Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sáng kiến kinh nghiêm các kỹ năng dạy từ mới môn tiếng anh ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.36 KB, 18 trang )

SỞ GD&ĐT TỈNH HÀ NAM
PHÒNG GDĐT THÀNH PHỐ PHỦ LÝ
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“ CÁC KỸ NĂNG DẠY TỪ MỚI MÔN TIẾNG ANH
Ở TRƯỜNG THCS”

Giáo viên: Phạm Thị Phương Thúy
Đơn vị : Trường THCS Lê Hồng Phong

Năm học 2017-2018


A-PHẦN MỞ ĐẦU
I- Lý do chọn đề tài

1. Cơ sở lý luận:
Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng D. A. Wilkins đã nói rằng "“Without
grammar, very little can be conveyed; without vocabulary, nothing can be
conveyed.” (Không có ngữ pháp, rất ít thông tin có thể được truyền đạt; Không
có từ vựng, không một thông tin nào có thể được truyền đạt cả). Thật vậy, với
bất cứ một ngôn ngữ nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó đòi hỏi
chúng ta phải có vốn từ nhất định. Tiếng Anh cũng thế, chúng ta không thế rèn
luyện và phát triển được bốn kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết nếu như không dựa
vào nền tảng của từ vựng. Như vậy việc học từ vựng và rèn luyện kĩ năng sử
dụng từ vựng là yếu tố hàng đầu trong việc truyền thụ và tiếp thu một ngôn ngữ
nói chung và tiếng Anh nói riêng. Có thể ví từ vựng là các “viên gạch”còn ngữ
pháp và các yếu tố ngôn ngữ khác là các “mạch vữa”để xây lên thành một ngôi
nhà ngôn ngữ.


2. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay trong nhà trường phổ thông, cũng giống như các bộ môn khác,
việc dạy và học tiếng Anh đang diễn ra cùng với sự đổi mới phương pháp giáo
dục, cải cách sách giáo khoa, làm cho học sinh được tiếp cận với các nội dung,
kiến thức hiện đại. Vốn từ vựng tiếng Anh trong trương trình học cũng được sử
dụng phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.
Trước hết, xuất phát từ đối tượng giảng dạy là học sinh ở lứa tuổi từ 12-16,
kinh nghiệm cuộc sống còn ít, hiểu biết xã hội hạn chế, do đó vốn từ vựng dạy
cho các em ở cấp học này thường phải được kết hợp với các kỹ năng dạy học
cho phù hợp để gây sự quan tâm, hứng thú với học sinh. Bên cạnh đó việc dạy
và học tiếng Anh trong nhà trường còn diễn ra trong môi trường giao tiếp của
thầy và trò có rất nhiều hạn chế: Dạy học ttrong một tập thể lớn (thường là đơn
vị lớp học có khoảng 40 học sinh hoặc hơn), trình dộ nhận thức có nhiều cấp độ
khác nhau, phương tiện hỗ trợ giảng dạy chưa đồng bộ. Những điều này làm
phân tán sự tập trung của học sinh, tác động rất lớn đến việc rèn luyện kĩ năng
cho học sinh, làm chậm quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh và sự phân bố
thời gian cho từng phần nội dung bài sao cho phù hợp với từng loại bài giảng
(thực hành, kĩ năng) cũng là một tác động tới việc lựa chọn, nghiên cứu và áp
dụng kĩ năng dạy từ vựng sao cho thích hợp.


Qua thực tế dạy học những năm qua, tôi nhận thấy phương pháp cũ dạy học
từ mới thường được diễn ra theo kiểu: Người dạy (giáo viên) đọc bài rồi liệt kê
ra những từ, theo giáo viên chưa từng xuất hiện trong quá trình dạy học là từ
mới (new words); sau đó người giáo viên giảng giải nghĩa, cách sử dụng từ, từ
loại cho học sinh. Nó có những hạn chế cơ bản như sau: Làm cho học sinh thụ
động trong việc làm giàu vốn từ cho mình, sử dụng từ trong ngữ cảnh giao tiếp
bị hạn chế, không linh hoạt và thường lệ thuộc vào cấu trúc ngữ pháp.
Từ đó vấn đề được đặt ra ở đây là nghiên cứu áp dụng các kỹ năng dạy từ mới,
cụ thể là các kỹ năng giới thiệu và kiểm tra từ đối với học sinh sao cho phù hợp

