Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Hiệp định chống bán phá giá của WTO và luật chống bán phá giá của hoa kỳ và thách thức, khó khăn có liên quan trong xuất khẩu hàng hoá của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.15 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế toàn cầu hoá hiện nay, Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) kế thừa hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) bắt đầu
hoạt động từ 1/1/1995 nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của hệ
thống thương mại đa biên, đảm bảo cạnh tranh công bằng, lành mạnh, xoá bỏ
dần các rào cản trong thương mại quốc tế. Từ đó cho đến nay, WTO đã không
ngừng mở rộng cả về quy mô lẫn phạm vi hoạt động của mình, đã thực sự
khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong quá trình tự do hoá thương
mại quốc tế.
Cùng với hệ thống các quy tắc, nguyên tắc, các hiệp định của mình, WTO
đã tạo ra một hành lang pháp lý để từ đó các nước có thể đẩy nhanh tiến trình
toàn cầu hoá, tự do thương mại, đồng thời tiếp nhận những cơ hội thuận lợi để
phát triển nền kinh tế của mình. Tuy nhiên, hoạt động của WTO cùng với hệ
thống các nguyên tắc và hiệp định của mình không phải lúc nào cũng có lợi và
đảm bảo được sự công bằng cho các nước thành viên, đặc biệt là đối với các
nước đang phát triển.
Để có thể hiểu rõ hơn về tầm quan trọng đó với đề tài: “Hiệp định chống
bán phá giá của WTO và Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và thách
thức, khó khăn có liên quan trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam”
được chọn để nghiên cứu. Ngoài lời mở đầu, kết luận, tiểu luận được trình bày
trong 3 chương:
Chương I: Hiệp định chống bán phá giá của WTO và Luật chống bán phá giá
của Hoa Kỳ
Chương II: Những thách thức và khó khăn có liên quan trong xuất khẩu hàng
hoá Việt Nam (Trong bài viết này tôi xin nói về doanh nghiệp Cà phê Trung
Nguyên)
Chương III: Một số đề xuất và kiến nghị

1



CHƯƠNG I: HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO
VÀ LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HOA KỲ
A. Hiệp định chống bán phá giá
Trong những năm gần đây các vụ kiện về bán phá giá trong thương mại
quốc tế có xu hướng gia tăng. Trong khuôn khổ của WTO hành vi bán phá giá
được điều tiết bởi Hiệp định chống bán phá giá, tên đầy đủ của hiệp định này
là Hiệp định về thực hiện Điều VI của Hiệp định khung về thuế quan và
thương mại 1994. Hiệp định gồm 3 phần với 18 điều và 2 phụ lục.
1. Khái niệm bán phá giá
Một khái niệm bán phá giá được nêu ở Điều 2 của Hiệp định. Một hành vi
được coi là bán phá giá nếu như hàng hoá được sản xuất ở một nước và được
bán ở nước khác với giá thấp hơn giá bán ở trong nước. Thông thường bán
phá giá được xem là hành vi thương mại không công bằng và do vậy các
chính phủ có quyền hành động để chống lại việc bán phá giá nhằm bảo vệ
quyền các ngành sản xuất nội địa.
Người ta thường phân biệt đa dạng bán phá giá: phân biệt giá quốc tế;
định giá mang tính cướp bóc; và phá giá tuỳ từng lúc. Trong ba dạng trên
định giá mang tính cướp bóc được định nghĩa là việc đặt giá thấp hơn chi phí
với mục đích làm tổn hại hoặc loại trừ đối thủ cạnh tranh ở ngành sản xuất
nội địa để nâng giá hàng nhập khẩu về sau. Do vậy, hình thức bán phá giá này
thường được xem là lý do chủ yếu xem xét về mặt kinh tế của việc áp dụng
luật chống bán phá giá.
2. Điều chỉnh chống bán phá giá của GATT
Cả GATT 1947 và GATT 1994 đều không đưa ra luật chống bán phá giá
mà chỉ cho phép các thành viên có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá và đưa ra các quy tắc điều chỉnh việc áp dụng biện pháp chống bán phá
giá.

