Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tìm hiểu về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.73 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Thế hệ trẻ chính là tương lai của đất nước, là mầm xanh của xã hội. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng người chưa thành niên (NCTN) vi
phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hình sự nói riêng diễn ra với
số lượng ngày càng nhiều với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng
nghiêm trọng. Vấn đề này đã và đang trở thành mối quan tâm lo lắng của toàn
xã hội.
Bộ luật tố tụng hính sự năm 2003 đã có một chương riêng quy đinh về
thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Việc quy định như
vậy là xuất phát từ tư tưởng coi trẻ em, ngay cả khi họ phạm tội là đối tượng
cần được bảo vệ. Nhằm kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cưỡng chế và giáo
dục, thuyết phục, tạo ra những điều kiện cần thết để NCTN biết và sửa chữa
sai lầm, sớm cải tạo và trở thành người có ích cho xã hội.
Thực tế việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với
những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN trong những năm qua cho thấy các cơ
quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng, vận dụng một cách linh hoạt các
quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hính sự trong giải quyết vụ án. Tuy
nhiên cũng phải thừa nhận, việc giải quyết vị án hình sự mà bị can, bị cáo là
NCTN cũng còn nhiều vướng mắc và sai phạm. Những vi phạm này một phần
do các cơ quan tiến hành tố tụng chưa nắm vững và vận dụng chính xác những
quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án mà bị can,
bị cáo là người chưa thành niên. Một phần là do một số quy định của pháp
luật tố tụng hình sự chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động tố tụng đặc biệt
này.
Do vậy, việc tìm hiểu về thủ tục tố tụng đối với NCTN là điều cần thiết,
qua đó sẽ nắm vững hơn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên
phạm tội, đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng giải quyết
các vụ án về NCTN.
1
NỘI DUNG
1.Khái niệm người chưa thành niên (NCTN) và thủ tục tố tụng đối với


người chưa thành niên phạm tội.
1.1 khái niệm người chưa thành niên(NCTN)
Khái niệm NCTN là khái niệm phổ biến được dùng trong nhiều nghành khoa
học nhưng mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi ngành khoa học có khái niệm về
NCTN khác nhau. Luật học nghiên cứu NCTN để xác định quyền và nghĩa vụ,
trách nhiệm của họ khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Theo Từ điển Tiếng Việt (2000), người chưa thành niên được định nghĩa
như sau: “người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về
thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công
dân”.
Dựa vào khái niệm này có thể hiểu NCTN là người chưa phát triển đầy
đủ, toàn diện thể lực, trí tuệ, tinh thần có nghĩa là ở lứa tuổi này họ chưa phải
là người lớn nhưng cũng không còn là trẻ con. Đây là giai đoạn diễn ra những
biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên NCTN rất dễ
bị kích động, dễ nổi nóng cho nên họ có những phản ứng nóng nảy, vô cớ,
những hành vi bất thường
1
.
Đồng thời NCTN cũng phải là người chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
công dân. Nhà nước ta quy định người từ đủ 18 tuổi là người có đầy đủ quyền
và nghĩa vụ công dân. NCTN là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Trên cơ
sở giới hạn độ tuổi mà các văn bản pháp luật cũng giới hạn quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của NCTN khi họ tham gia vào các quan hệ pháp luật. Điều 68
Bộ luật hình sự quy định: “ Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Chương này
1
ThS Đặng Thanh Nga (2008), “ Một số đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Luật
học số 1/2008.
2
đồng thời theo quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với những