và có hiệu quả tốt.
II- Đối tượng nghiên cứu
1. Học sinh lớp 6 - 7
2. Sách giáo khoa 6 - 7
3. Sách bài tập 6 - 7
III- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này có thể áp dụng giảng dạy cho các học sinh khối 6, 7, 8, 9.
IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp quan sát.
2. Phương pháp nghiên cứu và thực hành.
3. Phương pháp tổng hợp.

B-

NỘI DUNG

I. Vai trò của các kĩ năng dạy từ mới trong quá trình dạy và học tiếng
Anh.
- Các kĩ năng dạy từ vựng được áp dụng trong mọi quá trình dạy học. Từ
việc giới thiệu từ, thực hành nói và viết, rèn luyện củng cố đến cả khởi động để
tạo ra một giờ học sôi nổi ngay từ giây phút đầu của một giờ học.
- Việc sử dụng các kĩ năng dạy từ mới trong quá trình dạy tiếng Anh nhằm
mục đích làm cho học sinh có vốn từ vựng đầy đủ, phục vụ cho quá trình học
tiếng, nắm được ý nghĩa, cách sử dụng của từ vựng trong quá trình giao tiếp.
- Các kĩ năng dạy từ khác nhau sẽ làm cho học sinh cảm thấy hứng thú với
môn học, ghi nhớ từ vựng với ngữ cảnh giao tiếp, nâng cao khả năng tự học
hỏi, học sinh sẽ tự làm giàu được vốn từ và tự kiểm tra được quá trình sử dụng
từ của mình. Học sinh sẽ chủ động trong các tình huống giao tiếp cũng như tiếp
thu kiến thức mới.
Trong giới hạn của đề tài này chỉ đề cập đến các kĩ năng giới thiệu và kiểm

tra việc dạy và học từ vựng.


II. Các kỹ năng dạy từ
1. Lựa chọn từ để dạy.
Trong một bài học có thể xuất hiện nhiều từ mới, xong không phải từ mới
nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những
vấn đề:
- Từ chủ động (active vocabulary)
- Từ bị động (passive vocabulary)
Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên
quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên
cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn.
Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư
thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết
định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
- Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+ Form.
+ Meaning.
+ Use.
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ
điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo
viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát
âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
-Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của
học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực
hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6
từ.
- Trong khi lựa chọn từ để dạy, giáo viên nên xem xét đến hai điều kiện sau:
+ Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?

+ Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của
học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó giáo viên phải dạy cho học sinh.
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của
học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, giáo viên nên giải thích rồi cho
học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay.
- Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm
thì giáo viên nên yêu cầu học sinh đoán.
2. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới.
Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như:
2.1. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác hoạ cho các em
nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng.
Ví dụ :


English book 6. Unit 6 : Our Tet holiday. Getting started
Để dạy các từ như: firework, lucky money giáo viên nên sưu tầm tranh
ảnh thực tế để minh họa cho bài giảng của mình.

2.2. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ.
Ví dụ :
English book 7. Unit 2 : Health. A closer look 1
Để dạy từ cough giáo viên có thể làm động tác ho để học sinh đoán nghĩa.
2.3. Realia (vật thật): Dùng những dụng cụ trực quan thực tế có được.
Ví dụ :
English book 6. Unit 1 : Getting started
Để dạy từ uniform giáo viên có thể chỉ vào bộ đồng phục học sinh đang mặc
để học sinh đoán nghĩa.
2.4. Situation / explanation:
Ví dụ :

English book 7. Unit 2 : Getting started
Để dạy cụm từ put on weight giáo viên có thể giải thích: It means becoming
heavier.
2.5. Example
Ví dụ :
English book 6. Unit 10 : Getting started
Để dạy từ appliance giáo viên có thể liệt kê: fridge, washing machine and
cooker are some appliances in your house.
2.6. Synonym / antonym (đồng nghĩa / trái nghĩa): Giáo viên dùng những
từ đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa.
Ví dụ :
English book 6. Unit 4 : Getting started
Giáo viên sử dụng từ modern để giải thích từ historic .