2



Hiệp định chống bán phá giá cho phép các chỉnh phủ được phép áp đặt
các biện pháp chống bán phá giá khi ngành cạnh tranh nội địa thực sự bị tổn
hại. Muốn áp dụng các biện pháp chống phá giá một nước phải:
- Chỉ ra được đang diễn ra việc bán phá giá (theo định nghĩa bán phá giá);
- Tính toán được mức độ phá giá, hay biên phá giá, có nghĩa là giá xuất khẩu
thấp hơn bao nhiêu so với giá trị ở thị trường nội địa của nước xuất khẩu;
- Chứng minh được rằng phá giá gây ra tổn thất đủ lớn về mặt vật chất.
- Biện pháp chống bán phá giá các nước thường áp dụng là áp đặt thuế chống
bán phá giá nhằm tăng giá trở lại mức thông thường.
3. Xác định việc bán phá giá (Điều 2)
Một sản phẩm được gọi là được bán phá giá nếu như giá xuất khẩu là
thấp hơn giá trị thông thường của nó. Giá trị thông thường được định nghĩa là
giá trong điều kiện thương mại bình thường của hàng hoá tương tự tại thị
trường nội địa của nước xuất khẩu.
Trong trường hợp không xác định được giá trị thông thường theo định
nghĩa trên, ví dụ do sản phẩm tương tự không được bán ở thị trường nội địa,
thì giá trị thông thường được xác định như sau:
- Dựa vào nước xuất khẩu thứ ba: lấy giá nhà xuất khẩu bán cho nước
thích hợp thứ ba.
- Tính toán giá trị thông thường: bằng chi phí sản xuất ở nước xuất xứ
cộng với một mức chi phí hợp lý về quản lý, bán hàng, và đưa mức lợi nhuận
hợp lý. Về điểm này, Hiệp định cũng đưa ra mức những quy định cụ thể cho
một số trường hợp đặc thù.
Trong trường hợp nước bán phá giá có nền kinh tế phi thị trường, WTO
cho phép thành viên của nó có thể không chấp nhận giá cả hoặc chi phí trong
nền kinh tế phi thị trường đó làm cơ sở thích hợp cho việc tính toán giá trị
thông thường do họ cho rằng giá hoặc chi phí đó là chính phủ áp đặt và
không bị chi phối bởi các lực lượng thị trường. Trong trường hợp đó cơ quan
điều tra có quyền sử dụng giá cả hoặc chi phí ở nước thứ ba làm căn cứ cho

3


việc tính giá trị thông thường. Trên thực tế, đây là một điều thiệt thòi cho các
nước bị quy cho là không có nền kinh tế thị trường vì chi phí thường bị đánh
giá cao hơn nhiều so với thực tế. Đây là trường hợp xảy ra trong vụ các chủ
trại cá basa Hoa Kỳ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá.
4. Xác định biên phá giá và mức độ tổn thất
Biên phá giá thường xác định bằng cách so sánh bình quân gia quyền
của giá bán nội địa với bình quân gia quyền của giá bán ở thị trường xuất
khẩu, hoặc bằng cách so sánh giá nội địa và giá xuất khẩu trên cơ sở giao
dịch với giao dịch.
Để xác định mức độ tổn thất do việc bán phá giá gây ra, WTO yêu cầu
phải có qúa trình điều tra tuân thủ các thủ tục quy định. Về nguyên tắc, quá
trình điều tra phải tạo cơ hội cho các bên liên quan đưa ra các bằng chứng của
mình.
Hiệp định đưa ra các quy định cụ thể sau:
- Việc điều tra chống bán phá giá phải được chấm dứt ngay lập tức nếu
các cơ quan có thẩm quyền xác định rằng biên phá giá là không đáng kể, cụ
thể là nhỏ hơn 2% so với giá xuất khẩu;
- Việc điều tra cũng phải kết thúc nếu tổng mức nhập khẩu bị phá giá là
không đáng kể, có nghĩa là tổng mức nhập khẩu từ một nước là nhỏ hơn 3%
tổng mức nhập khẩu sản phẩm đó. Tuy nhiên, việc điều tra vẫn có thể tiến
hành nếu nhiều nước gộp lại chiếm bằng hoặc hơn 7% tổng mức nhập khẩu
mặc dù từng nước chỉ cung cấp ít hơn 3%;
- Các biện pháp chống bán phá giá chỉ là hiệu lực trong vòng 5 năm tính
từ ngày có hiệu lực, trừ khi việc điều tra chỉ ra rằng việc chấm dứt các biện
pháp chống bán phá giá sẽ lại dẫn đến sự tổn thất cho ngành sản xuất nội địa;
- Phải bảo đảm rằng các bên có liên quan đều được tạo cơ hội đầy đủ để
đưa ra các bằng chứng hoặc bảo vệ các lý lẽ của mình;


