Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Pháp luật về các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 83 trang )

NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG

2014 - 2016

HÀ NỘI - 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
-1-


LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRON VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG


CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ

: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN TRIỀU DƯƠNG

HÀ NỘI – 2016

-2-


LỜI CAM ĐOAN

Luận văn là công trình nghiên cứu do cá nhân tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Nguyễn Triều Dương. Các số liệu, quan điểm tham khảo
được trình bay trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và được trình bày rõ
ràng. Kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong các công trình khác.
Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn./.

Tác giả

Nguyễn Xuân Trường

LỜI CẢM ƠN
-3-


Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Viện Đại học Mở Hà Nội, đến

nay tôi đã hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp. Để có được kết quả đó, trước hết tôi
vô cùng cám ơn TS Nguyễn Triều Dương, là người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong
quá trình lựa chọn đề tài, xác định hướng nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo của Khoa đào tại sau đại học Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện để tôi có nhiều thuận lợi trong học tập và
thực hiện luận văn này.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn quý cơ quan, các đồng nghiệp, các thành viên
trong đại gia đình, bạn bè đã động viên ủng hộ, chia sẻ và là chỗ dựa tinh thần giúp
đỡ tôi tập trung nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Luận văn là công trình nghiên cứu nghiêm túc, khoa học của bản thân,
nhưng do khả năng còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất
định. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô, độc giả quan tâm đến
vần đề này để luậnvăn của tôi hoàn thiện hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Ký tên

Nguyễn Xuân Trường

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN………………………………….………………………………….

i

-4-


LỜI CẢM ƠN …………………………………………………………………….......

MỤC LỤC………………...…………………………………………………………..
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ……………………..……………………….………
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU ………………………………………..………….....
PHẦN MỞ ĐẦU ……………………………………………………………...............
1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………………..
2. Mục đích nghiên cứu ………………...……………………………………………
3. Phạm vi nghiên cứu ………….……………………………………………………
4. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………
5. Cơ cấu luận văn ……………………………………………………………………
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI ………………………………………………………………………
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của BPKCTT trong tố tụng trọng tài ………...
1.1.1. Khái quát về tố tụng trọng tài thương mại ……………………………………..
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của BPKCTT trong tố tụng trọng tài …………...

ii
iii
vi
vii
01
01
02
02
02
03

1.1.3. Ý nghĩa của việc áp dụng BPKCTT trong tố tụng trọng tài ……………………

12


1.2. Cơ sở ghi nhận về BPKCTT trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại …………………………………………………………………………..
1.2.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................................
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ………………………………………………………………...
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của BPKCTT trong giải quyết tranh chấp
thương mại trong hệ thống pháp luật Việt Nam …………………………………...
Kết luận chương 1 ……………………………………………………………………
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BIỆN PHÁP
KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI BẰNG TRỌNG TÀI …………………………………………………………...
2.1. Quyền yêu cầu, trách nhiệm các bên yêu cầu áp dụng BPKCTT trong giải
quyết tranh chấp thương mại ………………………………………………………
2.1.1. Quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT ……………………………………………
2.1.2. Trách nhiệm của các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ……..
2.2. Thời điểm yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ……………………
2.3. Các BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại ………………………
2.4. Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ………………………….
2.5. Trình tự, thủ tục áp dụng BPKCTT …………………………………………..
2.6. Thẩm quyền, thủ tục thay đổi, bổ sung, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
2.7. Hiệu lực của quyết định về BPKCTT ………………………………………….
2.8. Thi hành quyết định BPKCTT của trọng tài thương mại ................................
2.9. Trách nhiệm do áp dụng BPKCTT không đúng ……………………………...
2.9.1. Trách nhiệm của chủ thể đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng ……...
2.9.2. Trách nhiệm của chủ thể ra quyết định áp dụng BPKCTT không đúng ..............
2.10. Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về BPKCTT ………
Kết luận Chương 2 …………………………………………………………………...
Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ …………………………………………………………..

-5-

04
04
04
07

14
14
15
19
26

27
27
27
29
30
31
41
44
47
47
48
51
52
53
56
58
59



3.1. Thực tiễn áp dụng BPKCTT trong tố tụng trọng tài …………………………
3.2. Kiến nghị hoàn thiện luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
tranh chấp bằng tố tụng trọng tài …………………………………………………..
Kết luận chương 3 ……………………………………………………………………
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………...
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………...

BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
-6-

59
61
78
79
81


Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

LTTTM2010

Luật Trọng tài thương mại năm 2010

TTDS

Tố tụng dân sự


HĐTT

Hội đồng trọng tài

BLTTDS

Bộ Luật tố tụng dân sự

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

LTHA

Luật thi hành án

PLTTTM

Pháp lệnh trọng tài thương mại

TTTM

Trọng tài thương mại

PLTTGQVADS Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQVAKT Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
-7-



Nội dung
Bảng
1.1

Tỷ lệ các vụ án kinh doanh thương mại được áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trên tổng số các vụ việc được Tòa án
giải quyết từ năm 2012 đến năm 2015
Tỷ lệ kinh doanh thương mại có áp dụng biện pháp khẩn cấp