2.7. Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng
Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi
không còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu
tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho
phép, giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó.
3.Tiến trình dạy từ.
Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự:
nghe, nói, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác “nghe”. Hãy nhớ
lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe, bắt
chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của
bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất:
- Bước 1: “nghe”: cho học sinh nghe từ mới.
- Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần mới yêu cầu học sinh
nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại, cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó
mới gọi cá nhân.

- Bước 3: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi gi áo
viên mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở.
- Bước 4: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện
âm tiết có trọng âm và đánh dấu.
- Bước 5: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học.
III. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ

Kiểm tra từ vựng của học sinh cũng là một phần quan trọng trong quá trình
dạy học. Nó xác định xem học sinh nắm được từ ở mức độ nào. Việc kiểm tra
thường diễn ra dưới hai cấp độ; Đơn giản và hoàn thiện.
1. Kiểm tra đơn giản.
Kiểm tra đơn giản là việc kiểm tra từ vựng riêng lẻ, kiểm tra ngay sau khi
hoàn thành việc giới thiệu từ vựng. Các hoạt động kiểm tra ở từng bài giảng
thường được giáo viên nêu ra dưới dạng các trò chơi khiến học sinh thích thú,
say mê với bài học, kích thích sự ganh đua trong học tập.
1.1. Rub out and remember
- Giáo viên viết các từ mới lên bảng, cho học sinh đọc vài lần để ghi nhớ.
- Xoá dần từng từ tiếng Anh và yêu cầu học sinh nhìn từ tiếng Việt để đọc
lại các từ bị xoá.
- Khi các từ tiếng Anh dã bị xoá hết, yêu cầu học sinh lên viết lại.
Ex: English 7-Unit 9- A closer look 1
1…………..: diễu hành
2-………….:người biểu diễn
3-…………..:Thuộc về lễ hội


4-…………..:mang tính văn hóa
1.2. Slap the board:
- Giáo viên viết từ mới hoặc dán tranh lên bảng.
- Gọi hai nhóm lên bảng, mỗi nhóm từ bốn đến năm học sinh.

- Yêu cầu các nhóm đứng cách bảng một khoảng bằng nhau.
- Giáo viên hô to từ tiếng Việt nếu từ trên bảng bằng tiếng Anh và ngược lại
(nếu dùng tranh vẽ thì hô to từ tiếng Anh)
- Lần lượt từng học sinh ở hai nhóm chạy lên bảng, vỗ vào từ được gọi.
- Học sinh thuộc nhóm nào làm đúng và nhanh hơn thì nhóm đó ghi điểm.
- Nhóm nào ghi được nhiều điểm hơn thì thắng.
Ex: English 6 -Unit 3 –Getting started
Checking vocabulary: slap the board
talkative

confiden
t

creative
shy
clever

1.3.What and Where:
- Giáo viên vẽ các vòng tròn lên bảng tương ứng với số lượng từ vừa dạy.
- Viết các từ vào các vòng tròn.
- Cho học sinh đọc lại các từ đó.
- Lần lượt xoá các từ trong vòng tròn, chỉ vào vòng tròn tròn trống và yêu
cầu học sinh đọc lại.
- Yêu cầu học sinh viết lại các từ vào đúng vị trí trong vòng tròn.
Ex: English 6 -Unit 4 –Getting started
cathedra
l

memorial
palace


statue
square

1.4. Matching:
- Giáo viên viết các từ mới hoặc từ muốn ôn lại cho học sinh thành một cột.
Viết ý nghĩa, từ tiếng Việt, hoặc vẽ thành một cột khác không theo thứ tự của
các từ ở cột kia.


