Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014 – những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.63 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

THÂN QUỐC LONG

CHIẾM HỮU, SỬ DỤNG, ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

THÂN QUỐC LONG

CHIẾM HỮU, SỬ DỤNG, ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự


Mã số

: CH22B-130

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƯƠNG LAN

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ
trong luận văn là trung thực. Những kết luận trong luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự

BLDS

Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất

GCNQSDĐ


Hôn nhân và Gia đình

HN&GĐ

Hội đồng thẩm phán

HĐTP

Năng lực hành vi dân sự

NLHVDS

Nghị định 126/2014/NĐ–CP của

NĐ 126/2014/NĐ-CP

Chính phủ Quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014
Sở hữu trí tuệ

SHTT

Tòa án nhân dân

TAND

Ủy ban nhân dân


UBND


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CHIẾM HỮU, SỬ
DỤNG, ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG ................................ 9
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của tài sản chung vợ chồng. ................................ 9

1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng ................................................. 9
1.1.2. Quan điểm lập pháp về chế độ tài sản chung của vợ chồng ................ 10
1.1.3. Đặc điểm chế độ tài sản chung của vợ chồng ..................................... 15
1.2.

Khái niệm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ

chồng ........................................................................................................... 18
1.3.

Đặc điểm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ,

chồng ........................................................................................................... 21
1.4.

Mối liên hệ giữa quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vợ

chồng ........................................................................................................... 24
1.5.


Ý nghĩa của việc quy định về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài

sản chung của vợ chồng ............................................................................... 27
Chương 2. NỘI DUNG QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2014 ................................................................................................... 29
2.1.

Các nguyên tắc chi phối việc thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định

đoạt tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .............................. 29
2.1.1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập,
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung ................................................ 29
2.1.2. Vợ, chồng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình .......... 31
2.1.3. Khi thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản, vợ chồng phải đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của nhau, của gia đình và của người thứ ba ............ 33
2.2.

Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong

chế độ tài sản theo thỏa thuận ....................................................................... 34


2.2.1. Quyền chiếm hữu tài sản chung vợ chồng trong chế độ tài sản theo thỏa
thuận. ........................................................................................................... 35
2.2.2. Quyền sử dụng tài sản chung vợ chồng trong chế độ tài sản theo thỏa
thuận . .......................................................................................................... 37
2.2.3. Quyền định đoạt tài sản chung vợ chồng trong chế độ tài sản theo thỏa
thuận ........................................................................................................... 38

2.3.

Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong chế độ

tài sản theo luật định..................................................................................... 43
2.3.1. Quyền chiếm hữu tài sản chung của vợ chồng .................................... 43
2.3.2. Quyền sử dụng tài sản chung của vợ chồng ........................................ 46
2.3.3. Quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng. ..................................... 47
Chương 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN CHIẾM HỮU, SỬ DỤNG,
ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT........................................................ 55
3.1.

Thực tiễn thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

của vợ chồng. ............................................................................................... 55
3.1.1. Một số vướng mắc, bất cập trong xác định tài sản chung vợ chồng .... 55
3.1.2. Một số vướng mắc, bất cập khi thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung của vợ chồng ........................................................... 62
3.2.

Một số giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả việc thực hiện quyền chiếm

hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong thực tiễn ............. 74
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền sở hữu tài sản chung
của vợ chồng ................................................................................................ 74
3.2.2. Một số biện pháp đảm bảo hiệu quả việc thực hiện quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng ............................................. 78
KẾT LUẬN.................................................................................................. 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 84



1

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Khi chưa bước vào hôn nhân, hai người nam nữ là những người có tài

sản riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào
hôn nhân, điều đó đã khác. Tất cả các vấn đề về tài sản của họ được điều
chỉnh bởi một quy chế pháp lý là “chế độ tài sản vợ chồng”.
Một thời gian rất dài pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận chế độ tài sản
chung của vợ chồng theo luật định. Theo đó, pháp luật quy định những tài sản
nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng của vợ chồng kèm theo đó là
quyền và nghĩa vụ trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung đó.
Với sự phát triển và thay đổi không ngừng của xã hội, chế độ tài sản vợ chồng
của Việt Nam đã có những sự thay đổi đáng kể, nổi bật nhất trong những thay
đổi đó chính là việc pháp luật thừa nhận chế độ tài sản chung vợ chồng theo
thỏa thuận. Có thể thấy rằng để đi đến một quyết định như hiện nay, pháp luật
nước ta đã phải trải qua nhiều thời kỳ sửa đổi, bổ sung: từ chỗ không chấp
nhận bất cứ thỏa thuận nào của vợ chồng về việc xác lập tài sản (như qui định
trong Luật HN&GĐ năm 1959) đến chỗ đồng ý cho phép một sự thỏa thuận
rất mờ nhạt (Luật HN&GĐ năm 1959 quy định vợ chồng có quyền nhập hay
không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung) rồi cho phép vợ chồng được
thỏa thuận về việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân (Luật HN&GĐ
năm 2000 và Nghị định 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn Luật
HN&GĐ năm 2000) đã khiến cho nhiều người đặt câu hỏi, phải chăng quy
định thỏa thuận chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân cũng đồng nghĩa với việc

chấp nhận thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng? Mới đây nhất, Luật
HN&GĐ năm 2014 đã chính thức công nhận quyền được lập văn bản thỏa
thuận về chế độ tài sản vợ chồng. Như vậy, song song với chế độ tài sản pháp
định, vợ chồng có thể “tự thiết kế” chế độ tài sản vợ chồng cho riêng mình.
Dù đã có những văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành nhưng do tính