Biểu đồ
tạm thời được thụ lý qua các năm
2.1

PHẦN MỞ ĐẦU
-8-

Trang
60

61


1. Lý do chọn đề tài
Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã tác động sâu sắc tới đời
sống kinh tế, xã hội và pháp luật. Sự chuyển hướng của nền kinh tế sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa khiến cho các tranh chấp trong lĩnh vực kinh
doanh, thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, cần được giải quyết theo các
phương thức mới phù hợp. Sự ra đời của tố tụng trọng tài là một tất yếu trong việc

đa dạng hóa các cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại.
Dù vậy trọng tài trước nay ở nước ta vẫn chưa thật sự phổ biến. Luật Trọng
tài thương mại 2010 ra đời là sự phù hợp cả yêu cầu của xã hội và chính sách đường
lối của nước ta, trên sự kế thừa những quy định đã có của pháp lệnh trọng tài kết
hợp với thực tế phát triển của xã hội, tăng hiệu quả hoạt động của trọng tài thương
mại trong việc giải quyết các tranh chấp, góp phần làm giảm tải hoạt động xét xử
của tòa án.
Luật trọng tài thương mại 2010 quy định rất nhiều điểm mới và tiến bộ hơn
so với pháp lệnh trọng tài. Và những điểm mới rõ nét nhất là thể hiện mối quan hệ
giữa trọng tài và tòa án trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp trong các lĩnh
vực kinh doanh, thương mại. Luật trọng tài thương mại đã đưa ra một loạt các quy
định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ tòa án có
thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê nội dung thẩm quyền của tòa án
trong quan hệ với trọng tài, trong đó việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong tố tụng trọng tài là một trong những điểm rõ rệt nhất của Luật trọng tài thương
mại 2010.
Nhằm giúp cho người dân và các doanh nghiệp được biết về những quy
định mới của Luật trọng tài thương mại và có thể áp dụng hiệu quả chúng vào giải
quyết tranh chấp cho mình, đặc biệt việc làm rõ bản chất pháp lý, trình tự thủ tục áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài là vấn đề hết sức cần thiết.
Do đó, học viên đã chọn đề tài: “Pháp luật về các biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại” để làm luận văn tốt
nghiệp của mình với mong muốn góp phần bảo đảm phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài đạt hiệu quả tốt nhất.
-9-


2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về biện

pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài; phân tích, luận giải để tìm hiểu
những điểm mới về trình tự thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng trọng tài theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010, chỉ ra một số điểm
tích cực và những hạn chế còn tồn tại của Luật trọng tài thương mại 2010; phân tích,
đánh giá thực tiễn áp dụng và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật về BPKCTT và nâng cao hiệu quả áp dụng BPKCTT trong tố tụng
trọng tài trên thực tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài theo quy định Luật
Trọng tài thương mại 2010 là một vấn đề mới và chưa có văn bản hướng dẫn thực
hiện cụ thể. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến một số vấn đề lý luận về
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài; một số khía cạnh pháp lý và thực
tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài theo quy định của
Luật trọng tài thương mại 2010 và có liên hệ với quy định của một số quy định
trước đây; quy định hiện hành có liên quan như: Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án
dân sự 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế 1994 , Pháp lệnh về trọng tài
thương mại 2003, Luật thương mại 2005, Luật thi hành án 2008, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014; BLTTDS năm 2015; Luật
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 2011.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Trong
quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải.
5. Cơ cấu luận văn

- 10 -



Luận văn được kết cấu thành 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội dung của luân văn gồm
có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại và một số kiến nghị

- 11 -


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của BPKCTT trong tố tụng trọng tài
1.1.1. Khái quát về tố tụng trọng tài thương mại
Tố tụng trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa
thuận đưa những tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc Hội đồng trọng tài để
giải quyết và trong tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc
các bên tranh chấp. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức giải quyết
thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm
dứt xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực
hiện.
So với các phương phức giải quyết khác, tố tụng trọng tài có các đặc điểm
sau:
- Trọng tài thương mại là loại hình tổ chức phi chính phủ, hoạt động theo
pháp luật và điều lệ trọng tài. Trọng tài có quyền phán quyết như tòa án, quyết định

của trọng tài được bảo đảm cưỡng chế thi hành.
- Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố
thỏa thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể phán
quyết thoát ly những yếu tố đã thỏa thuận, có thể nói về nguyên tắc thẩm quyền của
trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật.
- Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo quyền tự định đoạt
của các bên tranh chấp cao. Phiên họp giải quyết tranh chấp không diễn ra công
khai.
- Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị và có hiệu lực thi hành đối với các bên. Nếu một trong các bên không thi hành
thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phán quyết trọng
tài.
- 12 -


- Được sự hỗ trợ của tòa án.

Xuất phát từ các đặc điểm nêu trên nên so với các phương
thức giải quyết khác, tố tụng trọng tài có những ưu điểm sau đây:
- Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại có ưu điểm
nổi bật so với tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có giá
trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài
không chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên
không thể chống án hay kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi
tuyên phán quyết xong, Hội đồng trọng tài hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn
tại.
- Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật: Trọng tài là một tiến
trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu hết pháp luật về trọng tài của các
nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín, nếu các bên không quy định khác.
Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ

kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó có ý nghĩa lớn
trong điều kiện cạnh tranh.
- Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục: Các bên đương sự
được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa chọn trọng tài và Hội đồng trọng
tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố tụng. Hoạt động trọng tài
diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài xét xử vụ kiện đã được các bên lựa chọn, hoặc
được chỉ định để giải quyết vụ kiện đó. Trọng tài viên - người chủ trì phân xử tranh
chấp theo suốt vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội tìm hiểu tình tiết vụ
việc. Điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp
thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận.
- Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, linh
hoạt cho các bên. Với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục,
thời gian, địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi,
nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều
này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết
tranh chấp.