- Yêu cầu học sinh nối các từ tương ứng ở hai cột với nhau.
Ex: English 6- Unit 6-Skills 1
bow
envelope
poverty
laughter
happiness

tiếng cười
sự nghèo đói
lậy
niềm hạnh
phúc
phong bao

1.5 Jumbled words:
- Giáo viên viết các từ với các chữ cái xáo trộn, sau yêu cầu học sinh viết lại
từ cho đúng.
Ex: English 7- Unit 2-Getting started
a, glearyl

b, runsubn
c, tosp
d, ensiksc
Key:
a, allergy

b, sunburn

c, spot

d, sickness

1.6 Bingo:
- Giáo viên vẽ lên bảng 1khung có 6 ô và yêu cầu học sinh vẽ vào vở.
- Giáo viên yêu cầu học sinh viết lại 6 từ mà chúng đã được học vào trong
khung.
Ex: English 7- Unit 3-Getting started

community

encourage

benefit

homeless

donate

payment


- Giáo viên đọc các từ trên bảng nhưng không theo thứ tự.
- Học sinh đánh dấu (v) vào các từ đã chọn khi nghe giáo viên đọc từ đó.
- Học sinh nào có cả 5 từ đã được đánh dấu (v) hô to “Bingo” là chiến
thắng.
1.7. Guessing game:
Một học sinh viết từ vào một tờ giấy hoặc sử dụng hình ảnh từ, sau đó
dùng các từ khác miêu tả, diễn đạt từ đó cho các học sinh khác đoán.
Các kĩ năng kiểm tra được thực hiện ở mỗi giờ dạy khác nhau để tạo ra sự
mới mẻ, không gây nhàm chán cho học sinh. Song ta cũng cần chú ý đến đối


tượng học sinh, hay chính là trình độ nhận thức của học sinh nhanh hay chậm
để đảm bảo việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên và với mọi học sinh.
Đối với các học sinh khá, tiếp thu nhanh giáo viên sử dụng các kĩ năng thường
mang tính chất yêu cầu học sinh tái tạo lại phần từ đã học như ; Rubout and
remember, slap the board, what and where, net word ... Đối với học sinh yếu,
tiếp thu chậm hơn thì sử dụng các cách kiểm tra mang tính gợi mở từ như:
jumbled words, matching, Bingo...
2. Kiểm tra hoàn thiện.
Bên cạnh việc kiểm tra đơn giản, còn có kiểm tra hoàn thiện. Kiểm tra hoàn
thiện được thực hiện sau khi phần từ vựng được thực hành, ôn luyện và củng cố
trong các giờ thực hành nói – viết, giờ luyện kĩ năng nghe, đọc, viết. Loại kiểm
tra này thường diễn ra dưới dạng kiểm tra nói hoặc viết. Giáo viên có thể thực
hiện ngay trong phần warm up” của bài dạy hoặc dưới dạng kiểm tra bài cũ,
kiểm tra 15 phút, 45 phút hoặc kiểm tra học kỳ.
Ví dụ:
Gap fill: Học sinh điền từ vào chỗ trống để hoàn thiện một câu hoặc
một đoạn văn.
Choose the best anwser: Học sinh chọn đáp án đúng nhất trong các
đáp án gợi ý.

- Put words in the right order: Học sinh sắp xếp các từ xáo trộn thành câu
hoàn chỉnh.
- Write sentence from the words given: Học sinh viết câu từ các từ gợi ý.
- Chain game: Học sinh làm việc trong nhóm, người sau bổ xung ý thêm
vào câu của người trước.
- Nought and crosses: Học sinh thực hiện kiểm tra từ vựng dưới dạng các
mẫu câu thực hành giao tiếp.
- Pyramid: Học sinh viết các câu theo chủ điểm dưới hình thức tổ chức từ
cá nhân đến nhóm nhỏ, nhóm lớn để dần bổ xung ý cho nhau.
Mục đích của việc kiểm tra hoàn thiện này nhằm kiểm tra học sinh có hiểu
và sử dụng đúng từ trong các tình huống giao tiếp cụ thể không, và bên cạnh đó
còn nhằm giúp học sinh xây dựng được vốn từ vựng đầy đủ và phong phú, việc
kiểm tra có thể thực hiện theo từng yêu cầu cụ thể hoặc tổng hợp chung trong
bài kiểm tra 45 phút hoặc kiểm tra học kỳ.
- Kiểm tra nghe: Gap fill, Choose the best answer, dictation.
- Kiểm tra nói : Chain game, nought and crosses
- Kiểm tra đọc: Gap fill, choose the best answer.
- Kiểm tra viết: Put words in the right order, write sentence from the words
given, pyramid.