2

chất phức tạp và có phần “nhạy cảm” của quan hệ vợ chồng, các vấn đề liên
quan đến quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vẫn gây nhiều
khó khăn, vướng mắc cho người dân cũng như cơ quan nhà nước trong việc
áp dụng pháp luật. Do đó, người viết đã lựa chọn đề tài “Chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2014 – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” với mong muốn làm rõ
hơn các quy định của pháp luật, đồng thời chỉ ra được phần nào những khó
khăn, vướng mắc còn tồn tại đó để từ đó đề xuất phương án hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này cũng như kiến nghị những giải pháp áp dụng pháp luật trên
thực tế.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về

vấn đề tài sản của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân dưới nhiều cấp độ khác
nhau như:


Các bài nghiên cứu trên tạp chí chuyên ngành:


-

Bài viết của ThS. Nguyễn Văn Cừ: “Quyền sở hữu của vợ chồng theo
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000” đăng trên Tạp chí Luật học số
06 năm 2002. Bài viết phân tích về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
theo Luật HN&GĐ năm 2000, đưa ra cơ sở lý luận của các quy định và
chỉ ra những khó khăn, vướng mắc sau hai năm thực hiện Luật
HN&GĐ năm 2000.

-

Bài viết của TS. Nguyễn Văn Cừ: “Một số vấn đề về hôn ước và quan
điểm áp dụng ở Việt Nam hiện nay” đăng trên Tạp chí Luật học số 10
năm 2012. Bài viết xoay quanh vấn đề có nên hay không việc quy định
về “hôn ước” – một dạng thỏa thuận về tài sản trước khi kết hôn giữa
vợ và chồng.

-

Bài viết của PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ: “Chế độ tài sản vợ chồng theo
thỏa thuận trong pháp luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam” đăng
trên Tạp chí Luật học số 4 năm 2015. Bài viết nghiên cứu các quy định


3

của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và sự cần
thiết của việc thừa nhận quyền tự do của vợ chồng trong việc lựa chọn
chế độ tài sản áp dụng.
-


Bài viết của ThS.Nguyễn Phương Lan: “Hậu quả pháp lý của việc chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” đăng trên Tạp chí
Luật học số 6 năm 2002. Bài viết chỉ ra những vướng mắc trong quy
định của Luật HN&GĐ năm 2000 liên quan đến quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản khi phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.



Sách tham khảo:

-

Trong cuốn “Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và
Gia đình Việt Nam” (2008) của TS.Nguyễn Văn Cừ, tác giả đã hệ thống
lại toàn bộ các cơ sở lý luận cũng như quy định của pháp luật có liên
quan đến chế độ tài sản của vợ chồng, đồng thời đi sâu phân tích việc
áp dụng pháp luật, chỉ ra các vấn đề vướng mắc cần được hoàn thiện.



Đề tài nghiên cứu khoa học:

-

Tại Đại học Luật Hà Nội, trong Đề tài khoa học cấp trường năm 2008
về “Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh”,
ThS.Nguyễn Phương Lan (chủ nhiệm đề tài) đã có bài viết phân tích
một số vấn đề về nguyên tắc xác định tài sản chung, tài sản riêng và
trách nhiệm tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.




Luận văn Thạc sĩ

-

Luận văn của tác giả Nguyễn Hồng Hải về “Xác định tài sản giữa vợ
chồng, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (2002). Luận văn chủ yếu đi
sâu phân tích cách xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng
trên cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra một số phương hướng nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật.

-

Luận văn của tác giả Lã Thị Tuyền về “Chế độ tài sản vợ chồng theo
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành” (2015) là một trong số
ít công trình nghiên cứu khoa học được thực hiện sau khi Luật


4

HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực. Luận văn đã chỉ ra được những điểm
mới đáng chú ý của Luật HN&GĐ so với những quy định trước đây.


Luận án Tiến sĩ

-


Luận án của tác giả Nguyễn Văn Cừ về “Chế độ tài sản của vợ chồng
theo luật hôn nhân và Gia đình Việt Nam” năm 2005 có thể được xem
là nền tảng cho nhiều nghiên cứu sau này liên quan đến chế độ tài sản
của vợ chồng. Luận án đã khái quát được nhiều vấn đề cả về lý luận lẫn
thực tiễn liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Mặc dù số lượng công trình nghiên cứu không hề ít nhưng hầu hết lại

nghiên cứu theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 nay đã hết hiệu lực thi
hành. Các công trình nghiên cứu theo Luật HN&GĐ năm 2014 thì phạm vi
nghiên cứu rộng, toàn diện, bao quát cả quan hệ tài sản của vợ chồng, hoặc
chỉ đề cập đến một khía cạnh của vấn đề mà chưa có đề tài nào nghiên cứu về
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
3.

Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định liên quan đến

quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong Luật
HN&GĐ năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, luận văn
cũng nghiên cứu một số trường hợp cụ thể trên thực tế liên quan đến việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng.


Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản


chung của vợ chồng, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định trong một số
văn bản pháp luật như: Luật HN&GĐ năm 1986; Luật HN&GĐ năm 2000;
Luật HN&GĐ năm 2014, BLDS năm 2005, Luật SHTT và các văn bản pháp
luật khác có liên quan. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu một số trường
hợp cụ thể trong hồ sơ, tài liệu của văn phòng công chứng, án lệ của tòa án có
liên quan đến việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng.


5

4.

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ tài

sản của vợ chồng qua việc thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung, luận văn phân tích, đánh giá việc áp dụng pháp luật, nhận dạng
những thuận lợi cũng như những bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng
pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm còn
thiếu sót, chưa phù hợp của luật thực định và những bất cập trong quá trình áp
dụng luật vào thực tiễn. Từ đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp có
tính chất khả thi nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ tài
sản của vợ chồng đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đời sống đang ngày càng phát
triển đa dạng, phong phú.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn xác định những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
Thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của
vợ chồng, về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ
chồng.
Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành

về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vợ chồng trong điều kiện kinh
tế - xã hội hiện nay.
Thứ ba: Tìm hiểu thực tiễn áp dụng, vận dụng các quy định của pháp
luật về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng qua hoạt động xét
xử của ngành Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ
liên quan trực tiếp đến vấn đề tài sản giữa vợ và chồng; Tìm hiểu thực tiễn áp
dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng tại các Văn phòng công chứng
thông qua hoạt động công chứng các Hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài
sản của vợ chồng, qua đó, đánh giá về những thành công và hạn chế của việc
áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng.
Thứ tư: Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo luật thực định,


6

luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
chế độ tài sản của vợ chồng dưới góc độ pháp luật và áp dụng pháp luật.
5.

Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:

-

Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vợ chồng là gì?

-

Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vợ chồng được thể

hiện qua các chế độ tài sản chung khác nhau như thế nào?

-

Cách áp dụng quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vào
thực tế đời sống và thực trạng áp dụng theo Luật HN&GĐ năm 2014?

-

Với những bất cập, khó khăn còn tồn tại, phương án giải quyết là như
thế nào?

6.

Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử trên cơ sở nền tảng là các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, pháp
luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, được hình thành từ một
cơ sở hạ tầng phù hợp. Pháp luật được coi là tấm gương phản chiếu xã hội,
còn xã hội được coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật. Như vậy, các quy định
của pháp luật phải phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội thì mới có tính khả thi trong quá trình thực hiện và áp dụng, từ đó
tạo cơ sở ổn định cho xã hội phát triển.
Bên cạnh phương pháp chủ đạo dựa trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa
Mác – Lênin, đề tài cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như
phương pháp nghiên cứu lịch sử để nghiên cứu, tìm hiểu về quyền sở hữu tài
sản theo từng thời kỳ ở Việt Nam; phương pháp thống kê sử dụng trong quá
trình nghiên cứu, khảo sát thực tế; phương pháp so sánh nhằm tìm ra những
điểm tương đồng giữa pháp luật Việt Nam qua từng thời kỳ với pháp luật thế

giới; phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để giải quyết các vấn đề
về lý luận chung, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành…
7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn


7

Sự ra đời của Luật HN&GĐ năm 2014 đã đánh dấu một bước chuyển
biến quan trọng về pháp lý trong lĩnh vực HN&GĐ. Với đề tài này, người viết
hi vọng có thể xây dựng được một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy luật học nói chung và luật HN&GĐ nói riêng. Bên
cạnh đó, luận văn cũng có ý nghĩa thiết thực cho những cá nhân không hoạt
động trong lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là các cặp vợ chồng. Luận văn góp
phần cung cấp những kiến thức lý luận và thực tiễn về chế độ tài sản chung
của vợ chồng, quy định của pháp luật về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
chung, nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng… Trên cơ sở đó,
người đọc có thể tự mình nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng vào thực tế để
giải quyết các vấn đề, tạo nền tảng cho việc thực hiện pháp luật một cách đầy
đủ, chính xác; xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.
Ngoài ra, những vấn đề pháp lý cũng như những kiến nghị được đề
xuất trong luận văn này cũng phần nào đóng góp cho việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật, củng cố việc thực thi pháp luật ở nước ta hiện nay. Người viết hi
vọng luận văn có thể đem đến một cái nhìn tổng quát về quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 và
những vấn đề cần tập trung nghiên cứu thêm để trong tương lai không xa,
chúng ta có thể xây dựng một hệ thống pháp luật về HN&GĐ thật hoàn thiện,
phù hợp với định hướng phát triển của đất nước và mong muốn của mỗi

người dân.
8.

Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tài sản chung của vợ chồng và
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vợ chồng.
Chương 2. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vợ chồng theo
quy định của Luật HN&GĐ năm 2014.


8

Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung vợ chồng và phương hướng hoàn thiện pháp luật.


9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CHIẾM HỮU, SỬ DỤNG,
ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của tài sản chung vợ chồng

1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Trong quá trình vợ chồng chung sống, ngoài tình cảm thì giữa vợ

chồng còn cần có tài sản chung. Tài sản chung được coi là một điều kiện
không thể thiếu để duy trì mối quan hệ vợ, chồng. “Tài sản” theo nghĩa của
Từ điển Tiếng Việt là của cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu
dùng. Theo quy định tại Điều 163 của BLDS 2005 thì “Tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng, là hình thức sở hữu chung đặc biệt. Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, sự
tồn tại của chế độ tài sản chung vợ chồng phụ thuộc vào sự tồn tại của quan
hệ hôn nhân và chấm dứt khi một trong hai bên vợ, chồng chết hoặc có bản
án, quyết định của Tòa án cho vợ, chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật.
Tài sản chung của vợ, chồng được tạo ra từ hoạt động lao động, sản
xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời
kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung và
những tài sản vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung, quyền sử dụng đất của vợ
chồng có được sau khi kết hôn.
Khác với tài sản chung khác, tài sản chung của vợ chồng có nguồn gốc
từ lao động của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, có thể do vợ hoặc chồng tạo
ra hoặc từ những hành vi pháp lý diễn ra trong thời kỳ hôn nhân (thỏa thuận
tài sản riêng trở thành tài sản chung, thừa kế, tặng cho...).
Từ xưa đến nay, cha ông ta vẫn nói “của chồng công vợ”, tài sản chung
của vợ chồng không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng trực tiếp tạo ra hoặc


10

tạo ra ngang bằng nhau. Tài sản chung có thể chỉ do vợ hoặc chồng tạo ra
trong thời kỳ hôn nhân. Quy định này do tính chất cộng đồng của hôn nhân
quyết định, thể hiện sự gắn kết, xóa bỏ khoảng cách về trách nhiệm tạo ra tài
sản giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân. Tài sản chung của vợ chồng là
tài sản chung hợp nhất. Khi vợ, chồng chưa phân chia tài sản thì không xác

định được tỷ lệ phân chia tài sản của mỗi người. Khi hai bên thỏa thuận phân
chia xong hoặc có quyết định phân chia tài sản chung của Tòa án thì phần tài
sản riêng của vợ, chồng trong khối tài sản chung mới được xác định. Đây là
những điểm khác biệt về tài sản chung vợ chồng so với tài sản chung theo
phần.
Nhà làm luật ở mỗi quốc gia đều quy định chế độ tài sản của vợ chồng
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tập quán, truyền thống và nguyện vọng
của các cặp vợ chồng. Trong đó thể hiện rõ ý chí của nhà nước khi điều chỉnh
các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, vì suy đến cùng, tổng hợp các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng phản
ánh điều kiện vật chất của xã hội đó, bảo đảm sự phù hợp, hài hòa về lợi ích,
ý chí của giai cấp thống trị xã hội với lợi ích chính đáng của các cặp vợ
chồng. Pháp luật các quốc gia trên thế giới đã quy định có hai chế độ tài sản
chung của vợ chồng đó là chế độ tài sản chung theo quy định của pháp luật
(chế độ tài sản luật định) và chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng.
Từ những phân tích trên có thể hiểu rằng tài sản chung của vợ chồng là
khối tài sản được tạo lập, phát triển bằng công sức của vợ, chồng phát sinh
trong thời kỳ hôn nhân hoặc do vợ chồng thỏa thuận trước thời kỳ hôn nhân
và được pháp luật công nhận về quyền sở hữu nhằm đảm bảo cho lợi ích
chung của vợ chồng, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
1.1.2. Quan điểm lập pháp về chế độ tài sản chung của vợ chồng
Chế độ tài sản chung của vợ chồng là một chế định đặc biệt, xét về
phạm vi điều chỉnh có thể nói không lớn lắm bởi chỉ điều chỉnh đối với chủ
thể là vợ chồng được pháp luật công nhận. Tuy nhiên tầm ảnh hưởng của nó