- 13 -


- Tiết kiệm thời gian, công sức: Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh
doanh quốc tế đòi hỏi các bên không thể lãng phí thời gian, điều mà các tòa án sẽ rất
khó đáp ứng được do luôn phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả
năng ách tắc hồ sơ. Giải quyết tranh chấp bằng tòa án cho phép các bên được quyền
kháng án cũng làm cho tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài, ví dụ như giải quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo dài tối đa là 6
tháng, còn tại tòa án có thể kéo dài hàng năm trời.
- Duy trì được quan hệ đối tác: Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài
kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện
không làm mất đi quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại

trọng tài là tự nguyện. Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng
thẳng của những bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian
kín đáo, nhẹ nhàng.
- Trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các chuyên gia:
Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu biết vững
vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên ngành có tính
chuyên sâu như chứng khoán, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ …
Tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ chức phi chính phủ,
nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của BPKCTT trong tố tụng trọng tài
* Khái niệm về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại tòa án cũng như tranh chấp
kinh doanh thương mại tại tòa án hay tại Trọng tài thương mại thì việc đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự luôn được đặt lên hàng đầu. Ðể thực thi
điều này, cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp phải đảm bảo cho việc giải quyết
vụ tranh chấp được diễn ra khách quan và quá trình thi hành bản án hoặc phán quyết
(gọi chung là thi hành án) phải được bảo đảm theo đúng pháp luật. Tuy nhiên, quá
trình từ khi khởi kiện đến khi thụ lý, giải quyết, đưa ra bản án (hoặc phán quyết) và
thi hành án chiếm một khoản thời gian khá dài. Ðặc biệt, là đối với những tranh
chấp thương mại phức tạp và có giá trị tài sản lớn thì thời gian này trên thực tế còn
- 14 -


có thể kéo dài hơn thời gian giải quyết các tranh chấp thông thường. Trên thực tế,
để giải quyết được một vụ tranh chấp thương mại cơ quan, tổ chức giải quyết tranh
chấp không thể đưa ra kết luận vội vàng mà phải trải qua một trình tự, thủ tục theo
luật định. Trong khoản thời gian ấy, cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp cần phải
nhận định, đánh giá chứng cứ, lắng nghe lời trình bày, tranh luận của các bên mới
có thể đưa ra một bản án (hoặc phán quyết) khách quan, đúng đắn. Vì thời gian để

giải quyết một vụ tranh chấp thương mại là quá dài nên có thể dẫn đến chứng cứ bị
hủy hoại, tài sản bị tẩu tán, quyền và lợi ích của đương sự không được đảm bảo làm
ảnh hướng nghiêm trọng đến giải quyết tranh chấp và quá trình thi hành án.
Do có xung đột lợi ích giữa các đương sự nên có thể đương sự thực hiện các
hành vi tiêu cực như hủy hoại chứng cứ, tẩu tán tài sản, nhằm gây ra những khó
khăn nhất định cho bên còn lại và cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp, thi hành
án. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp phải
đưa ra các biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành vi tiêu cực này nhằm bảo đảm cho
vụ tranh chấp được giải quyết một cách khách quan, bảo vệ quyền lợi của đương sự,
đảm bảo cho thi hành án. Biện pháp này được gọi là biện pháp khẩn cấp tạm thời
(BPKCTT).
Trong tố tụng dân sự (TTDS) xét một cách tổng thể có thể thấy: “Biện pháp
khẩn cấp tạm thời là biện pháp tòa án quyết định áp dụng trước khi thụ lý hoặc
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của
đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc
1

phục được và đảm bảo cho việc thi hành án”. Tuy nhiên, nếu nhìn ở khía cạnh áp
dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại thì có thể thấy rằng, ngoài
tòa án, trọng tài thương mại cũng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại
nên Hội đồng trọng tài cũng có quyền áp dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp
thương mại theo quy định của LTTTM 2010. Vì vậy, trên cơ sở khái niệm về
BPKCTT trong tố tụng dân sự, chúng ta có thể rút ra khái niệm BPKCTT trong giải
quyết tranh chấp thương mại như sau:
Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại là
biện pháp do Thẩm phán, Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng trước khi thụ lý
hoặc trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu cấp
1 Tưởng Duy Lượng , Pháp luật TTDS và thực tiễn xét xẻ, Nxb Chính trị quốc gia năm 2009, tr225

- 15 -



bách của các đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không
thể khắc phục được và đảm bảo cho thi hành án.
Về tính chất, có thể xem BPKCTT là một biện pháp mang tính chất tình thế,
tạm thời giúp cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp có thể can thiệp một cách kịp
thời vào vụ tranh chấp, giúp quá trình giải quyết vụ tranh chấp được diễn ra khách
quan, thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, bảo toàn tài sản thi hành
án.
Tuy nhiên, nếu xét về khía cạnh thủ tục tố tụng có thể hiểu BPKCTT chỉ là
một công đoạn tố tụng rút ngắn, giản đơn nhằm giúp cơ quan, tổ chức giải quyết
tranh chấp can thiệp kịp thời và nhanh chóng vào những tranh chấp. Quy trình áp
dụng BPKCTT chỉ là một phần phụ phái sinh, có tính chất bổ trợ cho một thủ tục tố
tụng chính sẽ và đang được cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp thụ lý, giải quyết.
Vì vậy, việc áp dụng hay không áp dụng BPKCTT không làm ảnh hưởng đến kết
quả cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp thương mại.