IV. Giải pháp mới, sáng tạo:
Từ lâu nay, giáo viên chúng ta vẫn quen với cách dạy truyền thống là bám
theo sách, người thầy làm trung tâm của tiết học nên việc đổi mới phương pháp
dạy học không ít thầy cô cảm thấy bối rối. Do vậy, ngoài những phương pháp
dạy từ vựng đã được nêu ở trên để chuẩn bị một tiết dạy từ vựng hay, lôi cuốn
được học sinh, đòi hỏi giáo viên phải mất nhiều thời gian để tìm tòi, sưu tầm
tranh ảnh, làm đồ dùng giáo cụ trực quan, mang những vật thật đơn giản đến
lớp….. giúp học sinh nhớ từ ngay tại lớp .
Vì vậy dạy từ vựng theo phương pháp mới, đạt hiệu quả cao nhất cần đảm

bảo các bước sau :
1- Khâu chuẩn bị
* Đối với giáo viên :
- Giáo viên cần đầu tư nhiều thời gian để tìm kiếm tài liệu, hình ảnh liên
quan đến chủ đề , đồng thời không ngừng cập nhật thông tin để hỗ trợ bài
giảng.
-Thường xuyên làm đồ dùng giáo cụ trực quan đơn giản để gây hứng thú
trong các tiết học .
- Chuẩn bị bài thật kỹ, chi tiết trước khi đến lớp.
* Đối với học sinh:
- Chuẩn bị bài kỹ trước khi đến lớp.
- Tìm trước từ mới ở nhà.
- Luyện cách phát âm thường xuyên.
- Tích cực làm đồ dùng giáo cụ trực quan khi giáo viên yêu cầu .
- Trong lớp chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu xây dựng bài , tích cực, tự
giác khi hoạt động nhóm , cặp .
2- Vào bài
Tuỳ từng bài giảng giáo viên phải khéo léo tìm được cách vào bài hay để
lôi cuốn , thu hút học sinh ngay từ đầu tiết học.
Giáo viên cần dẫn dắt học sinh nhập tâm vào bài học bằng nhiều cách
khác nhau. Chẳng hạn “gợi ý” bằng những câu hỏi đơn giản liên quan đến đề
tài,buộc học sinh phải suy nghĩ, trả lời theo ý riêng. Trên cơ sở đó dẫn dắt đưa
các ngữ liệu vào bài học .
Trao quyền chủ động sáng tạo cho học sinh: Nếu như trước đây, thầy là
trung tâm của tiết học, thì bây giờ học trò phải là người hoạt động nhiều hơn
để có thể hình thành được nhiều kỹ năng tự tin trong giao tiếp. Thường xuyên
sử dụng vốn từ mới của mình . Vì thế giáo viên phải phải nghĩ ra nhiều hoạt
đồng trò chơi theo nhóm, theo cặp để học sinh tham gia xây dựng bài tốt hơn.
Tuỳ vào những đòi hỏi của từng kỹ năng mà có những thủ thuật thích hợp cho



từng bài. Khai thác triệt để các hoạt động và vận dụng chúng một cách linh
hoạt chứ không gò bó vào khuôn khổ.
3. Lưu ý
Nên giới thiệu từ trong từng mẫu câu cụ thể. Ở những tình huống giao tiếp
khác nhau, giáo viên có thể kết hợp việc làm đó bằng cách thiết lập được sự
quan hệ giữa từ cũ và từ mới, từ vựng phải được củng cố liên tục.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ và nên nhớ cho học
sinh vận dụng từ vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế giúp các em
nhớ từ lâu hơn, giao tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao.
4. Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà
Thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình
các em phải tự tổ chức hoạt động học tập của mình. Vì thế, ngay từ đầu từ năm
học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng hoạt động học tập ở nhà thật
hiệu quả. Làm được điều đó, thì chắc chắn hoạt động dạy và học sẽ ngày càng
hoàn thiện hơn.