quy định của chương này”
1.2.Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên
Thủ tục tố tụng đối với NCTN phạm tội, được quy định tại Chương
XXXII Bộ luật TTHS là thủ tục đặc biệt, được áp dụng đối với người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ 14 tuổi tròn cho đến dưới 18 tuổi.
Điều 301 BLTTHS 2003 quy định: “Thủ tục tố tụng đối với người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được áp dụng
theo quy định của Chương này, đồng thời theo quy định khác của Bộ luật này
không trái với những quy định của Chương này”.
Người chưa thành niên là người đang ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức
về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và đôi khi
bị tác động mạnh mẽ của những điều kiện bên ngoài. Chính sách hình sự của
Nhà nước ta đối với NCTN chủ yếu là giáo dục và giúp đỡ họ sửa chữa những
sai lầm, tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh để trở thành những công
dân có ích cho xã hội.
2. Các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về thủ tục tố tụng đối với
người chưa thành niên.
2.1. Qui định về đối tượng chứng minh
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những tình tiết phải
được xác định đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện
vụ án hình sự. BLTTHS qui định đối tượng chứng minh tại Điều 63.
Tuy nhiên, khi tiến hành tố tụng đối với những vụ án do NCTN thực
hiện, ngoài việc xác định những vấn đề cần chứng minh có tính chất bắt buộc
chung đối với vụ án hình sự qui định tai Điều 63 BLTTHS thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án cần phải chứng minh những tình tiết quy định tại
Khoản 2 Điều 302 BLTTHS, bao gồm:
-Tuổi, trình độ phát triển thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của NCTN.
3
Trong quá trình tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án

phải xác định tuổi của NCTN. Việc này cần thiết cho việc truy cứu hay không truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó.
Điều 12 BLHS Việt Nam có quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Bởi vậy, khi điều tra, truy tố, xét xử đối với người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo mà lí lịch của họ chưa được làm rõ thì Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án chỉ được khởi tố, truy tố, xét xử khi có đủ căn cứ kết
luận rằng bị can, bị cáo là người đã đủ tuổi chịu TNHS theo luật định.
Ngoài ra, tuổi của NCTN có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định
áp dụng hình phạt thích hợp và các vấn đề khác như: là cơ sở để xác định tái
phạm, tái phạm nguy hiểm, ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm dân sự
trong vụ án hình sự, việc xác định chính xác độ tuổi của NCTN giúp cho việc
xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NCTN gây ra
2
.Bảo
đảm chế độ thi hành án đúng quy định của pháp luật đối với NCTN.
Thông thường, việc xác định độ tuổi phải căn cứ vào giấy khai sinh, đối
chiếu với một số tài liệu cần thiết khác có liên quan. Tuy nhiên, không phải
lúc nào cũng biết được chính xác tuổi của bị can, bị cáo chưa thành niên. Đối
với những trẻ em sống lang thang đường phố, không có nơi cư trú rõ ràng,
không có giấy khai sinh hay các giấy tờ cần thiết khác như giấy chứng sinh, sổ
hộ khẩu…hoặc với NCTN không đủ giấy khai sinh, giấy ghi nhận việc nuôi
con nuôi; hoặc có nhưng các loại giấy tờ xác nhận thông tin lại mâu thuẫn
nhau. Điều này đã gây không ít vướng mắc tới quá trình giải quyết vụ án hình
sự. Trường hợp không biết chính xác ngày, tháng sinh của bị can, bị cáo thì
cần phải xác định như sau:
2
Xem thêm Điều 606 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005.