2

* Đặc điểm các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng trọng tài
BPKCTT chỉ là một trong những biện pháp có thể được áp dụng trong quá
trình tố tụng nhằm đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp thương mại được
diễn ra khách quan và không gặp trở ngại. Do đó, để phân biệt giữa BPKCTT với
các biện pháp khác trong tố tụng trọng tài chúng ta phải dựa vào những đặc điểm
đặc trưng riêng biệt để nhận biết. Ðó là tính khẩn cấp và tính tạm thời.

- Tính khẩn cấp
BPKCTT dù nhìn ở bất kỳ góc độ nào thì cũng có đặc điểm cơ bản nhất đó
là tính khẩn cấp. Tính khẩn cấp của BPKCTT được thể hiện ở những phương diện

sau:
+ Thứ nhất, BPKCTT chỉ được áp dụng khi vụ tranh chấp kinh doanh,
thương mại đang có sự khẩn cấp.

2 PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài, tạp chí Nghiên cứu pháp
luật, số 23/2010

- 16 -


Can thiệp nhanh chóng, xử lý nhanh và hiệu quả tức thì là những ưu điểm
mà BPKCTT mang lại đối với những vụ tranh chấp thương mại đặt ra những yêu
cầu cấp bách. Như một giải pháp tình thế tạm thời, BPKCTT được cơ quan, tổ chức
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại sử dụng để đáp ứng yêu cầu cấp thiết
của việc giải quyết, bảo vệ ngay tức thời những chứng cứ có thể bị hủy hoại, tài sản
và quyền lợi của các bên tranh chấp. Chính vì thế mà không phải lúc nào cơ quan,
tổ chức giải quyết tranh chấp cũng có thể áp dụng BPKCTT một cách tùy tiện, mà
nó chỉ được áp dụng khi và chỉ khi vụ tranh chấp đang có tính khẩn cấp. Một khi sự
khẩn cấp không còn thì BPKCTT sẽ bị hủy bỏ.
Một vụ tranh chấp được xem là có sự khẩn cấp khi vụ tranh chấp đã thụ lý
hoặc đang giải quyết phát sinh những sự kiện pháp lý cấp bách đòi hỏi cơ quan, tổ
chức giải quyết tranh chấp phải can thiệp ngay lập tức, nếu không quyền và lợi ích
của các bên tranh chấp không được đảm bảo, chứng cứ bị đe dọa dẫn đến quá trình
giải quyết vụ tranh chấp gặp trở ngại. Thế nhưng, để đánh giá một sự kiện pháp lý
như thế nào để vụ án được xem là cấp bách thì pháp luật vẫn chưa có bất kì ghi
nhận nào cụ thể. Vì thế việc đánh giá sự khẩn cấp chỉ dựa vào yếu tố chủ quan của
chủ thể phát sinh nhu cầu áp dụng BPKCTT. Chẳng hạn, trong vụ tranh chấp về
thanh toán tiền hàng giữa hai công ty X và Y. Với ý định tẩu tán số hàng đã mua
công ty X đã rao bán số hàng này. Trong trường hợp này rõ ràng tài sản tranh chấp
đang có nguy cơ bị tẩu tán, vụ tranh chấp đang khẩn cấp nhưng vì luật chưa ghi

nhận sự việc như thế nào được gọi là khẩn cấp nên nếu nhận thấy sự cấp bách cần
ngăn chặn ngay hành vi của công ty X thì công ty Y có thể gửi đơn yêu cầu được áp
dụng BPKCTT. Tóm lại, dù nhìn nhận ở khía cạnh nào thì BPKCTT cũng chỉ được
áp dụng khi vụ án có sự khẩn cấp.
+ Thứ hai, thời hạn ra quyết định áp dụng BPKCTT rất nhanh chóng
Cần khẳng định lại rằng BPKCTT chỉ là một phần phụ, một thủ tục phái
sinh trong một trình tự thủ tục tố tụng chung giải quyết tranh chấp. Cơ quan, tổ
chức giải quyết tranh chấp ra quyết định áp dụng BPKCTT trên cơ sở vụ tranh chấp
đang có sự khẩn cấp. Vì thế, thủ tục áp dụng BPKCTT không thể nào giống như thủ
tục giải quyết vụ tranh chấp theo tố tụng trọng tài được, bởi sẽ tốn rất nhiều thời
gian làm mất đi tác dụng của BPKCTT. Do đó, việc ra quyết định áp dụng
BPKCTT phải được thực hiện trong một thủ tục nhanh chóng và gấp rút, nếu không
- 17 -