C- KẾT QUẢ ÁP DỤNG.
- Qua thực tế giảng dạy các năm qua với phương pháp dạy học mới, trong
các tiết dạy tôi nhận thấy với các kỹ năng dạy từ mới như trên nhiều học sinh có
thể nắm được từ ngay tại lớp. Hơn thế nữa các em hào hứng và sôi nổi hơn so
với cách dạy cũ. Các em đã có thể đoán được nhiều từ mới thông qua tranh ảnh,
ngữ cảnh,… giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn. Ngoài ra các hoạt động
kiểm tra cũng giúp các em khắc sâu được từ dễ dàng hơn.
Với các kỹ năng dạy từ mới như trên kết hợp với việc yêu cầu các em viết
từ mới thường xuyên ở nhà nên học sinh đã ghi nhớ v à viết chính xác được từ
mới hơn. Do đó kết quả học tập bộ môn đã được cải thiện đáng kể.
- Cụ thể năm học 2016 -2017

L ớp

6D
7A
7B
7C

Chất lượng
khảo sát đầu năm
63% trên TB
61% trên TB
69% trên TB
70% trên TB

Chất lượng
cuối năm
72% trên TB
67% trên TB
75% trên TB
78% trên TB


D- BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Trong các tiết học vận dụng các kỹ năng dạy từ mới tôi nhận thấy rằng để
giờ dạy đạt hiệu quả cao thì người giáo viên cần phải:
- Luôn luôn gần gũi, cởi mở với học sinh để tạo tình cảm thầy trò, khiến
học sinh yêu thích môn học hơn.
- Chuẩn bị bài giảng và học liệu kỹ càng sao cho phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
- Đưa ra các tình huống dễ hiểu và gợi mở cho các em đoán từ chính xác.
- Không nên gò bó từ vựng và ngữ liệu trong phạm vi SGK. Tùy theo khả
năng của học sinh mà giáo viên có thể mở rộng nội dung của ngữ liệu tới chừng

mực có thể.
- Giáo viên chuẩn bị chu đáo các thiết bị và đồ dùng dạy học, tìm tòi nhiều
tranh ảnh để gây ấn tượng sâu sắc cho học sinh, giúp các em nhớ từ ngay trên
lớp.
- Thường xuyên yêu cầu các em viết chính tả từ mới vừa học ít nhất là 10
lần mỗi từ.
- Hướng dẫn các em tự chơi một số trò chơi trong các giờ truy bài nhằm
giúp các em ôn luyện các từ đã học.
- Khuyến khích các em tự mua và sưu tầm truyện tiếng Anh đơn giản để
đọc nhằm phát triển vốn từ vựng của mình.
- Cần tổ chức lớp học một cách khoa học. Cần lựa chọn loại hình luyện tập
phù hợp với sĩ số học sinh và diện tích phòng học.
- Hơn thế nữa, giáo viên cần phải luôn luôn trau dồi các kỹ năng dạy học
của mình qua cá phương tiện sách báo, các trang mạng hoặc từ bạn bè đồng
nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn, đem lại những giờ học lý thú và hiệu
quả cho học sinh.

E- KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1.Thuận lợi
Qua những năm giảng dạy chương trình SGK mới tôi thấy:
- Các bài trong SGK được soạn theo từng chủ đề lớn rõ ràng, gần gũi với
cuộc sống hàng ngày. Hệ thống nội dung giúp học sinh mở rộng kiến thức về
thế giới xung quanh, cung cấp cho các em sự hiểu biết, kinh nghiệm trong một
vài lĩnh vực của cuộc sông văn hóa, xã hội, khoa học và kinh tế, nhằm giúp các
em làm chủ ngôn ngữ.


- Hình ảnh được sử dụng trong sách rất đẹp, phù hợp lứa tuổi học sinh giúp
các em nắm bắt bài học một cách dễ dàng và có hứng thú khi học.
- Hầu hết các phần cung cấp từ vựng đều có hình ảnh minh họa hoặc có các