4


- Nếu việc điều tra có thể minh chứng được rằng có việc bán phá giá và
ngành nội địa bị tổn hại, thì nước xuất khẩu có thể nâng giá bán của mình đến
mức phù hợp nhằm tránh bị áp đặt thuế chống bán phá giá;
- Mọi khiếu kiện về sự không nhất trí với Hiệp định có thể tham khảo
quy tắc giải quyết tranh chấp của WTO.
Ngoài các nội dung chính trên, Hiệp định còn có cơ chế cho phép tiến
hành chống bán phá giá nhân danh nước thứ ba khi nước thứ ba uỷ quyền và
yêu cầu (Điều 14).
Về mặt tổ chức thực hiện, Uỷ ban thực thi chống bán phá giá sẽ chịu
trách nhiệm giám sát thi hành luật. Việc tham vấn và giải quyết các tranh chấp
liên quan sẽ dựa trên thoả ước giải quyết tranh chấp (DSU).
Như đã nhắc tới ở mục trước, Điều 6 của Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ cũng thừa nhận quyền của mỗi bên áp dụng các “luật và quy
định của mình đối với thương mại không lành mạnh kể cả đạo luật chống phá
giá và luật thuế đối kháng”.
B. Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ
a. Trường hợp áp dụng
Thuế chống bán phá giá sẽ được đánh vào một mặt hàng nhập khẩu nếu
hàng nhập khẩu được xác định là bán phá giá. Khái niệm “phá giá” được dựa
theo chuẩn mực của WTO.
b. Điều tra bán phá giá
Giống như điều tra đánh thuế bù, điều tra bán phá giá được khởi xướng
hoặc dựa trên đơn kiện của một ngành hoặc do bản thân Bộ thương mại.
Bộ thương mại có nhiệm vụ điều tra liệu có tình trạng bán phá giá hay
không. ITC cần điều tra xem do nhập khẩu một nghành của Mỹ có tổn hại,
hay đe doạ bị tổn hại về vật chất, hay một nghành mới thành lập có suy giảm

hay không.
c. Thuế suất chống bán phá giá
Thuế suất chống bán phá giá được tính dựa vào biên bán phá giá, tức là
chênh lệch giữa giá trị thông thường của hàng hoá và giá xuất khẩu. Luật của
Hoa Kỳ có quy định chi tiết về tính toán các loại giá này đối với trường hợp
5


kinh tế thị trường và kinh tế phi thị trường, và nhìn chung đều theo các quy
định chung của WTO. Ví dụ giá xuất khẩu là 100$ còn giá trị thông thường là
125$, lúc đó biên phá giá là 125$ - 100$ = 25$, và mức thuế bán phá giá sẽ là
(125$ - 100$)/ 100 = 0,25 hay 25%.
Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ còn cho phép một ngành của Hoa
Kỳ đệ đơn khiếu nại bán phá giá ở nước thứ ba. Khi đệ đơn ngành đó phải
chứng minh cho Văn phòng Đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR) thấy rằng
vì sao việc bán phá giá đó lại gây thiệt hại cho các công ty của Hoa Kỳ, và
yêu cầu cơ quan này phải bảo vệ quyền lợi của họ theo quy tắc của WTO.
Nếu USTS thấy rằng sự khiếu kiện là có cơ sở thì sẽ yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền thích hợp ở nước thứ ba thay mặt Hoa Kỳ tiến hành việc chống bán phá
giá.
Ngoài ra theo Hiệp định chống bán phá giá của vòng đàn phán Uruguay,
chính phủ của một thành viên của WTO có thể đệ đơn lên USTR yêu cầu điều
tra chống bán phá giá đối với một sản phẩm được nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ
nước thứ ba.
d. Trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng
1. Bên nguyên đệ đơn lên Bộ thương mại và ITC.
2. Nếu vụ kiện được chấp nhận, 45 ngày sau ngày nộp đơn hoặc sau khi
Bộ thương mại bắt đầu tự tiến hành điều tra, ITC phải sơ bộ xác định sự thiệt
hại hoặc đe doạ thiệt hại đối với một nghành của Mỹ.
3. Nếu ITC xác định là không hoặc đe doạ gây thiệt hại thì vụ kiện sẽ

dừng lại. Nếu xác định là có thì Bộ thương mại phải xác định có hay không
việc bán phá giá.
4. Nếu Bộ thương mại phán quyết rằng vụ kiện là có cơ sở thì sau khi sơ
bộ khẳng định, Bộ thương mại phải xác định biên phá giá bình quân gia
quyền, đó là mức chênh lệch giữa giá trị thông thường của sản phẩm của nước
ngoài và giá xuất khẩu. Bộ có thời gian 140 ngày tính từ ngày bắt đầu điều tra
cho công việc này, và có thể kéo dài tối đa đến 190 ngày.