việc áp dụng BPKCTT sẽ không còn ý nghĩa trên thực tế. Mặc dù vậy, cơ quan, tổ
chức giải quyết tranh chấp cũng không thể quá rấp rút, lơ là trong việc cho áp dụng
BPKCTT. Một khi BPKCTT được áp dụng nó sẽ có tác dụng ngay tức khắc, ảnh
hưởng đến quyền lợi của các bên nên phải hết sức cân nhắc, không thể áp dụng
BPKCTT chỉ trên cơ sở đơn yêu cầu của các bên tranh chấp mà phải trải qua sự
xem xét kỹ lưỡng. Ðó là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp
đóng vai trò là “trọng tài” cần phải bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tranh chấp
nhưng cần lưu ý thời gian quyết định BPKCTT cũng không nên quá lâu.
+ Thứ ba, BPKCTT được thi hành rất nhanh
Một vụ tranh chấp thương mại được xem là đã giải quyết xong không chỉ
dừng lại ở bản án (hoặc phán quyết) mà cần phải thực hiện xong quá trình thi hành
án.Khi đó, quyền lợi của đương sự mới xem là được đảm bảo. Nếu thi hành án
không được thì việc giải quyết vụ tranh chấp chỉ dừng lại trên “giấy”. Ðối với
BPKCTT cũng vậy, khi có nhu cầu cấp bách thì đương sự mới yêu cầu áp dụng
hoặc cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp nhận thấy vụ tranh chấp có sự cấp bách

nên cho áp dụng BPKCTT để bảo vệ ngay quyền lợi của các bên tranh chấp. Nếu
việc thi hành án không được hay chậm trễ thì mặc nhiên việc áp dụng BPKCTT sẽ
trở nên vô nghĩa, trái lại còn có thể gây “tác dụng phụ”. Có thể thấy, BPKCTTT
được áp dụng khi khẩn cấp thì việc thi hành án cũng phải được đảm bảo và nhanh
chóng. Việc đảm bảo phải được thực hiện bằng việc cưỡng chế nhà nước nếu bên
chấp hành BPKCTT không thực hiện có như thế BPKCTT mới phát huy tối đa tính
khẩn cấp của nó.

- Tính tạm thời
Tính tạm thời là thuộc tính thứ hai của BPKCTT phái sinh từ tính khẩn cấp.
Tạm thời có thể hiểu là tồn tại trong một thời gian ngắn, có thể thay đổi hoặc mất đi,
vì vụ tranh chấp đang khẩn cấp nên những quyết định áp dụng BPKCTT của cơ
quan, tổ chức giải quyết tranh chấp chỉ mang tính chất tình thế tạm thời đáp ứng
nhu cầu cấp bách của vụ tranh chấp đang đặt ra tránh những thiệt hại không thể
khắc phục được. Thông thường sự khẩn cấp sẽ không tồn tại lâu trên thực tế, một
khi sự khẩn cấp đó qua đi thì BPKCTT cũng sẽ bị hủy bỏ hoặc thay đổi cho phù
hợp nếu có sự khẩn cấp mới. Chẳng hạn trong vụ tranh chấp về thanh toán tiền mua
nhà giữa công ty bất động sản A và bên mua nhà B, khi nhận thấy B có dấu hiệu
- 18 -


muốn bán căn nhà thì công ty bất động sản A đã yêu cầu được áp dụng BPKCTT để
cấm chuyển dịch quyền về phía căn nhà. Lúc này, việc yêu cầu áp dụng BPKCTT
của A là hoàn toàn có căn cứ, tuy nhiên ngay sau đó B đã dùng số tiền tương đương
với nghĩa vụ để cam kết thực hiện nghĩa vụ khi thua kiện. Như vậy, thời điểm hiện
tại sự khẩn cấp đã không còn vì khả năng thi hành án đã được đảm bảo. Mặt khác
của tính tạm thời là những quyết định về BPKCTT chỉ là thủ tục tố tụng rút ngắn
tạm thời mang tính chất bổ trợ cho thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp kinh thương
mại đang diễn ra nên việc cho hay không cho áp dụng BPKCTT sẽ không ảnh
hưởng đến kết quả cuối cùng của quá trình giải quyết tranh chấp.

Như vậy, có thể khẳng định tính khẩn cấp và tính tạm thời là hai đặc điểm
quan trọng để phân biệt BPKCTT với các biện pháp khác của quá giải quyết các
tranh chấp thương mại.

1.1.3. Ý nghĩa của việc áp dụng BPKCTT trong tố tụng trọng
tài
Bảo vệ quyền và lợi ích của hợp pháp của đương sự là một trong những
nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự và tố tụng trọng tài. Trên thực tế, vì xung đột
về lợi ích nên có những trường hợp đương sự thực hiện việc tẩu tán tài sản, hủy bỏ
chứng cứ,nhằm gây khó khăn cho bên còn lại trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ và tạo ra các trở ngại cho cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp. Ðặc
biệt, đối với các tranh chấp thương mại phức tạp, có giá trị tài sản lớn thì những
hành vi này rất dễ xảy ra, nhanh hơn và tinh vi hơn. Vì thế, việc áp dụng BPKCTT
trong giải quyết tranh chấp thương mại nhằm mục đích giải quyết nhu cầu cấp bách
của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản tranh chấp, bảo vệ chứng cứ. Từ đó bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và đảm bảo thi hành án. Không chỉ thế,
BPKCTT còn mang nhiều ý nghĩa đối với việc giải quyết tranh chấp thương mại
như:
- Thứ nhất, giúp cho việc giải quyết vụ tranh chấp được chính xác, chống
lại các hành vi gây trở ngại trong quá trình giải quyết.
Ðiều này khẳng định tầm quan trọng của BPKCTT trong giải quyết tranh
chấp thương mại. Nếu không có quy định về BPKCTT thì trong những trương hợp
cấp bách như chứng cứ bị “đe dọa”, đương sự đang có hành vi tiêu cực làm ảnh
- 19 -