4
Nếu xác định được tháng sinh nhưng không xác định được ngày nào
trong tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó để xem xét trách nhiệm hình
sự đối với bị can, bị cáo.
Nếu xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng nào thì
lấy ngày cuối cùng của quý đó làm ngày sinh.
Nếu xác định được nửa đầu hay nửa cuối của năm nhưng không xác định
được ngày tháng nào thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc 31 tháng 12 của năm đó
làm ngày sinh.
Nếu không xác định nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy
ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó để xem xét trách nhiệm hình sự đối
với bị can, bị cáo.
Ngoài ra, Điều 155 BLTTHS năm 2003 đã bổ sung một điểm mới so với
BLTTHS năm 1988. Theo đó, trong những trường hợp không có tài liệu
khẳng định tuổi của người đó hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài
liệu, lời khai của bị can, bị cáo, lời khai của gia đình bị can, bị cáo thì cơ quan
tiến hành tố tụng bắt buộc trưng cầu giám định.
Ngoài độ tuổi, Đối với NCTN, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải làm rõ
mức độ phát triển về thể chất và tinh thần của họ. Mức độ phát triển về tinh
thần, một số khuyết tật về thể chất cũng như một số bệnh tật có thể là tác nhân
chính gây nên sự rối loạn về nhân cách, đẩy NCTN rơi vào con đường phạm
tội.
- Điều kiện sinh sống và giáo dục
Điều kiện sinh sống và giáo dục có ảnh hưởng to lớn tới sự phát triển
nhân cách và có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi phạm tội của NCTN.
Để xác minh được thì cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện xác minh
điều kiện sinh sống của gia đình,nội dung giáo dục của nhà trường, môi
trường sinh hoạt ở địa phương nơi NCTN cư trú, học tập hoặc cơ quan, tổ
chức nơi NCTN làm việc.
5

Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên mà con người tiếp xúc, là yếu tố
chủ đạo cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Thông qua gia
đình, con người được nuôi nấng, giáo dục và tiếp thu những kinh nghiệm xã
hội đầu tiên. NCTN rất dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tiêu cực trong chính
môi trường gia đình của họ, trực tiếp là của những người cùng chung sống
trong gia đình như ông bà, bố mẹ, anh chị em.
Nếu coi gia đình là chiếc nôi thứ nhất, thì nhà trường chính là chiếc nôi
thứ hai, ảnh hưởng đến quá trình phát triển nhân cách của NCTN. Thực tế cho
thấy, thường những học sinh bị lưu ban thì hay bỏ học, đi lang thang…và dễ
sa ngã vào con đường phạm tội.
Ngoài ra, những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, môi trường xung
quanh không lành mạnh cũng ảnh hưởng không tốt đến đầu óc nhạy cảm và
hiếu động của NCTN.
- Có hay không có người thành niên xúi giục
Do còn ít tuổi, thiếu kinh nghiệm sống lại bồng bột, nhẹ dạ, cả tin cho nên
NCTN dễ bị người lớn lôi kéo, xúi giục, rủ rê vào con đường phạm tội.
Đối với các vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN còn cần phải xác định xem
có người lớn tuổi lôi kéo hoặc xúi giục hay không vì đó không những là tình
tiết tăng nặng đối với người thành niên phạm tội (theo Điểm n Khoản 1 Điều
48 BLHS) mà nó còn là tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với NCTN phạm tội theo
qui định tại Điểm i Khoản 1 Điều 46 BLHS. Thực tiễn hoạt động tố tụng cho
thấy, đã xảy ra không ít trường hợp, bọn tội phạm đã lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin,
sự bồng bột, non nớt về kinh nghiệm sống của NCTN để rủ rê, lôi kéo, thậm
chí đe dọa, cưỡng bức, chi phối về mặt vật chất hoặc tinh thần, đẩy NCTN rơi
vào con đường phạm tội.Và cá biệt, có cả những trường hợp mà chính bố mẹ
lại là người lôi kéo, “ép buộc” con em mình phạm tội.
Như vậy, làm rõ nội dung có hay không có người thành niên xúi giục
trong vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN thực sự là một vấn đề cần thiết. Nó
góp phần giúp cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ được hoàn cảnh, điều kiện dẫn
6