6


5. Nếu sơ bộ xác định là có bán phá giá thì nhà xuất khẩu phải ký gửi
một khoản đặt cọc cho Sở Hải quan Hoa Kỳ bằng với tổng mức biên phá giá
ròng.
6. Nếu Bộ thương mại xác định sơ bộ là không có bán phá giá thì nhà
xuất khẩu không phải ký gửi tiền đặt cọc. Tuy nhiên, cả Bộ thương mại và
ITC đều phải tiếp tục điều tra để có thể đưa ra kết luận cuối cùng. Ở bước này
luật có đưa ra những điều khoản cho việc đạt đến một thoả thuận ngừng vụ
kiện nếu đáp ứng những điều kiện nhất định.
7. Trong vòng 75 ngày của giai đoạn xác định sơ bộ, trong điều kiện bình
thường. Bộ thương mại phải đưa ra kết luận cuối cùng. Nếu kết luận cuối
cùng của Bộ thương mại là không có bán phá giá, thì quá trình điều tra sẽ kết
thúc và khoản tiền đặt cọc sẽ được hoàn trả lại cho nhà xuất khẩu. Nếu kết
luận là có thì ITC phải đưa ra kết luận cuối cùng về việc có bị tổn hại hay
không.
8. Đến ngày thứ 120 sau khi Bộ thương mại đưa ra kết luận sơ bộ là có,
hoặc đến ngày thứ 45 sau khi Bộ thương mại đưa ra kết luận cuối cùng ITC
phải đưa ra kết luận cuối cùng.
9. Nếu kết luận cuối cùng của ITC là có thì Bộ thương mại sẽ ban hành
lệnh áp thuế chống bán phá giá trong vòng 7 ngày sau khi ITC thông báo kết

luận cuối cùng.
10. Nếu có kiến nghị, Bộ Thương mại phải xem xét lại, thường là 12
tháng một lần, biên phá giá đối với hàng hoá trong lệnh đánh thuế chống bán
giá hiện hành. Nếu có yêu cầu Bộ thương mại phải xem xét lại các cuộc điều
tra đã được đình chỉ để xác định tình trạng và sự tuân thủ thoả thuận và biên
phá giá.
11. Các hiệp định của vòng đàm phán Uruguay quy định Bộ Thương mại
và ITC phải tiến hành rà soát lần cuối trong vòng 5 năm kể từ khi ban hành
lệnh để xác định xem việc huỷ bỏ lệnh có dẫn đến sự tiếp tục hay tái diễn việc
bán phá giá và tổn hại về vật chất không.
12. Có thể huỷ bỏ lệnh chống bán phá giá hoặc kết thúc điều tra nếu như
ITC kết luận rằng sự huỷ bỏ hiặc đình chỉ đó không dẫn đến sự tiếp tục hay
7


tái diễn sự tổn hại về vật chất, và Bộ thương mại kết luận rằng sẽ không tiếp
tục có hoặc tái diễn việc phá giá.
13. Nếu các đối tác thương mại không đồng ý với các kết luận cuối cùng
của Bộ thương mại và ITC về vụ kiện thì họ có thể kiện lên Toà án quốc tế
của Mỹ tại New York.
14. Luật còn có các điều khoản về “tình trạng khẩn cấp” cho phép bên
nguyên có thể nhanh chóng hành động để chống lại sự nhập khẩu tràn lan đe
doạ đến ngành sản xuất nội địa.
CHƯƠNG II. NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHÓ KHĂN CÓ
LIÊN QUAN TRONG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT
NAM
Vươn ra thị trường nước ngoài trong tiến trình hội nhập là lời giải cuả
sự phát triển cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên để làm được điều đó không
phải dễ dàng, Trung Nguyên cũng như các doanh nghiệp khác sẽ gặp rất
nhiều trở ngại để tìm lời giải riêng cho mình.