hưởng đến tính chất đúng đắn của vụ tranh chấp thì cơ quan, tổ chức giải quyết
tranh chấp sẽ rơi vào tình thế bị động vì không có biện pháp để can thiệp kịp thời và
hữu hiệu. Khi đó tính chất vụ tranh chấp sẽ bị thay đổi, dẫn đến việc giải quyết
không đúng với tính chất ban đầu của nó và như thế mục đích của hoạt động tố tụng

thương mại xem như chưa đạt được.
- Thứ hai, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự
cũng như những người phụ thuộc vào họ sớm ổn định cuộc sống.
Khi nhận thấy vụ tranh chấp có sự cấp bách thì đương sự có thể yêu cầu áp
dụng BPKCTT để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ðây là ý nghĩa to lớn
mà BPKCTT mang lại. Nó không chỉ cho phép cá nhân, tổ chức có thể tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn giúp bảo toàn tài sản để thi hành án.
Ðiều này giúp cho tổ chức sớm ổn định hoạt động, giúp cá nhân và gia đình họ sớm
ổn định cuộc sống. Tránh trường hợp có bản án (hoặc phán quyết) nhưng không thể
thi hành án vì tài sản bị tẩu tán, khi ấy đương sự rõi vào tình trạng khó khăn khi
quyền lợi vẫn chưa thể được đảm bảo.
Ví dụ: Công ty A và công ty B tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán tiền cho
một hợp đồng lô hàng có giá trị lớn. Việc công ty A không thanh toán tiền hàng đã
làm cho công ty B gặp rất nhiều khó khăn có thể dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Về phía
công ty A họ đã bán hết lô hàng chuyển vào tài khoản của công ty và đang có dấu
hiệu rút hết tiền để thực hiện hợp đồng khác. Trong trường hợp này nếu công ty B
không kịp thời yêu cầu áp dụng BPKCTT thì dù thắng kiện công ty B cũng khó thu
hồi nợ và có thể dẫn đến vỡ nợ. Tuy nhiên, nếu áp dụng BPKCTT phong tỏa tài
khoản của công ty A kịp thời thì khả năng thu hồi nợ của công ty B sẽ được đảm
bảo, giúp công ty B tránh được nguy cơ vỡ nợ và sớm ổn định hoạt động.
- Thứ ba, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật từ sự áp dụng linh hoạt
BPKCTT
BPKCTT chỉ áp dụng khi vụ án đang có sự khẩn cấp. Khi có những nhu cầu
cấp bách thì đương sự mới có thể yêu cầu áp dụng BPKCTT. Ðiều này tránh sự tùy
tiện trong việc áp dụng BPKCTT. Mặt khác, Nếu BPKCTT đã được áp dụng mà sau
một thời gian sự khẩn cấp ấy đã không còn thì cơ quan, tổ chức giải quyết tranh
chấp cũng sẽ hủy bỏ việc áp dụng BPKCTT. Sự linh hoạt này giúp hạn chế tối đa
tình trạng đương sự lạm dụng BPKCTT để gây khó khăn, trở ngại cho bên còn lại,
- 20 -



ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Từ đó nâng cao ý thức tuân thủ
pháp luật của công dân.

1.2. Cơ sở ghi nhận về BPKCTT trong việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại
1.2.1. Cơ sở lý luận
Cùng với sự hình thành và phát triển của các quan hệ dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thì các tranh chấp, vi phạm về các quan
hệ này xảy ra là một tất yếu và có xu hướng ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, sau sự
vi phạm, tranh chấp đó là tình trạng thờ ơ trước tình trạng cấp bách của người khác
hoặc tâm lý trốn tránh việc khắc phục thiệt hại, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ
đã đòi hỏi sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn các
hành vi đó. Biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong số các biện pháp được áp
dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại để bảo vệ kịp thời quyền và
lợi ích của đương sự trong trường hợp chứng cứ bị đe dọa, tài sản tranh chấp có
nguy cơ bị tẩu tán. Người viết đã tập trung phân tích các vấn đề lý luận chung về
BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại như đặc điểm, mục đích và ý
nghĩa của BPKCTT trong giải quyết tranh chấp thương mại trong mục 1.1. Qua đó,
giúp người đọc hiểu rõ hơn về những đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của BPKCTT
trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng trọng tài để tạo sự khác biệt với giải quyết tranh chấp này tại tòa
án là việc giải quyết bằng trọng tài phải bảo đảm sự chủ động và tính tự giác của
các bên tranh chấp nên trong một số trường hợp bên có nghĩa vụ có cơ hội để lợi
dụng sự chủ động này để tẩu tán hay hủy hoại nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ là
điều tất yếu. Vì vậy, việc áp dụng BPKCTT trong tố tụng trọng tài còn cấp thiết hơn
trong tố tụng dân sự.
Mặt khác, việc giải quyết vụ việc thương mại chỉ có ý nghĩa khi các phán
quyết của Trọng tài được thi hành trên thực tế. BPKCTT ra đời chính là để đảm bảo