đến hành vi phạm tội, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội, phát hiện đồng phạm trong vụ án mà NCTN thực hiện, đảm bảo
không để lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội, trừng trị nghiêm khắc
người thành niên xúi giục nhằm nâng cao chất lượng công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung.
-Nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Trong những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN thì đây lại là vấn đề có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác định, đánh giá đầy đủ tính chất của
hành vi phạm tội, áp dụng hình thức xử lí NCTN phạm tội cũng như biện
pháp phòng ngừa tội phạm.
Muốn xác định nguyên nhân phạm tội, trước hết phải xen xét các hiện
tượng, quá trình xã hội vì nguyên nhân và điều kiện phạm tội cũng không nằm
ngoài qui luật xã hội. Có những nguyên nhân và điều kiện phát sinh thuộc về
trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. NCTN trong quá trình hình
thành nhân cách chịu ảnh hưởng của môi trường gia đình mà trước hết là vai
trò của cha mẹ, ông bà, anh chị em… Sự không nghiêm khắc, buông lỏng
quản lí, giáo dục của gia đình cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến hành vi
phạm tội của NCTN..
Bên cạnh đó, nhà trường cũng được coi là “gia đình thứ hai” của các em.
Hầu hết, trong một thời gian dài của quá trình hoàn thiện mình, NCTN đều
gắn với môi trường sinh hoạt ở nhà trường vì quá trình học tập là một trong
những phương pháp hoàn thiện nhân cách con người nhanh chóng và khá hiệu
quả. Nhưng nhiều nơi, nhà trường vẫn chưa làm tròn được trách nhiệm của
mình trong việc quản lí, giáo dục học sinh. Đó chính là kẽ hở cho các hiện
tượng tiêu cực xâm nhập. Số lượng NCTN bỏ học ngày càng gia tăng làm cho
trình độ văn hóa của các em ngày càng giảm sút, trình độ hiểu biết thấp kém
nên các em có xu hướng tụ tập với nhóm bạn bè “cùng cảnh ngộ”, sống buông
thả hoặc bị người thành niên kích động, dụ dỗ vào con đường phạm tội.
7
Ngoài ra, một nhân tố đáng chú ý trong quá trình tìm hiểu nguyên nhân,

điều kiện phạm tội đối với những vụ án về NCTN đó là môi trường xã hội.
Tình trạng bất cập về tổ chức cộng đồng mà cụ thể là việc tổ chức vui chơi,
giải trí, xây dựng các công trình văn hóa cho thanh thiếu niên còn quá chật
hẹp, chưa được đầu tư, quan tâm thích đáng, dẫn đến các em thường tiêu hao
thời gian bằng cách tụ tập ngoài đường phố bằng những trò nghịch ngợm, tiêu
cực. Một bộ phận NCTN, do không thi được vào phổ thông trung học hoặc
không có điều kiện để học nhưng chúng ta lại chưa có những hình thức học
nghề phù hợp cho các em, vì vậy các em còn chơi bời, lang thang rồi giao du
với những tụ điểm xấu và kết thúc bằng những hành vi phạm tội.
Tóm lại, trong quá trình giải quyết vụ án do NCTN thực hiện, các cơ
quan tiến hành tố tụng, ngoài việc phải thu thập chứng cứ theo qui định chung
của BLTTHS còn bắt buộc phải chứng minh các vấn đề trên. Những tình tiết
trên không những góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện,
đầy đủ mà nó còn góp phần giúp đỡ, giáo dục NCTN trở thành công dân có
ích cho xã hội, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
CTN.
2.2. Quy định về chủ thể tiến hành tố tụng.
Khoản 1 Điều 302 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Điều
tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành
niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lí học, khoa
học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của
người chưa thành niên”.
Do những đặc điểm tâm sinh lí của NCTN là chưa phát triển toàn diện
về thể lực, trí tuệ, tinh thần, tính làm chủ bản thân còn thấp, khả năng tự kiềm
chế chưa tốt, họ chưa thể có sự cân nhắc, tính toán thận trọng, chín chắn trong
suy nghĩ trước khi có hành vi phạm tội. Bởi vậy, trình độ hiểu biết và những
kiến thức cơ bản về tâm lí học, khoa học giáo dục… sẽ là công cụ cần thiết
8

×