1. Rào cản về văn hoá
Mỗi quốc gia đều có các phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng khác
nhau và xu hướng thị hiếu thì luôn thay đổi. Trung Nguyên đang phải đứng
trước khó khăn làm sao để đánh bật được tập quán uống trà truyền thống của
một số nước như Trung Quốc, Nhật (trà xanh - ocha)… hay làm thay đổi “gu”
uống cà phê ở Bắc Mỹ với sự thống trị của Starbucks (thương hiệu cà phê
hàng đầu ở Mỹ) và lòng trung thành với các sản phẩm đã trở thành thói quen
uống rượu vang hay bia ở những nước Châu Âu. Đây là một trở ngại lớn
trong chiến lược quốc tế hoá của cà phê Trung Nguyên. Vượt qua rào cản
hàng hoá này, doanh nghiệp coi như bước đầu đã thành công trong chiến lược
hướng ngoại của mình.
2. Rào cản về cạnh tranh
8


Đây là một trở ngại lớn trong chiến lược hướng ngoại của Trung
Nguyên. Đối với hai đối tác tiềm năng lớn nhất của Trung Nguyên là Nhật,
Mỹ thì việc đưa được ly cà phê mang thương hiệu Việt Nam trở thành thứ
thức uống quen dùng của họ là điều rất khó. Bởi lẽ ở hai thị trường lớn này
các tập đoàn cà phê Starbucks (Mỹ), Nestlé (Thụy Sĩ), Art Cofee ở Nhật Bản,
đang thống trị hầu hết thị phần ở các nước này và đã trở thành thứ thức uống
không thể thiếu trong ý thức tiêu dùng của họ. Hơn nữa, các tập đoàn này với
tiềm lực vô cùng lớn dễ dàng tăng tốc với các chiến lược đa dạng hoá sản
phẩm, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, đầu tư công nghệ dây chuyền
sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm... để chiến thắng trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt từ đó chiếm lĩnh thị trường. Với nguồn lực hạn chế và với tư
cách là một doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên kinh doanh dịch vụ cà phê theo
kiểu này (từ trước đến nay Việt Nam mới chỉ xuất khẩu cà phê dạng hạt) chập
chững bước vào thị trường nước ngoài nhất là hai thị khổng lồ trên sẽ rất khó
để tạo lập được vị trí của mình.

Ngoài ra ngay ở thị trường trong nước Trung Nguyên cũng không thể lơ
là, cạnh tranh cũng đang đến hồi gay gắt, bên cạnh Trung Nguyên là các tên
tuổi cà phê như Vinacafe, Netcafe, Highlands Coffee,... và một số tên tuổi
mới như Thu Hà, Phúc Ban Mê, Quang Hà... đang tiếp bước con đường của
Trung Nguyên hàng chục các cơ sở cà phê khác đeo bám quyết liệt thương
hiệu của Trung Nguyên bằng sử dụng nhãn hiệu, bao bì, logo,... tương tự dễ
gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Làm cho Trung Nguyên phải chia sẻ bớt
thị phần của mình. Hơn nữa, các quán của Trung Nguyên đều đặt ở các vị trí
rất thuận lợi chủ yếu là các mặt phố lớn điều này gây khó khăn cho các đối
tác của Trung Nguyên trong việc thuê địa điểm vì giá thuê đất là rất cao trong
điều kiện hiện nay. Vậy liệu Trung Nguyên còn có thể tuân thủ được các
9


nguyên tắc kinh doanh khắt khe của mình không, có giữ mãi được phong cách
kinh doanh trong khi thị hiếu của khách hàng luôn luôn thay đổi và sự chạy
đua của các đối thủ cạnh tranh hay không. Hãy cùng chờ xem những bước đi
của Trung Nguyên trong thời gian tới.
3. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Vươn ra thị trường nước ngoài vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đang
là một thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Trung
Nguyên nói riêng trong quá trình hội nhập. Vừa qua nghị viện Mỹ đã thông
qua luật khiến cá Việt Nam không được dùng cái tên CATFISH và một số
thương hiệu tên tuổi của Việt Nam đã và đang bị xâm hại nghiêm trọng trên
thị trường thế giới. Nước mắm Phú Quốc, Phồng tôm Sa Đéc, ta chưa kịp xuất
khẩu thì Thái Lan đã “sử dụng hộ”, thuốc lá Vinataba..., cà phê Trung Nguyên
đã bị đăng ký tại Nhật, Mỹ trước khi Trung Nguyên vào thị trường này, nếu
không giành lại được quyền sở hữu thương hiệu “Trung Nguyên” có thể gây
thiệt hại nhiều triệu USD cho hãng và làm chậm tiến trình vào thị trường lớn
nhất thế giới này.