11

lại vô cùng lớn bởi gia đình là tế bào của xã hội, là những mắt xích tuy nhỏ
nhưng lại đóng vai trò quyết định trong một xã hội lớn. Do đó, dù trong thời

kỳ nào, vấn đề về pháp luật hôn nhân gia đình cũng rất được chú trọng, đặc
biệt là chế định tài sản của vợ chồng. Tài sản của vợ chồng được phân chia
thành tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, để phân định
được đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng lại cần một hệ thống các quy
định của pháp luật để làm căn cứ. Từ xưa đến nay pháp luật nước ta dù trải
qua nhiều lần sửa đổi theo từng thời kỳ lịch sử nhưng nhìn chung đều phân
chia thành hai chế độ tài sản để làm căn cứ điều chỉnh quan hệ tài sản vợ
chồng, đó là chế độ tài sản theo luật định và chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Chế độ tài sản luật định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã quy định
những tài sản nào mặc nhiên, bắt buộc sẽ là tài sản chung của vợ chồng sau
khi kết hôn cũng như các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân. Chế độ tài sản này được tất cả các nước dự liệu trong
hệ thống pháp luật của mình, nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ
chồng phù hợp với lợi ích chung của Nhà nước, lợi ích của gia đình, bản thân
vợ, chồng.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận là chế độ tài sản do vợ, chồng lựa chọn
trước khi kết hôn, theo đó vợ, chồng tự thỏa thuận với nhau về các vấn đề liên
quan đến tài sản chung, tài sản riêng; các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ
chồng sẽ được áp dụng trong thời kỳ hôn nhân trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc
chung của pháp luật. Chế độ tài sản này đã được áp dụng ở Việt Nam trong
thời kỳ Pháp thuộc.
Hai chế độ tài sản trên là kết quả của một quá trình dài nghiên cứu, xây
dựng của các nhà lập pháp dựa trên nhiều yếu tố xã hội, kinh tế, lịch sử. Cụ
thể:
-

Căn cứ vào lý luận khoa học pháp lý:
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có pháp luật nhưng lại tồn

tại những quy tắc ứng xử sự chung thống nhất. đó là những tập quán và các



12

tín điều tôn giáo. Chính vì thế tuy chưa có pháp luật nhưng trong xã hội cộng
sản nguyên thủy, trật tự xã hội vẫn được duy trì. Khi xã hội ngày càng phát
triển, xã hội có phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được thì Nhà nước ra đời. Để duy trì trật tự, nhà nước cần có pháp luật. Pháp
luật ra đời cùng với nhà nước, không tách rời nhà nước. Pháp luật ra đời là
phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi công dân. Ngay từ khi ra đời, pháp luật đã
khẳng định được vai trò của mình trong quản lý xã hội, đưa các mối quan hệ
xã hội đi vào khuôn khổ, là thước đo cho mọi hành vi của con người.
Chính vì vậy, việc xây dựng một hành lang pháp lý cho quan hệ tài sản
của vợ chồng là điều tất yếu. Trong quan hệ vợ chồng buộc phải có một hệ
thống nguyên tắc ứng xử để điều chỉnh hành vi, ý chí của mỗi bên nhằm đảm
bảo cho quyền, lợi ích của mỗi bên; quyền, lợi ích của bên thứ ba đồng thời
đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.
-

Căn cứ vào ý chí của giai cấp thống trị:
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị. Do đó, pháp luật hôn nhân gia

đình cũng thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Như đã nói ở trên, pháp luật
chính là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, gia đình
là một phần của xã hội. Chính vì thế, Nhà nước quản lý xã hội thông qua việc
hình thành một hệ thống pháp luật để điều chỉnh hành vi của vợ, chồng. Quan
điểm lập pháp ở mỗi thời kỳ khác nhau thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
thời kỳ đó, điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng thể hiện qua việc thực
hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong

đời sống chung. Ý chí của giai cấp trống trị trong từng thời kỳ lịch sử được
thể hiện bằng pháp luật và qua pháp luật để duy trì, củng cố, bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị.
-

Căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử trong từng giai đoạn:
Pháp luật của mỗi thời kỳ khác nhau là khác nhau. Pháp luật được hình

thành dựa trên những đặc điểm của quan hệ xã hội, khi xã hội thay đổi thì


13

pháp luật thay đổi để phù hợp với thời kỳ đó. Việc xây dựng chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định cũng bị ảnh hưởng bởi tình
hình kinh tế - xã hội của từng thời kỳ. Có thể thấy rõ hơn qua các thời kỳ lịch
sử như sau:
Trong thời kỳ Pháp thuộc, luật pháp về dân sự ở Việt Nam mang đậm
dấu ấn của BLDS Napoleon. Trong ba BLDS được áp dụng ở ba miền Bắc,
Trung, Nam, Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ đã ghi chép những
nguyên tắc cơ bản của BLDS Pháp như: quyền tự do lập hôn ước và tính chất
không thay đổi của chế độ hôn sản. Khác với BLDS Pháp, hai bộ luật Dân
luật này chỉ dự liệu một chế độ chung để áp dụng cho những vợ chồng không
lập hôn ước, mà không đề xuất những chế độ để vợ chồng có thể thỏa thuận
lựa chọn. Thực tế, những quy định này đã được thực hiện ở Việt Nam trong
khoảng 20 năm.
Trong giai đoạn đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam – Bắc, pháp
luật về vấn đề này ở hai miền thể hiện những nội dung trái chiều. Luật
HN&GĐ năm 1959 ở Miền Bắc chỉ quy định về một hình thức của chế độ tài
sản pháp định đó là chế độ cộng đồng toàn sản, vì thế không có một quy định