hoạt động như nối tranh với từ, giúp các em ghi nhớ từ thuận lợi hơn.
- Sách chú ý phát triển toàn diện các kỹ năng, phù hợp với nhận thức của
học sinh. Đây chính là bước ngoặt thành công nhất trên con đường cải cách, đổi
mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học.
2- Khó khăn
Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy SGK mới giáo viên con gặp phải một
số khó khăn như:
-Một số bài lượng kiến thức và từ vựng còn tương đối nhiều, khó để giáo
viên có thể triển khai được các kỹ năng dạy từ trong thời gian 45 phút eo hẹp.
- Số lượng phòng học bộ môn còn hạn chế nên việc dạy và học vẫn chưa
được thuận lợi.
-Trang thiết bị trong các phòng học bộ môn vẫn còn sơ sài.
Trên đây là một số kiến nghị của bản thân tôi sau quá trình thực hiện đề tài
mong các cấp lãnh đạo đặc biệt lưu tâm và đầu tư nhiều hơn nữa về trang thiết
bị dạy học để đem lại hiệu quả dạy học cao hơn nữa.

F- KẾT LUẬN
Để hưởng ứng phong trào đổi mới phương pháp dạy học, với tư cách là một
giáo viên bộ môn ngoại ngữ tôi rất mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của
mình cùng với các đồng nghiệp xây dựng phương pháp dạy học mới ngày càng
hiệu quả hơn. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về Các kỹ năng dạy từ
mới ở trường THCS mà tôi đã đúc kết được trong quá trình học hỏi, nghiên
cứu và thực nghiệm giảng dạy với chính học sinh của mình. Đó là các kinh
nghiệm chủ quan của bản thân tôi chứ chưa phải là phương pháp tối ưu và cũng
không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong đồng nghiệp cho ý kiến đóng góp
để nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Lê Hồng Phong, ngày 18 tháng 3
năm 2018
Người viết:


Phạm Thị Phương Thúy


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Hà, "Bí quyết học từ vựng tiếng Anh", NXB Giáo dục
2. Hoàng Tất Trường, ''Từ vựng học tiếng Anh cơ bản", Trường ĐHSP
Ngoại Ngữ Hà Nội.
3.Phạm Phương Luyện- Hoàng xuân Hoa, "Bồi dưỡng phương pháp dạy
tiếng Anh", NXB Giáo dục.
4. ''Sổ tay người dạy tiếng Anh'', NXB giáo dục
5. Barry Sesnan, " How to teach English'', Oxford University Press
6. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung học cơ sở chu kỳ
III (Nhà xuất bản Giáo dục).
7. Những vấn đề chung về đổi mới Giáo dục Trung học cơ sở môn tiếng
Anh – Bộ Giáo dục và Đào tạo (Nhà xuất bản Giáo dục).
8. Thiết kế bài giảng tiếng Anh 8 – Chu Quang Minh ( Nhà xuất bản Hà
Nội)
9. Các tạp chí về giáo dục.


MỤC LỤC
A- MỞ ĐẦU
I- Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lý luận
2. Cơ sở thực tiễn
II- Đối tượng nghiên cứu
III- Phạm vi nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
B- NỘI DUNG

I. Vai trò của các kĩ năng dạy từ mới trong quá trình dạy và học tiếng Anh.
II. Các kỹ năng dạy từ
1. Lựa chọn từ để dạy
2. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới
2.1. Visual
2.2. Mine
2.3. Realia
2.4. Situation / explanation
2.5. Example
2.6. Synonym / antonym
2.7. Translation
3.Tiến trình dạy từ.
III. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ
1. Kiểm tra đơn giản
1.1. Rub out and remember
1.2. Slap the board:
1.3.What and Where
1.4. Matching
1.5 Jumbled words
1.6 Bingo
1.7. Guessing game
2. Kiểm tra hoàn thiện
IV. Giải pháp mới, sáng tạo
1- Khâu chuẩn bị
2- Vào bài
3- Lưu ý
4- Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà


C- KẾT QUẢ ÁP DỤNG

D- BÀI HỌC KINH NGHIỆM
E- KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
F- KẾT LUẬN


SỞ GD&ĐT TỈNH HÀ NAM
PHÒNG GDĐT THÀNH PHỐ PHỦ LÝ
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“ CÁC KỸ NĂNG DẠY TỪ MỚI MÔN TIẾNG ANH
Ở TRƯỜNG THCS”

Giáo viên: Phạm Thị Phương Thúy
Đơn vị : Trường THCS Lê Hồng Phong

Năm học 2017-2018




×