Như vậy hiện nay, “cái tên” không còn là chuyện nhỏ bởi đằng sau nó là
tài sản vô hình của người bán với khách hàng, là uy tín, chất lượng và hình
ảnh quốc gia... Hội nhập kinh tế thế giới, làm ăn với nước ngoài, đòi hỏi các
doanh nghiệp đặc biệt quan tâm đến vấn đề này để có thể tránh được những
tổn thất về chi phí cũng như cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
4. Sự bất ổn của thị trường cà phê thế giới
Tình hình thất thường của thị trường cà phê thế giới gây ảnh hường
không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành cà phê và các doanh
nghiệp đặc biệt là một công ty kinh doanh cà phê khép kín như Trung Nguyên
(từ khâu nguyên liệu, chế biến, đến cung ứng trên trường. Khi cây cà phê
10


chứng minh được lợi thế cạnh tranh so với nhiều loại cây trồng khác. Thì
không chỉ ở Việt Nam mà một số nước Indônêxia, Braxil, Colombia,... nông
dân đổ xô vào trồng loại cây này. Nền kinh tế thị trường thiếu bàn tay điều tiết
của nhà nước như tiếp sức cho sự tràn ngập lãnh thổ của cà phê. Làm cho giá
cà phê sụt giảm thê thảm đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành cà phê
Việt Nam, diện tích trồng cà phê giảm đáng kể làm ảnh hường đến tình hình
sản xuất kinh doanh của công ty, khó khăn trong việc cung ứng nguyên liệu
đầu vào, hạn chế sản lượng xuất khẩu của công ty.

11


CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ
1. Nhạy bén nắm bắt cơ hội kinh doanh
Kinh doanh cà phê một lĩnh vực hết sức quen thuộc, trên thực tế từ xưa
và nay, khắp hang cùng ngõ hẻm, ở đâu cũng có quán cà phê, từ cà phê quán
cóc, cà phê đèn mờ, cà phê quán bar, đến các tiệm cà phê rang xay bán lẻ... có

nghĩa là thói quen uống cà phê của người dân đã được định hình. Tuy nhiên
trong thực tế khách hàng có nhu cầu nhưng chưa được phục vụ tối đa, người
uống cà phê ở đó dường như không có sự lựa chọn, khi gọi một ly cà phê đen
thì chủ quán cho uống loại cà phê nào mà khách hàng cũng không biết, may
mắn thì được ly cà phê ngon, bằng không thì thưởng thức một ly cà phê nhạt
thếch. Nghĩa là khách uống cà phê đã bị đối xử “bất công”, chưa hình thành
một loại hình kinh doanh cà phê chuyên nghiệp dành cho ngững người ghiền
cà phê. Như vậy đây là một “phân khúc thị trường” mà tiềm năng chưa được
khai thác, và Đặng Lê Nguyên Vũ đã làm bật nên tiềm năng ấy và nhân lên
thành một chuỗi quán cà phê Trung Nguyên trong cả nước.
Không chỉ có vậy, nhạy cảm với đặc tính xã hội của cà phê và muốn đưa
hình ảnh cà phê Việt Nam ra thị trường quốc tế với tư cách là công ty đi đầu
trong lĩnh vực này. Trung Nguyên đã và đang tạo nền tảng cho mình ở thị
trường quốc tế ( Nhật, Singapore, Mỹ, Trung quốc...) với mục đích khai thác
một thị trường cà phê tiềm tàng và có thể thay đổi được “gu” của họ với
phong cách rất riêng của Trung Nguyên.
2. Tìm hiểu văn hoá, tập quán tiêu dùng để có chiến lược kinh doanh
phù hợp
Đây là vấn đề rất quan trọng khi các công ty muốn kinh doanh trên
nhiều nền văn hoá khác nhau. Am hiểu văn hoá địa phương giúp công ty gần
gũi hơn với nhu cầu và mong muốn của khách hàng từ đó đưa ra được những
12


sản phẩm phù hợp, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Có một thị
trường cà phê tiềm năng trên thế giới nhưng “gu” của mỗi thị trường lại hoàn
toàn khác nhau. Do đó không chỉ riêng Trung Nguyên mà tất cả các doanh
nghiệp Việt Nam muốn vươn ra thị trường nước ngoài nghĩa là hướng tới
nhiều nền văn hoá khác nhau thì nhất thiết phải thực hiện qua bước này.
3. Luôn tìm cho mình một lối đi riêng trên thị trường - đây là giải

