Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.47 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VĂN ĐÌNH THẮNG

THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành
Mã số

: Luật hình sự và tố tụng hình sự
: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Phượng

HÀ NỘI - NĂM 2016


MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn .................................. 3
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn ..................................................................... 3


5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn ................................................................ 4
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .................................... 4
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ...................................................... 5
8. Bố cục của luận văn .......................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ....................................................... 6
1.1. Khái niệm về thủ tục tố tụng hình sự đối với Người chưa thành niên ............. 6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Người chưa thành niên................................. 6
1.1.2. Khái niệm thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên ............ 8
1.2. Cơ sở quy định thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên ......... 12
1.3. Các nguyên tắc tiến hành tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên ..... 14
1.4. Ý nghĩa của thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên .............. 16
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ
NĂM 2015 VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH .............................................................................. 19
2.1. Quy định của BLTTHS năm 2003 và năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với
người chưa thành niên......................................................................................... 19
2.1.1. Những vấn đề cần xác minh khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc
tội là người chưa thành niên ........................................................................... 19
2.1.2. Chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng ........................... 25
2.1.3. Những biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế và giám sát ............ 32
2.1.4. Đặc điểm của việc tiến hành tố tụng...................................................... 35
2.1.5. Các biện pháp đối với người chưa thành niên phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự.................................................................................................. 41
2.1.6. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng ............................... 44
2.2. Thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tố tụng đối với
người chưa thành niên......................................................................................... 46


2.2.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 46

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân............................................................. 48
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ........................................................... 60
3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ............................................................ 60
3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện ............................................................. 65
3.2.1. Bảo đảm về mặt tổ chức ........................................................................ 65
3.2.3. Bảo đảm về đội ngũ bổ trợ tư pháp ....................................................... 73
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Đỗ Thị Phượng. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong luận văn
này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số
liệu trong các bảng biểu, các tài liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá
được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ nguồn.
Hà Nội, ngày 03 tháng 8 năm 2016
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

Học viên

PGS.TS Đỗ Thị Phượng

Văn Đình Thắng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS


:

Bộ luật dân sự

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

CƯQTE

:

Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em

HĐXX


:

Hội đồng xét xử

HTND

:

Hội thẩm nhân dân

NCTN

:

Người chưa thành niên

TA

:

Tòa án

TANDTC

:

Tòa án nhân dân tối cao

TGĐ&NCTN


:

Tòa gia đình và người chưa thành niên

TTHS

:

Tố tụng hình sự

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSNDTC

:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biều đồ 1:
Tỷ lệ NCTN bị khởi tố trong tổng số người bị khởi tố năm 2012 (trang 50)
Biểu đồ 2: Tỷ lệ số bị cáo là NCTN đưa ra xét xử trong tổng số các bị cáo giai đoạn
2011 - 2015 (trang 53)



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, tình hình tội phạm Người chưa thành niên (NCTN) diễn biến ngày
càng tăng cao. Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát hình sự, Bộ Công an, riêng
trong năm 2013, cả nước phát hiện 7.208 vụ việc, 10.603 đối tượng phạm tội là thanh
thiếu niên, trong đó có 10.211 đối tượng nam (chiếm 96,3%), 392 đối tượng nữ
(chiếm 3,7%). Tội phạm do NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện chiếm tỷ
lệ cao nhất, khoảng 71,8%; từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm 22,5% và dưới 14
tuổi chiếm khoảng 5,7% trong tổng số các vụ phạm tội do NCTN và trẻ em thực hiện
[35]. Vì vậy, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự (TTHS) về vấn đề này đã và đang
được Chính phủ quan tâm, xem xét và sửa đổi sao cho phù hợp hơn với tình hình
mới.
Xét dưới góc độ pháp luật hình sự, NCTN là nhóm người đang ở độ tuổi mà
khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị hạn chế và
trong nhiều trường hợp chịu tác động mạnh mẽ của nguyên nhân khách quan bên
ngoài. Vì vậy, chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với nhóm đối tượng này chủ
yếu mang tính chất giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, tạo điều kiện tốt nhất cho
họ phát triển lành mạnh, quay trở lại hòa nhập cộng đồng.
Với tính chất đặc biệt của nhóm đối tượng này, NCTN khi tham gia tố tụng
cũng cần có chính sách đặc thù. Trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003
quy định thủ tục tố tụng đối với NCTN tại Chương XXXII, Phần thứ bảy với tên gọi
là Thủ tục đặc biệt thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc xử lý hình
sự NCTN. Thủ tục này đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vụ
án hình sự có người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN. Qua thực tiễn
thi hành, các quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN đã phát huy hiệu quả tích cực
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, đứng trước những yêu cầu mới,
để đảm bảo việc xử lý NCTN phạm tội được khách quan, nhân đạo hơn, thể hiện

đúng đắn chính sách hình sự đối với NCTN phạm tội trong tình hình mới, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng NCTN khác khi tham gia TTHS, đồng thời
đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế, các quy định về thủ tục đối với NCTN trong
BLTTHS cần được nghiên cứu, sửa đổi. Việc đổi mới quy định về thủ tục tố tụng đối
với NCTN trong BLTTHS cần dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, nội luật


2

hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, cần pháp điển hóa
các quy định hướng dẫn thi hành BLTTHS liên quan.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn đó, thủ tục tố tụng đối với NCTN đã
được sửa đổi, bổ sung toàn diện, quy định tại Chương XXVIII, Phần thứ bảy (Thủ
tục đặc biệt) trong BLTTHS năm 2015 với tên gọi là: “Thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi”, bao gồm 18 điều, từ Điều 413 đến Điều 430, trong đó có nhiều điểm
mới, nội dung mới so với quy định tại BLTTHS năm 2003.
Với những tình hình mới như trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thủ tục tố tụng
đối với Người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề
tài luận văn thạc sỹ luật học, nhằm phân tích, đánh giá và làm rõ hơn các quy định về
thủ tục tố tụng đối với NCTN theo quy định tại BLTTHS năm 2003, những điểm
mới trong BLTTHS năm 2015, qua đó đưa ra những ý kiến góp phần hoàn thiện hơn
nữa pháp luật về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với ý nghĩa quan trọng như trên, đề tài về thủ tục đối với NCTN được nhiều
tác giả quan tâm. Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này của một
số tác giả trong nước dưới các góc độ, cấp độ và mức độ khác nhau.
Ở cấp độ giáo trình, cần kể đến Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của trường
Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2008 và Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Đại
học Quốc Gia Hà Nội xuất bản năm 2003.
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục tố tụng đối với NCTN:

Luận văn thạc sĩ luật học của Đỗ Thị Phượng với đề tài: Thủ tục về những vụ án mà
bị can, bị cáo là NCTN trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003; Luận án
Tiến sĩ Luật học của Đỗ Thị Phượng với đề tài: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
thủ tục tố tụng đối với NCTN trong luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2008; Khoá
luận tốt nghiệp của Dương Thị Hằng với đề tài: Thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là
NCTN trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2010; Khóa luận tốt nghiệp của
Hà Diệu Linh với đề tài: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục xét xử bị cáo là
NCTN trong pháp luật TTHS Việt Nam năm 2011; Luận văn thạc sĩ luật học của
Nguyễn Thị Hoà với đề tài: Tổ chức và hoạt động của Toà án NCTN năm 2011;
Khoá luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Lan Anh với đề tài: Hoàn thiện những quy
định của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về thủ tục tố tụng đối với NCTN năm 2012;
Luận văn thạc sĩ luật học của Vũ Thị Anh Đào với đề tài: Kiểm sát việc tuân theo


3

pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với bị can, bị cáo là NCTN năm 2014; Luận
văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Tâm với đề tài: Thủ tục tố tụng đối với bị can là
NCTN trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự năm 2015…
Tuy nhiên mỗi công trình nghiên cứu có cách tiếp cận và giải quyết vấn đề ở
góc độ khác nhau. Những đề tài nói trên nghiên cứu, phân tích và kiến nghị hoàn
thiện dựa trên cơ sở BLTTHS năm 2003 về các thủ tục TTHS đối với NCTN. Cho
đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể về các
thủ tục tố tụng đối với NCTN dưới góc độ so sánh giữa BLTTHS năm 2015 và
BLTTHS năm 2003. Vì vậy, trong bối cảnh BLTTHS năm 2015 vừa ra đời, có nhiều
sửa đổi, bổ sung so với BLTTHS năm 2003, đặc biệt đối với phần thủ tục tố tụng đối
với NCTN, tác giả tập trung phân tích thủ tục đối với các đối tượng là NCTN khi
tham gia TTHS. Thêm vào đó, các công trình nghiên cứu nói trên chủ yếu phản ánh
thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật hình sự về thủ tục tố tụng đối với
NCTN phạm tội các giai đoạn trước, chưa có thực tiễn giai đoạn 2010 đến nay. Do

đó, bên cạnh việc phân tích, đánh giá các quy định pháp luật dưới góc độ so sánh, tác
giả sẽ cung cấp thêm thực tiễn áp dụng các quy định này tại Việt Nam giai đoạn
2010 - 2015, từ đó đóng góp một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn các chế định về
NCTN.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các thủ tục đối với các
đối tượng NCTN là người bị buộc tội khi tham gia tố tụng. Các thủ tục tố tụng này
tập trung tại BLTTHS 2003, đặt trong mối quan hệ so sánh với một số quy định của
BLTTHS 2015, các quy định của luật pháp quốc tếm, CƯQT mà Việt Nam tham gia.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn nhằm:
- Làm sáng tỏ những lý luận cơ bản về thủ tục tố tụng đối với NCTN;
- Phân tích các nội dung về thủ tục tố tụng đối với NCTN trong BLTTHS năm
2003, đồng thời nêu lên những bất cập và thực tiễn thi hành các quy định này. Trên
cơ sở đó có sự đối chiếu với các quy định tại BLTTHS năm 2015;
- Qua đó đánh giá về các thủ tục trên các khía cạnh: tính pháp lý, tính phù hợp
với đặc điểm tâm, sinh lý của đối tượng, tính phù hợp với các văn bản quốc tế mà
Việt Nam tham gia...


4

- Đề xuất một số kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại trong quá trình áp
dụng pháp luật trên thực tế và hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên
Câu hỏi nghiên cứu:
- Các khái niệm nghiên cứu: Khái niệm NCTN là gì? Thủ tục tố tụng hình sự
đối với NCTN là gì? Các đặc điểm của NCTN là gì?

- Cơ sở nào quy định thủ tục tố tụng đối với NCTN?
- Các nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với NCTN là gì?
- Các ý nghĩa của thủ tục tố tụng đối với NCTN?
Chương 2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và 2015 về thủ tục tố tụng
đối với người chưa thành niên và thực tiễn thi hành
Câu hỏi nghiên cứu:
- Các vấn đề về quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục tố tụng đối với
người chưa thành niên là gì (so sánh với BLTTHS năm 2015)?
- Những vấn đề thực tiễn thi hành BLTTH năm 2003 về thủ tục tố tụng đối với
NCTN, các bất cập?
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật tố tụng
hình sự về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên
Câu hỏi nghiên cứu:
- Từ các vướng mắc, bất cập của quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN và
thực tiễn thi hành đề ra những giải pháp nào để hoàn thiện?
- Các giải pháp bảo đảm thực hiện quy định pháp luật về vấn đề thủ tục tố
tụng NCTN?
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Khi tiếp cận vấn đề nghiên cứu, luận văn vận dụng lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã
hội với vấn đề cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Đồng thời luận văn còn tham khảo các công trình nghiên cứu của tập thể và
các cá nhân có liên quan đến đề tài.


5

Ngoài ra, để hoàn thành luận văn, tác giả sử dụng nhiều phương pháp khoa
học chuyên ngành. Trong đó chú trọng phương pháp phân tích, so sánh, thống kê

nhằm đánh giá các luận điểm đặt ra trong luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa khoa học: Về mặt khoa học, luận văn nghiên cứu và đưa ra các
kết quả mới so với các công trình trước đây. Cụ thể như sau:
- Luận văn phân tích chuyên sâu, cụ thể hơn về các đối tượng là NCTN khi
tham gia thủ tục tố tụng;
- Luận văn có sự đánh giá và phân tích trong sự tương quan so sánh giữa
BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015;
- Luận văn đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định về thủ tục tố tụng
trong BLTTHS năm 2015 và những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng các vụ án
đối với NCTN.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Về mặt thực tiễn, luận văn cung cấp và phân tích các số liệu khoa học về tình
hình phạm tội của NCTN, phân tích nguyên nhân phạm tội, đặc điểm của NCTN...
Tất cả các phân tích và số liệu nêu trên cung cấp cho các nhà nghiên cứu, các nhà
khoa học, nhà làm luật... từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp phù hợp đối
với tình hình phạm tội của NCTN.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tố tụng hình sự đối với người chưa thành
niên
Chương 2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và 2015 về thủ tục
tố tụng đối với người chưa thành niên và thực tiễn thi hành
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật
tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên


6


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Khái niệm về thủ tục tố tụng hình sự đối với Người chưa thành niên
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Người chưa thành niên
a. Khái niệm
NCTN là khái niệm được sử dụng trong Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên
hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN (còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh),
được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua ngày 29/11/1985. Quy tắc này nêu rõ:
“NCTN là trẻ em hay người ít tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xem xét
vì phạm pháp theo một số phương thức khác biệt với việc xét xử người lớn” [9] (Quy
tắc số 2.2 mục a). Thực tế áp dụng pháp luật hiện nay có nhiều cách định nghĩa về
khái niệm này.
Căn cứ vào tiêu chí độ tuổi, khái niệm NCTN được Quy tắc tiêu chuẩn tối phổ
biến của Liên Hợp quốc về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do, được thông qua ngày
14/12/1990 quy định: “NCTN là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần
phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của NCTN” [7] (Quy
tắc số 2.1 mục a). Việc xác định giới hạn độ tuổi để từ đó xác định trách nhiệm phụ
thuộc vào quy định của pháp luật quốc gia cũng như từng lĩnh vực quan hệ xã hội cụ
thể. Công ước của Liên Hiệp quốc (CƯQTE) về quyền trẻ em được đưa ra ký ngày
20/11/1989, có hiệu lực ngày 02/9/1990. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và
là quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn CƯQTE vào ngày 20 tháng 2 năm 1990.
Việc phê chuẩn CƯQTE đã tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho việc bảo vệ quyền trẻ em ở
Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra những nghĩa vụ ràng buộc Việt Nam đối với việc
thực thi Công ước. Do đó, theo Bộ luật dân sự năm 2005, tại Điều 18 đã quy định:
“Người chưa đủ mười tám tuổi là NCTN”. Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em, tại Điều 1 quy định: “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam
dưới 16 tuổi”. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, NCTN là người dưới 18 tuổi và
trong từng lĩnh vực quan hệ xã hội thì khung độ tuổi để xác định trách nhiệm hình sự
là từ 14 đến dưới 18 tuổi.

Căn cứ vào sự phát triển về nhận thức và trí tuệ, từ điển tiếng Việt, trung tâm
ngôn ngữ học Việt Nam năm 2000 đưa ra khái niệm như sau: “NCTN là người chưa


7

phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần, cũng như chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ công dân”.
Các khái niệm nêu trên đưa ra các cách định nghĩa khác nhau về NCTN, dựa
vào các tiêu chí căn cứ vào độ tuổi, căn cứ vào sự phát triển về trí tuệ, thể chất… của
đối tượng này. Tuy nhiên với cách định nghĩa nào cũng chỉ ra rằng: NCTN là đối
tượng có độ tuổi giới hạn nhất định và mang những đặc điểm khác biệt về mặt trí tuệ
và thể chất so với người đã thành niên. Vì vậy, khi tham gia vào các quan hệ xã hội,
NCTN luôn là đối tượng cần có sự quan tâm đúng mức của toàn xã hội. Chính sách
hình sự của Nhà nước ta đối với NCTN chủ yếu là giáo dục và giúp đỡ họ sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh thành công dân có ích, và thủ tục TTHS cũng phải
được quy định phù hợp với lứa tuổi NCTN.
So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ người dưới
18 tuổi thay cho thuật ngữ người chưa thành niên trước đây. Qua việc nghiên cứu
khái niệm NCTN ở trên, đối chiếu pháp luật quốc tế và các luật khác của Việt Nam
cho thấy hai thuật ngữ này là đồng nhất. Việc sử dụng thuật ngữ người dưới 18 tuổi
trong BLTTHS năm 2015 của các nhà lập pháp đã cụ thể hóa hơn về khung độ tuổi
tối đa (dưới 18 tuổi) của các đối tượng áp dụng thủ tục này, đồng thời làm tăng hiệu
quả thực thi trên thực tế.
b. Đặc điểm
Việc tìm hiểu những đặc điểm về tâm lý của lứa tuổi NCTN là một vấn đề
không thể thiếu đối với cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng
trong các vụ án hình sự đối với NCTN. Căn cứ vào các nghiên cứu khoa học và cơ sở
của pháp luật hình sự, lứa tuổi này có một số đặc điểm có ảnh hưởng đến hành vi
phạm tội như sau:

Thứ nhất, NCTN là đối tượng đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể
lực và tâm sinh lý. Khả năng phát triển cụ thể của từng người có thể khác nhau
nhưng nói chung đây là thời kỳ chuyển tiếp từ "trẻ con" sang người thành niên,
nhưng họ lại chưa có sự nhận thức đầy đủ và phát triển như người thành niên. Với ý
thức khẳng định mình, muốn chứng minh bản thân mạnh mẽ khi chưa nhận thức
được đầy đủ dễ dẫn đến những sai lầm trong hành vi. Bên cạnh đó, sự áp đặt, kiểm
tra, giám sát và điều chỉnh của người lớn khiến cho NCTN càng muốn thoát ra khỏi
sự ràng buộc đó bằng nhiều cách khác nhau [27].


8

Thứ hai, ngoài việc muốn khẳng định bản thân, sự phát triển về độ tuổi gắn
liền với quá trình phát dục ở NCTN. Vì vậy, tâm tư, tình cảm của họ dễ bị xúc động,
tò mò và thích khám phá về mọi thứ hơn, đặc biệt là khám phá về cơ thể, về đối tác
nam nữ…. Đối với một số người, sự kiềm chế, hoạt động lành mạnh và môi trường
giáo dục tốt, những tình cảm đó của họ sẽ phát triển theo chiều hướng tích cực. Tuy
nhiên đối với một số NCTN khác, khi tình cảm họ không được công nhận, bản thân
không được khẳng định sẽ dẫn đến "cái Tôi" trong họ bị tổn thương. Đây chính là
một trong những nguyên nhân dẫn đến những hành động bộc phát, sai trái của họ.
Thứ ba, về mặt động cơ, hành vi của NCTN là loại hành vi dễ chịu ảnh hưởng
của môi trường xung quanh, có tính bắt chước nhưng chưa có khả năng tự kiểm chế
và đánh giá vấn đề xảy ra với mình một cách toàn diện. Do tính chủ động của họ
thấp, dễ biến động nên họ là đối tượng dễ bị kích động, hoặc trở thành đối tượng dễ
bị lợi dụng, dụ dỗ, lôi kéo vào những hành vi sai trái.
Với những đặc điểm tâm lý của lứa tuổi NCTN như trên vì vậy mức độ phát
triển về thể chất và tinh thần của đối tượng này trở thành yếu tố ảnh hưởng đến nhận
thức và hành vi phạm tội cần được xem xét. Do đó pháp luật hình sự cũng như pháp
luật TTHS cần có những chính sách phù hợp với lứa tuổi này.
1.1.2. Khái niệm thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên

a. Khái niệm
Thủ tục tố tụng là cách thức, trình tự, là nghi thức tiến hành xem xét một vụ
việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý hoặc khởi tố theo các quy định của
pháp luật [35, tr. 729]. Để đảm bảo tính khách quan, tính chính xác khi giải quyết,
bảo đảm quyền và lợi ích của các bên trong từng vụ án, pháp luật đã quy định thẩm
quyền giải quyết, trình tự tiến hành cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên khi
tham gia. Khi tiến hành giải quyết bất kỳ vụ án nào, các cơ quan có thẩm quyền hay
các bên tham gia đều bắt buộc phải thực hiện theo những cách thức, trình tự này.
Mỗi một lĩnh vực pháp luật khác nhau thì thủ tục tố tụng đối với lĩnh vực đó cũng
khác nhau. Thủ tục tố tụng dân sự quy định áp dụng cho việc giải quyết các vụ án
dân sự. Thủ tục tố tụng hành chính áp dụng cho việc giải quyết các vụ án hành
chính… Thủ tục tố tụng hình sự được quy định áp dụng cho việc giải quyết các vụ án
hình sự. Bên cạnh các thủ tục TTHS được BLTTHS quy định nhằm giải quyết các vụ
án hình sự nói chung còn có những thủ tục TTHS đặc biệt được quy định chỉ áp dụng


9

cho một số đối tượng đặc biệt như: thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh,
thủ tục rút gọn, thủ tục khiếu nại, tố cáo trong TTHS, thủ tục TTHS đối với NCTN.
Thủ tục TTHS đối với NCTN là một thủ tục đặc biệt, được quy định tại
Chương XXXII, phần thứ bảy BLTTHS năm 2003. Nếu như BLTTHS năm 2003 chỉ
áp dụng đối với đối tượng là NCTN phạm tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo) thì trong BLTTHS năm 2015, thủ tục TTHS này áp dụng cho mọi đối
tượng là NCTN, tức là mở rộng hơn nữa phạm vi áp dụng của thủ tục này, qua đó
đảm bảo được quyền và lợi ích của mọi NCTN khi tham gia TTHS.
Mặc dù quy định các thủ tục để giải quyết các vụ án hình sự đối với NCTN
thành một chương riêng, nhưng hiện nay pháp luật chưa đưa ra định nghĩa cho khái
niệm Thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN trong bộ luật cũng như các văn bản khác

có liên quan.
Luật tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Như vậy, thủ tục tố tụng hình sự là
trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Vì
chưa có quy định nào đưa ra định nghĩa cho khái niệm này dẫn đến việc có nhiều
quan điểm khác nhau trong cách hiểu về thủ tục tố tụng đối với NCTN. Cụ thể như:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: thủ tục tố tụng hình sự đối với người bị bắt, bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN là một loại thủ tục mà phạm vi áp dụng của nó là
những quy định tại Chương XXXII của BLTTHS năm 2003 và những quy định khác
của BLTTHS không trái với những quy định tại chương này [34, tr. 592].
Quan điểm thứ hai cho rằng: thủ tục tố tụng đối với NCTN được quy định
trong BLTTHS là thủ tục đặc biệt được áp dụng đối với người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 18 tuổi [30, tr. 483].
Quan điểm thứ ba cho rằng: thủ tục giải quyết vụ án mà bị can, bị cáo là
NCTN là những quy định cụ thể cần chú ý thực hiện khi tiến hành giải quyết vụ án
liên quan đến NCTN phạm tội giúp họ bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của
mình trong hoạt động TTHS [31, tr. 421].
Trong qua điểm thứ nhất đã xác định được đối tượng và phạm vi áp dụng của
các thủ tục tố tụng này: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN,
nhưng chưa xác định được giới hạn độ tuổi của đối tượng NCTN. Quan điểm thứ hai
chỉ xác định đối tượng áp dụng của thủ tục đặc biệt đối với người bị bắt, bị can, bị


10

cáo là NCTN từ đủ 14 tuổi đế dưới 18 tuổi. Tuy nhiên trong quan điểm này chưa đưa
ra phạm vi áp dụng cũng như mục đích áp dụng của thủ tục này. Và quan điểm thứ
ba đã đề cập đến mục đích của việc áp dụng thủ tục tố tụng này nhưng không xác
định rõ đối tượng cũng như mục đích áp dụng. Rõ ràng rằng, đối với việc định nghĩa

một khái niệm cần đảm bảo được tính toàn diện, logic và súc tích, qua đó mới giúp
người đọc hiểu đúng bản chất của khái niệm đó.
Qua các phân tích cũng như nghiên cứu các quan điểm nói trên, tác giả đưa ra
định nghĩa về khái niệm này như sau:
Thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN là thủ tục đặc biệt để tiến hành giải
quyết vụ án hình sự được áp dụng đối với người bị buộc tội (người bị bắt, bị tạm giữ,
bị can, bị cáo), người bị hại, người làm chứng, người bị kết án dưới 18 tuổi, giúp họ
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Định nghĩa trên đã giải quyết đầy đủ những thiếu sót của các quan điểm trên
về khái niệm Thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN, đồng thời thể hiện được các đặc
điểm của thủ tục này.
b. Đặc điểm thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên
Thứ nhất, về phạm vi áp dụng của thủ tục: Điều 301 BLTTHS năm 2003 quy
định: “Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là