khả năng phán quyết của Trọng tài được thực thi có hiệu quả nhất. Để ngăn chặn
hành vi hủy hoại bằng chứng, tẩu tán tài sản khi có đơn yêu cầu hoặc trong một số
trường hợp đặc biệt HĐTT tự mình áp dụng BPKCTT nhằm ngăn chặn kịp thời
- 21 -


những hành vi đó, tạo điều kiện cho việc điều tra, xét xử để HĐTT đưa ra được
phán quyết cuối cùng và thi hành trên thực tế.
Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật Trọng tài đã là
một bước tiến mới phản ánh một nền tố tụng dân chủ, đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và trong việc giải quyết tranh
chấp dân sự nói riêng là tính nhanh chóng và sự bảo đảm an toàn pháp lý cho các
bên đương sự trong việc bảo vệ quyền lợi của họ.
Theo quy định của Luật trọng tài thương mại thì các bên trong vụ tranh
chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài hoặc tòa án có thẩm quyền áp dụng một
hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật trọng tài thương
mại hoặc các BPKCTT khác theo quy định của pháp luật nếu hai bên không có thỏa
thuận nào khác; Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT có quyền yêu cầu Hội đồng trọng
tài hoặc tòa án nơi BPKCTT được áp dụng xem xét và ra quyết định áp dụng
BPKCTT. Việc yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT không bị coi là sự bác bỏ thỏa
thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp trọng tài.

1.2.2. Cơ sở thực tiễn
- Thứ nhất, việc giải quyết vụ việc trong kinh doanh, thương mại là nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Cũng như các quy định khác, quy
định về BPKCTT ra đời nhằm bảo vệ cho các đương sự khi quyền và lợi ích của họ
bị xâm hại. Như đã phân tích ở trên, BPKCTT áp dụng đúng lúc sẽ kịp thời ngăn
chặn được những hành vi vi phạm pháp luật của một số người có các hành vi vi
phạm, qua đó bảo toàn được chứng cứ, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.

- Thứ hai, thực tiễn xét xử và thi hành án cho thấy rất nhiều trường hợp nếu
không áp dụng BPKCTT thì khó có thể giải quyết được vụ việc dân sự cũng như
đảm bảo cho việc thi hành án. Bởi lẽ, trong một số trường hợp do sự chậm chế có
các biện pháp can thiệp mà tài sản bị tẩu tán, chứng cứ bị hủy hoại, gây ra rất nhiều
khó khăn cho công việc điều tra xét xử và công tác thi hành án cũng gặp rất nhiều
khó khăn.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến
trên thế giới, nhất là tại những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Đó là một
- 22 -


trong những phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, theo đó các bên chọn
một chủ thể không phải là tòa án giúp mình giải quyết tranh chấp đã phát sinh.
Thương mại là một lĩnh vực đặc thù, các tranh chấp không chỉ ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của các bên trong tranh chấp mà còn có thể ảnh hưởng đến người
khác, do đó đòi hỏi việc giải quyết các tranh chấp này theo phương thức nào là hợp
lý và thuận lợi cho tất cả là vấn đề cần nhất. Việc đưa vụ án ra tòa án xét xử là
trường hợp bất khả kháng nhất thường chỉ là giải pháp cuối cùng được chọn lựa,
không ai muốn đưa nhau ra tòa, vừa tốn thời gian, vừa rắc rối kéo dài, đồng thời làm
mất đi quan hệ giao thương không còn gắn kết như lúc đầu. Do đó, Trọng tài là một
phương thức tối ưu và thiết thực trong việc này. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại có ưu thế hơn so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác bởi tố
tụng trọng tài được đánh giá là linh hoạt, bảo đảm tốt hơn quyền định đoạt của các
bên, cơ chế này đảm bảo bí mật kinh doanh và uy tín nghề nghiệp cho các thương
nhân có liên quan tới vụ tranh chấp. Tố tụng trọng tài có thủ tục đơn giản, đảm bảo
giải quyết nhanh chóng các tranh chấp, tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Với rất nhiều
ưu thế so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như vậy nhưng cũng
giống như phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án mục đích cuối cùng của tố
tụng trọng tài là “xác định sự thật khách quan về vụ tranh chấp”.Vì vậy, như khi
tham gia tố tụng tại tòa án, khi tham gia tố tụng trọng tài, các chủ thể tham gia tố

tụng có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, nếu như tố tụng tòa án, thủ tục
tố tụng đã được pháp luật quy định cụ thể, rõ ràng thì tố tụng trọng tài, các bên có
quyền chủ động trong việc xây dựng, lựa chọn thủ tục tố tụng. Khi các bên chọn
trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp thì việc tuân theo các quy tắc của
thủ tục tố tụng trọng tài do mình đã chọn lựa là yêu cầu bắt buộc. Trong quá trình
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nếu các bên thấy quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm hoặc trực tiếp bị xâm phạm thì có quyền yêu cầu chủ thể có
thẩm quyền ra quyết định áp dụng một hoặc một số BPKCTT. Trong tố tụng trọng
tài hiện nay, theo quy định của luật có hai chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp
dụng các BPKCTT là Hội đồng trọng tài và tòa án. Các bên đương sự có thể yêu cầu
một trong hai nơi trên ra quyết định áp dụng các BPKCTT nhằm giải quyết các yêu
cầu cấp bách, bảo vệ bằng chứng hoặc bảo đảm việc thi hành án. Quy định này của