pháp tăng trưởng an toàn và hiệu quả
Bằng phương thức kinh doanh độc đáo – bản quyền sử dụng thương
hiệu, Trung Nguyên đã nhân rộng được mạng lưới phân phối của mình ở
trong và ngoài nước. Với cách này Trung Nguyên không chỉ biết sử dụng có
hiệu quả vốn riêng mà còn biết kích thích và phát huy nguồn vốn của xã hội.
Đi sau thị trường nhưng Trung Nguyên đã vượt các đối thủ cạnh tranh trong
nước kinh doanh theo hình thức truyền thống là cung cấp sản phẩm cà phê
rang xay đóng gói như Việt Pháp (French Plantation Coffee), ACC coffe,
Highland và một số nhà sản xuất Việt Nam thuần tuý: cà phê Phương Vy,
Trâm Anh của Bảo Lộc, cà phê PL Château, Nam Nguyên, Trần Quang... Và
bước đầu tạo cảm xúc cho thị trường nước ngoài như Nhật, Mỹ, Trung
Quốc...
Hình thức này đã được nhiều nước sử dụng nhưng còn rất mới mẻ ở Việt
Nam. Nên chăng các doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức này để vừa
giảm được chi phí mà vẫn đảm bảo được chất lượng và hình ảnh của doanh
nghiệp.
4. Xây dựng thương hiệu một cách ấn tượng với công thức kinh
doanh bắt đầu từ khách hàng
Điều quan trọng là làm thế nào để thu hút được khách đến với mình sau
đó mới chinh phục họ bằng đồ uống và phong cách phục vụ. Ở đây ông giám
13


đốc Đặng Lê Nguyên Vũ đã thành công khi đặt tên quán là “Trung Nguyên” một biểu tượng rất đặc trưng của vùng Tây Nguyên miền trung Việt Nam. Bên
cạnh đó Trung Nguyên xây dựng cho mình công thức “khách phải được uống
loại cà phê mình muốn” và tạo một “bản sắc riêng cho cà phê Trung Nguyên”
(từ khung cảnh lịch sự, trang trí đặc trưng, âm nhạc chọn lọc...) nghĩa là
khách hàng phải được phục vụ tối đa. Đây là một điểm rất quan trọng dẫn đến
thành công của công ty.
5. Duy trì hình ảnh của doanh nghiệp với phương châm “chất lượng

là xương sống”
Đây là yếu tố quyết định đến uy tín của công ty giúp cho công ty có một
chỗ đứng lâu dài trên thị trường. Trung Nguyên duy trì kinh doanh theo chiến
lược toàn cầu lấy chất lượng cà phê là cốt lõi. Bất cứ quán cà phê Trung
Nguyên nào chỉ được dùng cà phê do Trung Nguyên chế biến, không có loại
nào khác nếu đại lý nào bán thêm loại cà phê khác chắc chắn sẽ bị loại khỏi
mạng lưới Trung Nguyên. Chính vì điều này đã giúp Trung Nguyên luôn kiểm
soát được chất lượng và giữ được phong cách riêng cho mình và tạo niềm tin
cho khách hàng.
6. Nhanh chóng dăng ký thương hiệu ở các nước đối tác
Đây là vấn đề hết sức cần thiết để tránh những rắc rối sau này như Trung
Nguyên đã gặp phảỉ. Các doanh nghiệp nên nhanh chóng đăng ký thương
hiệu, nếu chưa đủ khả năng đăng ký ở tất cả các thị trường thì hãy đăng ký ở
một số thị trường trọng điểm, “thà mất vài trăm đô đăng ký thương hiệu ban
đầu còn hơn là mất vài nghìn đô và hơn thế nữa”. Đây là lời của giám đốc
hãng cà phê Trung Nguyên - Đặng Lê Nguyên Vũ. Với một nước xuất khẩu
nông sản hàng đầu thế giới như Việt Nam nhưng các sản phẩm nông sản của
Việt Nam hầu như chưa có tên trên thế giới, nhiều sản phẩm như gạo, điều, cà
14


phê, hải sản... chủ yếu mới chỉ xuất thô cho khách hàng nước ngoài, chưa
được đầu tư đúng mức cho việc xây dựng tên tuổi, thương hiệu làm cho hàng
Việt Nam thường bị thua thiệt so với các nước khác. Nên chăng các doanh
nghiệp Việt Nam nên quan tâm hơn nữa dến việc xây dựng một “tên riêng”
cho mình như Trung Nguyên đã làm để tạo dựng được uy tín, chất lượng cũng
như hình ảnh quốc gia cho Việt Nam.
7. Thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường nhận biết của người
tiêu dùng nước ngoài về công ty và sản phẩm của công ty
Đi đôi với với việc “dán biểu trưng” công ty nên đi kèm với một chương