người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Chương này, ...”
Như vậy, theo quy định BLTTHS năm 2003, trường hợp giải quyết vụ án hình
sự có người bị hại và người làm chứng là NCTN không áp dụng theo thủ tục tố tụng
đối với NCTN mà áp dụng thủ tục chung và một số quy định liên quan nằm chung
trong Bộ luật. Quy định này dẫn đến việc quyền của những NCTN khác không được
đảm bảo. Vì vậy, để khắc phục nhược điểm này, BLTTHS năm 2015 đã được sửa
đổi, mở rộng phạm vi áp dụng về thủ tục tố tụng tại Chương XXVIII, bao gồm cả đối
tượng bị buộc tội và đối tượng là người bị hại, người làm chứng là NCTN. Mục đích
đưa ra những quy định này nhằm đảm bảo cho các thủ tục tố tụng sao cho phù hợp
với các đặc điểm về thể chất, trí tuệ… của NCTN, nhằm xác định sự thật khách quan
của vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Mặt khác, các quy định này thể hiện kết hợp hài hòa giữa
các biện pháp cưỡng chế và giáo dục, tạo ra hiệu quả áp dụng tốt nhất đối với đối
tượng là NCTN khi tham gia TTHS.
Thứ hai, thủ tục TTHS đối với NCTN áp dụng tại thời điểm bị kết án.



11

Đây là điểm khác biệt giữa quy định đối với NCTN giữa BLHS và BLTTHS.
Quy định đối với NCTN phạm tội trong BLHS chỉ áp dụng đối với NCTN ở thời
điểm họ thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ: Lê Văn Luyện thực hiện hành vi phạm
tội khi 17 tuổi 10 ngày. Vì vậy, khi vụ án được đưa ra xét xử Lê Văn Luyện được áp
dụng khung hình phạt dành cho NCTN đối với hành vi của mình.
Còn trong BLTTHS, thủ tục tố tụng được áp dụng tại thời điểm xử lý NCTN.
Nếu vào thời điểm xử lý vụ án, họ vẫn là NCTN thì bắt buộc áp dụng những biện
pháp tố tụng theo quy định pháp luật. Trong trường hợp một người vào thời điểm
thực hiện tội phạm là NCTN, nhưng khi phát hiện tội phạm, người bị buộc tội của vụ
án đang được giải quyết là người thành niên thì không áp dụng thủ tục TTHS dành
cho NCTN. Vì đối với người đã thành niên nếu áp dụng thủ tục TTHS dành cho
NCTN sẽ không phù hợp với các hoạt động đó. Khi đó họ sẽ được áp dụng các thủ
tục TTHS như đối với người bình thường, tức là không bắt buộc phải có người bào
chữa, không nhất thiết phải cử Hội thẩm là giáo viên, cán bộ Đoàn thành niên khi
tham gia xét xử tại phiên tòa…
Thứ ba, thủ tục tố tụng đối với NCTN được áp dụng theo các quy định đặc
biệt nhưng có liên quan chặt chẽ với các quy định chung khác.
Tuy là thủ tục đặc biệt những thủ tục TTHS đối với NCTN không phải là độc
lập, tách biệt với các quy định chung. Ngược lại, các thủ tục này có mối quan hệ gắn
bó, không thể tách rời, vì nó được thực hiện trên cơ sở của các thủ tục chung, chỉ có
một vài điểm đặc trưng làm nên sự khác biệt. Có sự khác biệt do xuất phát từ các đặc
điểm về thể chất, trí tuệ… của NCTN, nhưng nó vẫn thuộc sự điều chỉnh chung của
BLTTHS, do đó vẫn cần tuân thủ và không được trái với các quy định chung. Theo
quy định, các vụ án hình sự do NCTN cũng như phải trải qua các giai đoạn: khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, thi hành án hình sự và giai đoạn giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm. Tuy nhiên không phải vụ án nào cũng phải tải qua tất qua tất cả các giai

đoạn tố tụng đó mà phụ thuộc vào quá trình xử lý và yêu cầu của người tham gia tố
tụng.
Nhận xét rằng, thủ tục TTHS đối với NCTN được thực hiện trên cơ sở của thủ
tục chung có nghĩa là khi khởi tố điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đối
với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án là NCTN thì các cơ quan tiến
hành tố tụng phải thực hiện các quy định theo Chương XXVIII của BLTTHS năm


12

2015 và các quy định chung về thủ tục tố tụng được quy định tại BLTTHS nhưng
không được trái với các quy định của Chương đặc biệt này.
1.2. Cơ sở quy định thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên
* Cơ sở về mặt lý luận:
- Cơ sở quan trọng đầu tiên xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của NCTN nói
chung và của NCTN tham gia TTHS nói riêng. Độ tuổi NCTN là độ tuổi đang ở mức
độ phát triển mạnh mẽ về thể chất và tinh thần, mong muốn khẳng định cá nhân
trước mọi người và xã hội. Chính vì những đặc điểm đó, nếu NCTN ở trong môi
trường giáo dục tốt, cùng với năng lực cá nhân hướng thiện họ sẽ phát triển theo
chiều hướng tích cực. Đối với những NCTN muốn được khẳng định "cái Tôi" to lớn
cá nhân nhưng lại tiếp xúc với môi trường “độc hại” từ bạn bè, từ bố mẹ... hoặc bị bỏ
rơi, không ai quan tâm và định hướng phát triển về nhân cách thì họ sẽ phát triển
theo chiều hướng tiêu cực, dễ dẫn đến các hành vi phạm tội [21, tr. 159].
Chính vì những đặc điểm phát triển về tâm, sinh lý chưa hoàn thiện như vây,
cho nên khả năng cải tạo NCTN phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội có thể
đạt được hiệu quả cao nếu Nhà nước có những biện pháp xử lý thích hợp, tránh tạo
tâm lý mặc cảm, tổn thương đối với NCTN. Mục đích xử lý những hành vi NCTN
phạm tội mang tính chất giáo dục, hướng thiện họ nhiều hơn là trừng trị, răn đe.
- Xuất phát từ những cam kết mang tính chất quốc tế mà Việt Nam tham gia
ký kết hoặc là quốc gia thành viên

Việt Nam là quốc gia Châu Á đầu tiên và quốc gia thứ hai trên thế giới tham
gia ký và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (ngày 20/02/1990)
ngay sau khi Công ước được mở cho các nước ký kết. Sau khi tham gia ký kết, Việt
Nam đã ban hành các văn bản pháp luật liên quan để bảo vệ trẻ em, đồng thời, sửa
đổi, bổ sung các quy định tại các bộ luật có điều khoản liên quan cho phù hợp với
các cam kết, trên cơ sở tôn trọng quyền trẻ em. Có thể thấy, những cam kết về mặt
pháp lý cùng với các hoạt động nhằm bảo vệ quyền trẻ em của Việt Nam trên mọi
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự là những bằng chứng thể hiện sự
nghiêm túc thực hiện cam kết cũng như sự đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của trẻ em trong nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. Vì vậy khi quy định các
thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN cũng như các nguyên tắc đề ra, Việt Nam cũng
đã tôn trọng các quy tắc quốc tế như: Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em