- 23 -


Luật là sự tiếp thu quy định của Luật mẫu UNCITRAL được thông qua năm 2006
nhằm giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn.
Các quy định về việc áp dụng BPKCTT trong tố trọng tài được quy định
trong luật Trọng tài thương mại 2010 (LTTTM 2010), từ Điều 48 đến Điều 53
LTTTM, về bản chất các quy định này là luật riêng so với quy định chung của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong tố tụng trọng tài khi giải quyết các tranh chấp
sẽ áp dụng trước tiên các quy định của LTTTM 2010, nếu các quy định đó thiếu
hoặc chưa rõ ràng cụ thể thì cần áp dụng các nguyên tắc chung về BPKCTT trong tố
tụng dân sự. Trong tố tụng dân sự nói chung, tòa án là chủ thể duy nhất có thẩm
quyền ra quyết định áp dụng các BPKCTT, còn trong tố tụng trọng tài có thêm một
chủ thể khác bên cạnh tòa án là Hội đồng trọng tài cũng có thẩm quyền ra các quyết
định này.
Khi các tranh chấp phát sinh, các bên chọn tố tụng trọng tài làm con đường

giải quyết tranh chấp thì khi yêu cầu áp dụng BPKCTT có thể chọn một trong hai
nơi trên để gửi yêu cầu.
Các BPKCTT trong tố tụng trọng tài được quy định cụ thể ở khoản 2 Điều
49 của Luật TTTM 2010 gồm: “Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành vi nhất
định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng
tài; Kê biên tài sản đang tranh chấp; Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt
bất kỳ tài sản của một bên hoặc các bên tranh chấp; Yêu cầu tạm thời về việc trả
tiền giữa các bên; Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh
chấp”.
Các BPKCTT này cũng có nội dung tương tự như đã giải thích ở tố tụng
dân sự nói chung. Sự ra đời của LTTTM 2010 nâng thêm một bước, tư cách của
Hội đồng trọng tài. Việc áp dụng BPKCTT như tòa án đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc áp dụng BPKCTT của Hội đồng trọng tài nhằm bảo đảm cho mục đích nhu cầu
cấp bách của đương sự, không còn phụ thuộc nhiều vào tòa án trong việc áp dụng
các BPKCTT và đề cao tố tụng trọng tài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, giảm tải cho công việc xét xử của tòa án, tiết kiệm được
thời gian để giải quyết những công việc quan trọng và cấp bách.
- 24 -


Theo quy định của pháp luật hiện hành, đa phần các tranh chấp được giải
quyết bằng tố tụng trọng tài làm con đường giải quyết đều là tranh chấp trong lĩnh
vực thương mại hoặc ít nhất một bên hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Tranh
chấp trong lĩnh vực hoạt động thương mại là tranh chấp lợi ích tư, vì vậy, cho phép
các bên có quyền chấp nhận những thiệt hại người khác gây ra cho mình. Do đó,
việc áp dụng các BPKCTT tuy giải quyết được nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo
đảm được việc giải quyết vụ án và thi hành án nhưng có thể dẫn đến thiệt hại cho
người bị áp dụng hoặc người thứ ba. Do vậy, pháp luật quy định buộc người yêu cầu
áp dụng BPKCTT phải thực hiện biện pháp bảo đảm, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của người bị áp dụng và người thứ ba đồng thời cũng tránh được việc lạm
dụng của việc yêu cầu áp dụng BPKCTT. Đây là điểm khác trong việc áp dụng
BPKCTT giữa tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài. Trong tố tụng tòa án, chỉ có vài
BPKCTT nhất định mới cần phải thực hiện biện pháp bảo đảm, còn trong tố tụng
trọng tài bắt buộc áp dụng biện pháp bảo đảm cho tất cả các BPKCTT.

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của BPKCTT trong giải
quyết tranh chấp thương mại trong hệ thống pháp luật Việt
Nam
1.3.1 Từ ngày 01/01/1990 đến ngày 01/7/2003
Ngày 01/01/1990 Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQVADS)
bắt đầu có hiệu lực, đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật TTDS ở Việt Nam.
Đây cũng được xem là văn bản pháp luật đầu tiên ghi nhận BPKCTT trong giải
quyết vụ án. Tại pháp lệnh này, BPKCTT được quy định tại chương VIII gồm 2
điều: 41 và 42.
Theo đó, để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo
vệ chứng cứ thì tòa án tự mình áp dụng, viện kiểm sát hoặc đương sự có thể yêu cầu
áp dụng các BPKCTT sau đây: “Buộc một bên phải thực hiện việc cấp dưỡng; Giao
người chưa thành niên cho cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức chăm nom; Trả tiền
lương hoặc tiền công lao động; Kê biên tài sản đang tranh chấp để tránh việc tẩu
tán; Cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp; Cho thu hoạch và bảo quản sản vật
đang tranh chấp; Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện một số hành vi nhất định”.

- 25 -


×