nào về quyền lập hôn ước của vợ chồng. Trong khi đó, ở Miền Nam, ba đạo
luật đã được lần lượt ban hành để điều chỉnh các quan hệ dân sự, gia đình
(Luật gia đình ngày 02/01/1959, Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ dân
luật ngày 20/12/1972), đều thừa nhận quyền tự do lập hôn ước của vợ chồng
và chế độ tài sản chung theo luật định chỉ được áp dụng khi vợ chồng không
lập hôn ước. Chẳng hạn, Bộ dân luật năm 1972 quy định: “Vợ chồng có thể tự
do lập hôn ước tùy ý muốn, miễn không trái với trật tự công cộng và thuần
phong mỹ tục” (Điều 145) và “Luật pháp chỉ quy định chế độ phụ phu tài sản
khi vợ chồng không lập hôn ước” (Điều 144).
Sau khi đất nước thống nhất, Luật HN&GĐ 1986 và Luật HN&GĐ
2000 đều chỉ tập trung quy định về một chế độ tài sản pháp định. Nhà lập
pháp đã không cho phép vợ chồng lập hôn ước và việc thỏa thuận đưa tài sản


14

riêng của vợ, chồng thành tài sản chung chỉ được công nhận khi vợ, chồng đã
kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong bối cảnh đó chế độ tài sản chung
của vợ chồng theo pháp định có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ
hôn nhân hợp pháp kể từ thời điểm kết hôn. Do vậy, mọi thỏa thuận của vợ
chồng trái với các quy định của chế độ tài sản pháp định bị tuyên bố là vô
hiệu khi có tranh chấp xảy ra.
Luật HN&GĐ năm 2014 được xây dựng trong bối cảnh xã hội phát
triển hơn rất nhiều, vấn đề bình đẳng nam nữ được nâng cao, do đó chế độ tài
sản của vợ chồng theo thỏa thuận được công nhận tại Điều 47 của luật này.
Như vậy, việc xác lập chế độ tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân có
thể được hai bên vợ, chồng thỏa thuận xác lập trước khi bước vào thời kỳ hôn
nhân hợp pháp. Quy định này thể hiện sự tôn trọng thỏa thuận giữa hai bên
vợ, chồng, đồng thời cũng phần nào giúp đảm bảo được quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng trong cuộc sống hôn nhân ở tương lai.

-

Tôn trọng quyền tự do ý chí, định đoạt và sự tự nguyện của các bên vợ,
chồng phù hợp với lợi ích chung của xã hội.
Có thể thấy rằng, theo nguyên tắc của luật dân sự thì quyền sở hữu

chung được xác lập trên cơ sở thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc qui định
của pháp luật hoặc theo tập quán.
Trong các mối quan hệ, nguyên tắc tự do thỏa thuận dựa trên ý chí của
các chủ thể luôn được đặt lên hàng đầu. Cũng như vậy, trong quan hệ liên
quan đến tài sản của vợ chồng, nguyên tắc tự do thỏa thuận cũng được ưu
tiên. Theo đó, vợ chồng có quyền thỏa thuận để lựa chọn chế độ tài sản và các
vấn đề liên quan đến sử dụng tài sản được áp dụng trong thời kỳ hôn nhân và
được pháp luật tôn trọng nên những tài sản nào vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung sẽ thuộc khối tài sản chung. Đồng thời, nguyên tắc cũng đảm bảo tôn
trọng ý chí của người có tài sản: đối với những tài sản mà chủ sở hữu đã thể
hiện rõ việc cho vợ chồng thừa kế chung hoặc tặng cho chung thì đó là tài sản
chung của vợ chồng; đối với những tài sản mà vợ, chồng không thể thỏa


15

thuận hoặc không biết trước để thỏa thuận thì sẽ áp dụng quy định của pháp
luật như tài sản tạo ra trong thời kì hôn nhân, thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác; những tài sản nào mà
không đủ chứng cứ chứng minh là tài sản riêng thì là tài sản chung. Trong
quan hệ tài sản của vợ chồng, khối tài sản chung bao giờ cũng được ưu tiên
phát triển hơn là khối tài sản riêng. Chính vì thế mà tất cả những tài sản nào
không đủ chứng cứ chứng minh là tài sản riêng thì đều được coi là tài sản
chung của vợ chồng. Tuy nhiên, các thỏa thuận của vợ, chồng về tài sản