13

(1990); Quy tắc Bắc Kinh (1985), hướng dẫn Riyadh (1990) ... và đảm bảo sự phù
hợp với đặc điểm về NCTN và sự phát triển về kinh tế - xã hội của quốc gia.
- Xuất phát từ cơ sở chính sách hình sự của Chính phủ về NCTN cũng như
đảm bảo sự phù hợp với các Bộ luật, luật khác có liên quan đến NCTN.
Về vấn đề xử lý NCTN phạm tội, quan điểm của Đảng và Nhà nước là: “Việc
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18
tuổi và chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh,
trở thành công dân có ích cho xã hội” (khoản 1 Điều 91 BLHS năm 2015). Với quan
điểm thể hiện rõ chính sách nhân đạo, quan tâm và tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN như vậy, trong các văn bản pháp luật và luật có liên quan nói chung
và luật tố tụng hình sự nói riêng, đã đưa ra những quy định phù hợp với quan điểm
đó. Ví dụ như quyền lợi của NCTN trong các hoạt động tố tụng được thể hiện ở chỗ:
người bị buộc tội là NCTN được đối xử theo cách thức phù hợp với đặc điểm của lứa
tuổi trên tinh thần tôn trọng nhân cách, phẩm giá và các quyền tự do cơ bản của

NCTN, nhằm mục đích giáo dục, thúc đẩy sự tái hòa nhập của NCTN trong cộng
đồng, tránh làm cho các em cảm thấy xa lánh, mặc cảm với tội lỗi của mình [16, tr.
3]. Để đảm bảo và thể hiện đúng quan điểm về xử lý tội phạm NCTN như trên là góp
phần giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhất, thúc đẩy việc
giáo dục NCTN phạm tội nhận ra sai lầm và tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng
đồng. Ngoài ra quy định trong BLTTHS cũng thể hiện sự phù hợp với các Bộ luật
khác có liên quan đến NCTN như: Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em...
* Cơ sở thực tiễn
- Xuất phát từ thực tiễn tình hình tội phạm NCTN gia tăng ở Việt Nam
Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát hình sự, Bộ Công an, riêng trong năm
2013, cả nước phát hiện 7.208 vụ việc, 10.603 đối tượng phạm tội là thanh thiếu
niên, trong đó có 10.211 đối tượng nam (chiếm 96,3%), 392 đối tượng nữ (chiếm
3,7%). Tội phạm do NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện chiếm tỷ lệ cao
nhất, khoảng 71,8%; từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm 22,5% và dưới 14 tuổi
chiếm khoảng 5,7% trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa thành niên và trẻ
em thực hiện [37]. Có thể thấy, NCTN phạm tội ở Việt Nam là một hiện tượng đáng
lo ngại. Điều đáng lo ngại hơn là số lượng vụ án hình sự do NCTN thực hiện diễn ra
ngày càng nhiều, với mức độ nguy hiểm ngày càng cao.


14

- Xuất phát từ thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và công tác thi hành
án hình đối với các vụ án NCTN
Hiện nay, công tác giải quyết các vụ án hình sự đối với NCTN phạm tội ngày
càng được nâng cao chất lượng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, công tác này ở Việt
Nam vẫn còn nhiều vướng mắc.
Những vướng mắc này xuất phát từ các yếu tố: con người (chủ thể tiến hành tố
tụng), các quy định của pháp luật còn chưa phù hợp với thực tế, cơ cấu tổ chức chưa

phù hợp. Vì vậy, mục đích giáo dục, định hướng nhân cách tốt cho NCTN phạm tội
quay trở lại tái hòa nhập cộng đồng của việc xử lý hình sự các vụ án NCTN chưa đạt
kết quả cao. Vì vậy, chúng ta cần nâng cao hơn nữa các thủ tục tố tụng hình sự để đạt
được các mục đích đề ra cho vấn đề này.
Như vậy, xuất phát từ mặt lý luận và thực tiễn của các vấn đề trên, BLTTHS
Việt Nam đã quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN phạm tội. Những quy định
trong Chương thủ tục đặc biệt này thể hiện rõ nhất về tính nhân đạo, tính giáo dục
trong các chính sách hình sự vừa qua. Qua hơn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003
đã đạt được những hiệu quả trong công tác xử lý hình sự đối với NCTN phạm tội.
Những tồn tại, vướng mắc và sửa đổi cho phù hợp với diễn biến của thực tiễn và đòi
hỏi của tình hình mới được BLTTHS năm 2015 đảm nhiệm. Trong giới hạn phạm vi
của luận văn này, tác giả sẽ có những phân tích, nhận định, đánh giá cụ thể hơn về
hai bộ luật này trên cơ sở so sánh để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện hơn về vấn
đề thủ tục tố tụng đối với NCTN hiện nay.
1.3. Các nguyên tắc tiến hành tố tụng hình sự đối với người chưa thành
niên
Trong BLTTHS năm 2003 không quy định về các nguyên tắc tiến hành tố
tụng khi giải quyết vụ án liên quan đến NCTN. Việc quy định các nguyên tắc tiến
hành tố tụng đối với NCTN trong BLTTHS năm 2015 là một điểm mới so với
BLTTHS năm 2003. Vấn đề tiến hành tố tụng đối NCTN mang nhiều tính chất đặc
thù, khác biệt so với các đối tượng đã thành niên khác. Do đó, khắc phục nhược điểm
của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã xây dựng Điều 414, quy định đầy
đủ, toàn diện 07 nguyên tắc mà các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải quán triệt,
tôn trọng và nghiêm túc thực hiện khi tiến hành tố tụng đối với NCTN, nhằm đảm
bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong tố tụng hình sự. Các nguyên
tắc đó là:


15


“Điều 414. Nguyên tắc tiến hành tố tụng
1. Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng
thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.
2. Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi.
3. Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà
trường, Ðoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức
khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.
4. Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi.
5. Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi.
6. Bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
7. Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18
tuổi.”
Những quy định tại Điều 414 thể hiện sự tôn trọng và đảm bảo tốt nhất quyền
và lợi ích của NCTN khi tham gia thủ tục tố tụng trong các vụ án hình sự, cụ thể là
bảo đảm các quyền: quyền giữ bí mật cá nhân, quyền đảm bảo tham gia tố tụng của
người đại diện cho người dưới 18 tuổi, quyền được tham gia và trình bày ý kiến,
quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, bảo đảm việc tuân thủ các nguyên tắc xử lý
của Bộ luật hình sự (BLHS), bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng và kịp thời vụ án.
Đặc biệt, quy định này cũng ghi nhận việc đảm bảo thủ tục tố tụng thân thiện, phù
hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới
18 tuổi. Nguyên tắc này cùng với nguyên tắc bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ
luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi (khoản 6) trở thành nguyên tắc xuyên suốt,
quan trọng trong các vụ án có NCTN tham gia.
Với đặc điểm về tâm sinh, lý của NCTN chưa phát triển đầy đủ và toàn diện
về nhận thức, hành vi như người đã thành niên, do đó, khi tham gia tố tụng dù với
vai trò gì trong các vụ án hình sự, đối diện với cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố
tụng... NCTN dễ bị ảnh hưởng đến tâm lý, hoang mang, sợ sệt. Vì vậy, việc đảm bảo
tố tụng thân thiện, phù hợp với đối tượng này là nguyên tắc quan trọng giúp cho tâm

lý của NCTN khi tham gia tố tụng không bị ảnh hưởng tiêu cực. Ngoài ra, BLHS
năm 2015 cũng ghi nhận một nguyên tắc quan trọng, xuyên suốt khi xử lý NCTN
trong các vụ án hình sự: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải đảm bảo lợi


16

ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội”. Mục
đích giáo dục, giúp đỡ NCTN sửa chữa sai lầm là điểm khác biệt trong chính sách
hình sự của Nhà nước ta đối với NCTN và tội phạm là người đã thành niên. Nguyên
tắc này thể hiện sự phù hợp với các nguyên tắc quốc tế, các điều ước quốc tế, đặc
biệt là CUQTE mà Việt Nam là quốc gia thành viên. Nguyên tắc quan trọng này một
lần nữa được ghi nhận trong BLTTHS khi quy định nguyên tắc về thủ tục tố tụng đối
với NCTN.
Việc ghi nhận và quy định các nguyên tắc tiến hành tố tụng này là điểm đổi
mới rất cơ bản về thủ tục tố tụng đối với NCTN trong BLTTHS, thể hiện quan điểm,
chính sách nhân đạo của Nhà nước, tạo điều kiện tối đa bảo đảm việc bảo vệ quyền
và lợi ích của NCTN trong hoạt động tố tụng giải quyết các vụ án hình sự - bản chất
vốn là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, có tính cưỡng chế và nghiêm khắc.
Khi đã luật hóa các nguyên tắc này trong luật, các cơ quan nhà nước, người tiến hành
tố tụng và những người tham gia tố tụng có trách nhiệm tôn trọng và thực hiện
nghiêm túc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến NCTN. Do đó
pháp luật cũng nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm hoặc thực thi không đầy đủ gây ảnh
hưởng hạn chế tới việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong tố
tụng hình sự.
1.4. Ý nghĩa của thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên
Thủ tục tố tụng đối với NCTN là một thủ tục đặc biệt, được BLTTHS tách
riêng thành một chương riêng biệt, thể hiện tầm quan trọng trong việc bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp khi có NCTN tham gia tố tụng hình sự. Thủ tục tố tụng

này mang tầm ý nghĩa sau:
Thứ nhất, việc quy định trình tự, thủ tục tố tụng đối với NCTN thể hiện sự
quan tâm trong chính sách hình sự về NCTN của Việt Nam. Đồng thời, thực hiện
đúng các cam kết quốc tế, điều ước quốc tế mà Việt Nam là quốc gia thành viên,
trong đó có CƯQTE. Ngoài ra, chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với NCTN
chủ yếu mang tính giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm của mình, mà không
mang tính răn đe như đối với đối tượng người đã thành niên. Vì vậy thủ tục tố tụng
đối với NCTN cũng phải thể hiện tính giáo dục, thủ tục thân thiện, phù hợp với tâm
lý của NCTN.


17

Thứ hai, thủ tục tố tụng đối với NCTN thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa các
biện pháp cưỡng chế và giáo dục, tạo điều kiện cần thiết để NCTN biết sửa chữa sai
lầm, sớm cải tạo trở thành người lương thiện, giúp đỡ họ tái hòa nhập cộng đồng dễ
dàng. Sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp này sẽ mang lại hiệu quả tích cực trong
việc xử lý NCTN phạm tội, giảm tâm lý hoang mang, lo sợ đối với NCTN là người
bị hại, người làm chứng khi tham gia tố tụng hình sự.
Thứ ba, quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN đã đảm bảo được quyền và
lợi ích hợp pháp của NCTN.
Pháp luật TTHS quy định cho NCTN có những quyền để tự mình hoặc nhờ
người bảo vệ mình trước sự buộc tội. Đối với người bị buộc tội là NCTN thì cần có
cơ chế hữu hiệu hơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp của họ. NCTN dù đang là người
bị buộc tội thì họ cũng cần được đối xử theo cách thức phù hợp với các đặc điểm lứa
tuổi, tâm sinh lý của họ, trên tinh thần được tôn trọng và cần bảo vệ. Bởi mục đích
của việc xử lý NCTN phạm tội không mang tính chất cưỡng chế và nhằm mục đích
giáo dục, giúp họ tái hòa nhập cộng đồng sau khi thi hành án phạt. Do đó việc pháp
luật quy định Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải là người có hiểu biết về
khoa học giáo dục cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm NCTN là một sự bảo