trình quảng cáo hướng ra nước ngoài về công ty và sản phẩm đó để tăng
cường nhận biết của người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu trên thị trường thế
giới để họ có thái độ nhìn nhận tích cực hơn, có lòng tin hơn với các sản
phẩm và nhà sản xuất Việt Nam từ đó có thiện cảm và ưa chuộng hàng Việt
Nam hơn. Đặc biệt đối với các mặt hàng truyền thống của Việt Nam. Tránh sự
nhầm lẫn như Trung Nguyên ở Mỹ vừa qua.
8. Tạo chiều sâu và tìm sự khác biệt
Cái cây đã mọc lên rồi, bây giờ phải chăm sóc cho bộ rễ bám sâu vào
đất, đầu tư mới sẽ phát triển về chất chứ không chú trọng tới lượng như trước
nữa.Thật vậy khi đã tạo được chỗ đứng trên thị trường thì các doanh nghiệp
phải duy trì vị trí đó bằng cách đầu tư theo chiều sâu, đổi mới đa dạng hoá
loại hình kinh doanh, thu hút khách hàng và tạo ra sự trung thành của khách
hàng với phong cách riêng và ấn tượng của doanh nghiệp.
9. Am tường luật pháp, chính sách của các nước đối tác
Luật pháp, chính sách ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh doanh của
doanh nghiệp. Đặc biệt các doanh nghiệp nên lưu ý về “quyền sở hữu trí tuệ”
khi kinh doanh ở Mỹ và các nước Châu Âu .
15


KẾT LUẬN
Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong 10 năm gần đây chỉ ra
rằng sự thành công kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều ở mức độ tham gia
của đất nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính phủ Việt Nam cũng
nhận thấy sự cần thiết và lợi ích khi tham gia vào hệ thống thương mại thế
giới. Việc gia nhập WTO tạo cơ hội cho các nước thành viên về phát triển
kinh tế và mở rộng thương mại, đồng thời tạo ra sự tham gia sâu sắc hơn nữa
của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới. Mặt khác sự gia nhập này
cũng tạo ra những ảnh tiêu cực và tích cực đối với sự phát triển nền kinh tế.
Phải giải quyết các thách thức như thế nào và làm thế nào để tận dụng các cơ

hội và điều kiện mà WTO tạo ra cho các nước thành viên nhằm phát triển
kinh tế và thương mại, đó là những câu hỏi đáng quan tâm với bất kỳ quốc gia
nào gia nhập WTO nói chung và Việt Nam nói riêng.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của WTO và quá trình hội nhập của
Việt Nam, trong thời gian qua Việt Nam đã và đang nỗ lực triển khai một loạt
các công việc nhằm cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, điều chỉnh, bổ sung cơ
chế chính sách quản lý thương mại của Việt Nam phù hợp với xu thế hội
nhập.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức gia nhập gia nhập WTO, đánh dấu
một bước ngoặt lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam, tạo sự thuận lợi và
thách thức cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới.
Thật vậy, bước đầu thành công, bước đầu chiến thắng trong cạnh tranh
để tạo dựng vị thế của mình trong kỷ nguyên của hội nhập, của thông tin và trí
thức, chắc hẳn giám đốc cùng các thành viên trong công ty đã phải rất vất vả,
đó là sức sáng tạo và khả năng liên tục đổi mới kết hợp với bí quyết công
nghệ, mối quan hệ với khách hàng... đã làm cho doanh nghiệp trở nên “thông
minh hơn”, và thành công hơn so với đối thủ cạnh tranh của mình, khẳng định
những bước đi vững chắc ở thị truờng trong nước và bước đầu tạo nền tảng
trên thị trường quốc tế. Và chắc rằng hương vị cà phê Việt Nam, được chế
biến bởi người Việt Nam, rồi đây sẽ lan toả ra nhiều nước trên thế giới nhờ
phương thức kinh doanh mới của Trung Nguyên bán bản quyền thương hiệu.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những vấn đề cơ bản về thể chế hội nhập kinh tế quốc tế
PGS - TS. Nguyễn Như Bình (Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội 2005)
2. Việt Nam chính sách thương mại và đầu tư - TS. Võ Đại Lược
(NXB Chính trị quốc gia - Viện kinh tế thế giới)

3. Thời báo kinh tế số 77 (Bài: Tìm cơ hội giành phần thắng) - Đào Huy
Giám
4. Báo lao động số 90 (Bài: Việt Nam những cơ hội kinh doanh, tìm hướng
đi đúng) - Nguyễn Thanh Hương
5. Tài chính số tháng 7/1998 (Bài: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác
trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam)
PGS. Trương Thái Phương (Vụ trưởng vụ tài chính đối ngoại - Bộ Tài
Chính)
6. Thời báo kinh tế số 81 (Bài: Thương hiệu cà phê Trung Nguyên) –
Nguyễn Bích Hà

17



×