chung ngoài việc đảm bảo lợi ích cho vợ, chồng còn phải phù hợp với lợi ích
chung của xã hội.
Những quy tắc trên thể hiện tính chất cộng đồng của hôn nhân và mục
đích của hôn nhân khi xác lập quan hệ vợ chồng. Những nguyên tắc, tư tưởng
này chi phối việc quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật của
các nước nói chung, pháp luật Việt Nam nói riêng.
1.1.3. Đặc điểm chế độ tài sản chung của vợ chồng
Xuất phát từ tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân, mà vợ chồng
có thể xác lập chế độ tài sản chung theo các tiêu chí khác nhau:
Nếu xét về khía cạnh có hay không sự tồn tại của tài sản chung, chế độ
tài sản của vợ chồng được phân loại thành chế độ biệt sản (vợ và chồng không
có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và
trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó),
chế độ cộng đồng tạo sản (vợ và chồng có tài sản chung và tài sản riêng), chế
độ cộng đồng toàn sản (vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà
tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn
nhân đều thuộc tài sản chung).
Nếu xét theo ý chí của vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng gồm chế
độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ tài sản theo luật định. Chế độ tài sản theo
thỏa thuận là việc xác định nội dung về quyền tài sản áp dụng trong thời kỳ
hôn nhân dựa vào sự thỏa thuận trước khi kết hôn của vợ, chồng. Chế độ tài


16

sản theo luật định là việc xác định nội dung về quyền tài sản giữa vợ và chồng
sẽ tuân theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, dù phân loại như thế nào thì chế độ tài sản chung của vợ
chồng có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, xét về chủ thể quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này, các

bên phải là vợ chồng được xác lập bởi hôn nhân hợp pháp. Đây là đặc điểm
chỉ tồn tại trong chế độ tài sản chung của vợ chồng. Do vậy, để trở thành chủ
thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài việc có đủ năng lực chủ thể
trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết
hôn được quy định trong pháp luật HN&GĐ tại thời điểm phát sinh quan hệ
vợ chồng (ví dụ như các điều kiện về tuổi kết hôn, điều kiện về sự tự nguyện,
không vi phạm các điều cấm kết hôn...).
Thứ hai, khối tài sản chung vợ chồng là tài sản chung hợp nhất. Bước
vào thời kỳ hôn nhân, các tài sản đều do vợ chồng cùng chung công sức, ý
chí, tình cảm tạo dựng nên. Công sức, ý chí, tình cảm là những yếu tố vô
hình, trừu tượng không thể xác định một cách rõ ràng, chính xác nên không
thể phân định được kỷ phần của từng người trong khối tài sản chung đó. Tài
sản chung cũng không đòi hỏi phải do cả hai vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra
nhưng trách nhiệm trong việc tạo lập, giữ gìn, bảo quản và phát triển tài sản
chung là trách nhiệm chung của vợ chồng. Công sức của vợ chồng trong việc
tạo dựng nên khối tài sản chung không thể xác định được cụ thể, không phân
biệt ai đóng góp nhiều hơn ai nên khi thực hiện chia tài sản chung, về nguyên
tắc sẽ thực hiện chia đôi. Nguyên tắc chia đôi tài sản chung chỉ tồn tại trong
quan hệ hôn nhân, trong các quan hệ khác việc chia tài sản thường sẽ dựa vào
sức đóng góp thực tế của các bên trong khối tài sản chung đó. Hay nói cách
khác, tính chất hợp nhất của khối tài sản chung của vợ chồng là đặc điểm
khách quan do tính chất cộng đồng của hôn nhân chi phối.
Thứ ba, khối tài sản chung của vợ chồng được dùng để bảo đảm lợi ích,
nhu cầu chung của gia đình, đáp ứng việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục


17

con. Pháp luật luôn quy định vợ chồng khi thực hiện các hành vi chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản chung đều phải xuất phát từ lợi ích chung của gia

đình và phải chịu trách nhiệm về tài sản nếu gây thiệt hại cho tài sản chung.
Thậm chí, nếu vợ, chồng trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản riêng của mình hoặc tài sản chung nhưng gây thiệt hại tới tài sản chung
của vợ chồng thì phải bồi thường bằng tài sản riêng của người đó. Đối với
những hành vi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ, chồng vì
lợi ích, nhu cầu thiết yếu của gia đình được coi là mặc nhiên có sự đồng ý của
người kia. Như vậy, trách nhiệm chung đối với gia đình còn là trách nhiệm
của từng cá nhân vợ, chồng khiến cho tính chất cộng đồng của hôn nhân được
thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn.
Thứ tư, vợ chồng là chủ sở hữu có quyền tuyệt đối đối với khối tài sản
chung của vợ chồng. Khi vợ chồng thực hiện hành vi chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung sẽ không chịu sự chi phối từ bất cứ người nào khác,
đồng thời những người khác phải tôn trọng quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, vợ chồng phải đảm bảo không
xâm phạm đến lợi ích và tài sản của người khác khi thực hiện quyền sở hữu
của mình.
Thứ năm, khối tài sản chung của vợ chồng gắn liền và tồn tại cùng với
quan hệ hôn nhân hợp pháp của vợ chồng. Khối tài sản chung này tồn tại từ
khi vợ chồng bắt đầu có quan hệ hôn nhân hợp pháp và chấm dứt khi quan hệ
hôn nhân chấm dứt (một bên vợ, chồng chết hoặc ly hôn).
Thứ sáu, khối tài sản chung vợ chồng là tài sản chung hợp nhất có thể
phân chia. Mặc dù không thể xác định rõ kỷ phần của mỗi bên vợ, chồng
trong khối tài sản chung nhưng trong trường hợp pháp luật cho phép, khối tài
sản chung của vợ chồng vẫn có thể phân chia, việc phân chia được thực hiện
theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Tài sản chung của vợ chồng
được phân chia theo thỏa thuận trong trường hợp quan hệ hôn nhân vẫn còn
tồn tại nhưng vì một lý do chính đáng nào đó, vợ chồng mong muốn được