đảm cần thiết cho quyền và lợi ích hợp pháp của họ được tôn trọng.
Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Chương XXVIII không chỉ đối với
NCTN là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, mà bổ sung thêm đối tượng
người bị hại, người làm chứng đã góp phần tăng thêm hiệu quả xử lý đối với tất cả
đối tượng là NCTN tham gia vào quá trình tố tụng trong các vụ án hình sự. Nếu như
trước đây chỉ những người bị buộc tội mới chịu sự điều chỉnh của Chương thủ tục tố
tụng đặc biệt đối với NCTN thì theo BLTTHS năm 2015, quyền, lợi ích hợp pháp
cũng như tâm, sinh lý, sức khỏe... của NCTN là người bị hại và người làm chứng
cũng được đảm bảo, đặc biệt khi có thêm quy định về các nguyên tắc áp dụng đối với
thủ tục tố tụng NCTN tại Điều 414.
Thứ tư, quy định thủ tục tố tụng đặc biệt đối với NCTN đã khắc phục được
những thiếu sót trong công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Đối tượng NCTN là một đối tượng khác biệt với các đối tượng khác khi tham
gia TTHS. NCTN chưa có khả năng nhận thức hết về tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, cũng như chưa phát triển đầy đủ và toàn diện về tâm, sinh lý,
sức khỏe... để đối mặt với những quá trình điều tra, truy tố, xét xử như người đã


18

thành niên. Do đó, nếu như NCTN khi tham gia tố tụng hình sự (kể cả đối tượng bị
buộc tội, người bị hại, người làm chứng) chịu sự điều chỉnh của các quy định như
các đối tượng khác sẽ xảy ra những nhược điểm, không chỉ làm giảm hiệu quả điều
tra truy tố, xét xử (ví dụ: vì quá hoang mang, lo sợ khi đối diện với người làm công
tác điều tra sẽ có những lời khai sai lệch) mà còn gây ảnh hưởng không nhỏ trong
quá trình phát triển về sau của NCTN (ví dụ: khi người làm chứng là NCTN đối mặt
với một thủ tục tố tụng không thân thiện, gây ra cú sốc tâm lý, không dám đối mặt
với người lạ, luôn luôn lo lắng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của họ về sau).
Việc có những quy định thủ tục tố tụng đối với NCTN riêng biệt với các đối tượng
khác làm giảm thiểu những thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

Thứ năm, quy định thủ tục tố tụng đối với NCTN sẽ giúp đưa ra những biện
pháp xử lý NCTN phạm tội phù hợp với những quy định của pháp luật.
Thủ tục TTHS đối với NCTN được kết hợp hài hòa giữa các biện pháp giáo
dục, thuyết phục và cưỡng chế, trong đó chú trọng hơn biện pháp giáo dục, thuyết
phục nhằm giúp NCTN sớm nhận thức được sai lầm, cho họ cơ hội để trở thành
người có ích cho xã hội. Các thủ tục tố tụng được quy định sao cho NCTN khi tham
gia TTHS luôn được đối xử một cách công bằng, quan tâm đúng mức và giúp cho họ
tự nhận ra được sai lầm và sửa chữa. Ngoài ra, pháp luật TTHS dành cho NCTN
phạm tội mà còn dành cho những NCTN khác tham gia tố tụng như người bị hại,
người làm chứng.
Kết luận chương: Ở Chương 1 của luận văn, tác giả tập trung làm rõ các nội
dung có liên quan đến nghiên cứu, qua đó giúp người đọc có cái nhìn khái quát về
vấn đề. Thủ tục tố tụng đối với NCTN là những thủ tục đặc biệt áp dụng với vụ án có
người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng, người bị kết án là người dưới 18
tuổi, nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án đồng thời bảo vệ được quyền và
lợi ích hợp pháp của họ khi tham gia TTHS. Với khái niệm mà tác giả định nghĩa
trong Chương 1 phần nào sẽ đưa ra cách hiểu thống nhất về vấn đề này. Bên cạnh
việc xây dựng khái niệm, Chương 1 luận văn cũng tập trung phân tích các cơ sở quy
định về thủ tục TTHS đối với NCTN, ý nghĩa cũng như các nguyên tắc tiến hành thủ
tục tố tụng này. Có thể thấy rằng, đây là Chương mở đầu giúp cho việc tìm hiểu và
phân tích vấn đề ở các Chương sau được thuận lợi và sâu sắc hơn.


19

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ NĂM 2015
VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH
2.1. QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VÀ NĂM 2015 VỀ THỦ TỤC TỐ

TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
2.1.1. Những vấn đề cần xác minh khi tiến hành tố tụng đối với người bị
buộc tội là người chưa thành niên
Xác minh một số vấn đề cần chứng minh trong các vụ án hình sự là thủ tục bắt
buộc và quan trọng, tránh oan sai, xét xử đúng người, đúng tội. Đối với quá TTHS
đối với những vụ án có NCTN là người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là NCTN), ngoài những vấn đề cần phải chứng minh như những vụ án hình sự nói
chung cần phải chứng minh thêm những tình tiết khác theo quy định trong BLTTHS.
Cần thiết có quy định này đối với NCTN phạm tội bởi đặc điểm khác biệt liên quan
đến yêu cầu giải quyết các vụ án có người bị buộc tội là NCTN [25, tr 59].
Quy định về các vấn đề cần xác minh khi tiến hành tố tụng đối với NCTN
được quy định tại khoản 2, Điều 302 BLTTHS năm 2003. Điều luật quy định rõ các
vấn đề cần xác định khi điều tra, truy tố và xét xử đối với các vụ án NCTN gồm: “a)
Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm
tội của người chưa thành niên; b) Điều kiện sinh sống và giáo dục; c) Có hay không
có người thành niên xúi giục; d) Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.”
So với Điều 302 BLTTHS năm 2003, Điều 416 BLTTHS năm 2015 có một
số sửa đổi, thay thế cụ thể:
Thứ nhất, có sự thay đổi trong việc sử dụng thuật ngữ và kỹ thuật lập pháp:
Thay thế thuật ngữ “Người chưa thành niên, người thành niên” bằng thuật ngữ
“người dưới 18 tuổi, người đủ 18 tuổi trở lên”, thuật ngữ “trình độ phát triển” bằng
“mức độ phát triển”; bổ sung thêm vấn đề cần xác minh “hoàn cảnh phạm tội”
trong các vụ án hình sự có người bị buộc tội là NCTN. Như vậy, BLTTHS năm 2015
đã chỉ rõ đối tượng cần chứng minh là “người dưới 18 tuổi, người đủ 18 tuổi trở
lên”. Việc quy định đối tượng chứng minh là NCTN như BLTTHS năm 2003 gây
khó khăn cho điều tra viên, cơ quan tố tụng trong việc xác định tuổi, ngoài ra tạo kẽ
hở cho một số đối tượng cố tình hiểu sai quy định pháp luật để làm sai quy trình tố
tụng. Việc thay thế thuật ngữ làm cho việc xác minh trở nên thuận lợi, khách quan



×