1884) (Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 2015) tr. 172.
[37] Văn bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, do Thân Nhân Trung soạn, được in trong  Tuyển tập văn bia Hà Nội (Hà
Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978).
[38] Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông: Vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại (Hà Nội: NXB Tư pháp, 2007) tr. 388.


[39] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ  XII  (Hà Nội: NXB Chính trị  quốc
gia, 2016) tr. 309.




×