18


chia tài sản chung. Việc chia tài sản chung trong trường hợp này có thể do vợ
chồng tự thỏa thuận với nhau dựa trên các quy định của pháp luật, hoặc nếu
không thể thỏa thuận được có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc phân chia
tài sản chung theo luật định sẽ được áp dụng trong trường hợp vợ chồng ly
hôn nhưng không thể tự thỏa thuận chia tài sản được hoặc trường hợp một
bên vợ, chồng chết.
Thứ bảy, việc xác định khối tài sản chung vợ chồng có thể thay đổi qua
các thời kỳ lịch sử khác nhau tùy thuộc vào ý chí của giai cấp thống trị. Khi
xã hội thay đổi, lịch sử thay đổi, đòi hỏi pháp luật phải đưa ra những quy
định, những chuẩn mực mới phù hợp hơn với tình hình kinh tế - xã hội để
điều chỉnh hành vi của mỗi người và các mối quan hệ cho phù hợp với ý chí
của giai cấp cầm quyền và thực tế xã hội.
1.2.

Khái niệm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của
vợ chồng
Với tư cách là đồng chủ sở hữu, vợ chồng bình đẳng với nhau khi thực

hiện quyền sở hữu với tài sản chung. Quyền sở hữu đối với tài sản chung
được thể hiện cụ thể ở ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.
Trong gia đình, vợ và chồng đều có quyền nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở
hữu chung, đều có quyền khai thác công dụng, hưởng lợi ích từ tài sản cũng
như quyền định đoạt số phận của tài sản đó. Vợ, chồng phải có sự bàn bạc,
thỏa thuận sử dụng tài sản chung nhằm đảm bảo đời sống chung gia đình, sao
cho việc sử dụng, định đoạt tài sản chung đem lại lợi ích nhiều nhất cho cuộc
sống chung vợ chồng, đảm bảo nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục các con, cũng
như quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình.
Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên của quyền sở hữu. Theo quy định
tại Điều 182 BLDS 2005 thì “quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài

sản”. Theo đó, có thể hiểu quyền chiếm hữu tài sản chung vợ chồng là quyền
của vợ chồng trong việc nắm giữ, quản lý tài sản chung của vợ chồng trong
đời sống hôn nhân. Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm giữ tài


19

sản chung. Nhưng điều đó không có nghĩa cả hai bên phải là người trực tiếp
nắm giữ tài sản mà cho dù chỉ một bên nắm giữ tài sản (do người kia đi công
tác xa hoặc do một trong hai người cất giữ) thì cả hai bên đều có quyền định
đoạt, sử dụng đối với khối tài sản chung đó.
Quyền sử dụng theo quy định tại Điều 192 BLDS 2005 là “quyền khai
thác công dụng, hưởng hoa lợi lợi tức từ tài sản”. Trong tài sản chung vợ
chồng, quyền sử dụng tài sản chung vợ chồng được hiểu là quyền của vợ
chồng trong việc tự mình sử dụng để khai thác công dụng của tài sản chung,
quyền được hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung đó nhằm phục
vụ cho lợi ích chung của gia đình, đáp ứng lợi ích chính đáng của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
Một tài sản khi đã trở thành tài sản chung của vợ chồng thì cả vợ và
chồng đều có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng từ tài sản đó.
Khi tài sản chung sinh ra hoa lợi, lợi tức thì dù người đã trực tiếp khai thác
công dụng của tài sản đó là vợ hay chồng thì hoa lợi, lợi tức đó vẫn đương
nhiên trở thành tài sản chung. Cả vợ và chồng đều có quyền hưởng hoa lợi,
lợi tức do tài sản chung đó sinh ra mà không phụ thuộc vào việc người nào đã
tạo ra hoa lợi, lợi tức đó.
Quyền định đoạt được quy định tại Điều 195 BLDS 2005 là “quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”. Trong quan
hệ hôn nhân, có thể hiểu quyền định đoạt tài sản chung vợ chồng là quyền
của vợ chồng trong việc đưa ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, hoặc
chấm dứt số phận thực tế và số phận pháp lý của tài sản chung theo các quy

định của pháp luật. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để đảm bảo
nhu cầu chung của gia đình, thực hiện những nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Vợ chồng có quyền sử dụng tài sản chung để tham gia các giao dịch dân sự
đảm bảo nhu cầu sinh hoạt của gia đình (mua bán lương thực, thực phẩm, vật
dụng tiêu dùng thiết yếu, tham gia các dịch vụ thể thao, du lịch, giải trí văn
hóa, văn nghệ,..). Đồng thời, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc xác lập,


×