Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trên địa bàn Huyện Văn Yên - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 85 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội. Nó là động lực của tăng trưởng kinh tế, phát triển
kinh tế xã hội và tạo ra các tác động có lợi cho chính trị xã hội. Một nền kinh tế sẽ
không thể tồn tại và phát triển nếu thiếu hoạt động đầu tư. Vì thế, một trong những
vấn đề chủ yếu của nền kinh tế hiện nay là làm sao thu hút được nhiều vốn cho công
cuộc phát triển đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu.
Bên cạnh đó, vấn đề cốt yếu của đầu tư là tính hiệu quả, làm sao để với một số vốn
nhất định có thể mang lại được lợi ích cao nhất.
Văn Yên là một huyện vùng núi phía Bắc của tỉnh Yên Bái, được thành lập từ
tháng 3 năm 1965. Nhìn lại 47 năm phát triển kinh tế của huyện Văn Yên có những
thành tựu đáng tự hào, tuy nhiên cũng còn những vấn đề tồn tại cần khắc phục. Một
trong những yếu tố làm nên sự thành công của kinh tế huyện Văn Yên trong 47 năm
phát triển chính là hoạt động đầu tư. Sự nỗ lực của địa phương trong việc huy động
vốn đầu tư, tạo ra được nhiều công trình đầu tư có hiệu quả. Nguồn vốn mà huyện
Văn Yên sử dụng trong những năm qua chủ yếu là vốn ngân sách Nhà nước (Vốn
ngân sách tỉnh, ngân sách của Huyện Văn Yên), các nguồn vốn khác cũng có nhưng
chưa nhiều.
Vì vậy, em đã lựa chọn chuyên đề: “Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trên địa
bàn Huyện Văn Yên - Thực trạng và giải pháp” với mong muốn đóng góp một số
ý kiến về vấn đề thu hút và sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả.
Hoạt động đầu tư có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu như : Quản lý dự án đầu
tư, thẩm định dự án đầu tư, rủi ro trong đầu tư, đầu tư và chuyển giao công nghệ,
lập dự án đầu tư ... Nhưng, do hạn chế trong việc thu thập số liệu và hạn chế về thời
gian, trình độ nên chuyên đề chỉ dừng lại ở mức khảo sát đánh giá hoạt động thu hút
và sử dụng vốn đầu tư trên địa bàn Huyện Văn Yên một cách nói chung.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung:

1




Từ thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trên địa bàn Huyện Văn Yên
trong giai đoạn 2007 – 2011, đưa ra những đánh giá cụ thể về kết quả đạt được, hạn
chế còn tồn tại và một số giải pháp để thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trên
địa bàn giai đoạn 2012 – 2020.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Xác định rõ vai trò của việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trong
hoạt động đầu tư, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế xã hội.
+ Phân tích, đánh giá hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư trên địa bàn
Huyện Văn Yên giai đoạn 2007 – 2011.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trên
địa bàn Huyện giai đoạn 2012 – 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : các nguồn vốn được thu hút và sử dụng trên địa bàn
Huyện Văn Yên giai đoạn 2007 – 2011.
- Phạm vi về nội dung : Nội dung nghiên cứu tập trung vào vấn đề thu hút các
nguồn vốn đầu tư và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển trên địa
bàn huyện Văn Yên (Tỉnh Yên Bái) giai đoạn 2007 - 2011 và các giải pháp cho giai
đoạn 2012 - 2020.
- Phạm vi về không gian: nghiên cứu tại Huyện Văn Yên – Tỉnh Yên Bái.
- Phạm vi về thời gian:
+ Khóa luận được thực hiện từ ngày 09/04/2012 đến ngày18/05/2012.
+ Số liệu được sử dụng trong khóa luận lấy từ năm 2007 đến năm 2011.
4. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, khóa luận gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở khoa học của đề tài
Chương II: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương III: Kết quả nghiên cứu


2


CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Lý luận chung về đầu tư
1.1.1.1 Khái niệm và phân loại đầu tư
a. Khái niệm
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu hút về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy mục tiêu của mọi công
cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà
người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
b. Phân loại đầu tư
Chúng ta có thể chia đầu tư thành 3 loại chủ yếu như sau:
Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng
hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và
khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét
đến ngoại thương) mà chỉ làm tăng tái sản xuất cho chính người đầu tư trong quá
trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người
đầu tư và giữa người đầu tư với khách hàng của họ.
Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc
mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu
chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đầu tư phát triển: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các
hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh
doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao
đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng,
sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên
nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thương xuyên

gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của
các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.

3


Trên góc độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì sự
phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho nền kinh
tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội trong dài hạn.
Đầu tư phát triển là một phương thức đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn là
nhằm gia tăng giá trị tài sản. Trong đầu tư phát triển nhằm tạo ra năng lực sản xuất
mới và (hoặc) cải tạo, mở rộng, nâng cấp năng lực sản xuất hiện có vì mục tiêu phát
triển.
Trong đầu tư các nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ. Trong đầu tư các nguồn lực đóng vai trò quyết định, nó là cái đầu
tiên phải có khi tiến hành một công cuộc đầu tư.
1.1.1.2 Vai trò của đầu tư phát triển
Tất cả các lý thuyết từ trước tới nay, từ cổ điển đến hiện đại đều coi đầu tư là
nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò của
đầu tư được xem xét trên hai giác độ nền kinh tế như sau:
a. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế
Đầu tư phát triển vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu.
- Về tổng cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ
nền kinh tế, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới thì đầu tư chiếm 24 – 28% trong
cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên Thế giới. Công thức tính tổng cầu của nền
kinh tế mở:
AD = C + I + G + (EX – IM)
Trong đó:
AD:


Tổng cầu

I:

Chi tiêu của doanh nghiệp

C:

Chi tiêu của hộ gia đình

G:

Chi tiêu của Chính phủ

EX – IM:

Xuất khẩu ròng

4


Như vậy, đầu tư của các doanh nghiệp và một phần chi tiêu của Chính phủ
(đầu tư Chính phủ) là một bộ phận trong tổng cầu nền kinh tế. Tuy nhiên, sự tác
động của đầu tư đến tổng cầu là trong ngắn hạn, trong thời gian thực hiện đầu tư,
tổng cung chưa kịp thay đổi (các kết quả của đầu tư chưa phát huy tác dụng).
P

AS

P2

P1
AD2
AD1
Q1

Q

Q2

Hình 1. Đồ thị tổng cung - cầu
Khi mà tổng cung chưa thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng
kéo sản lượng cân bằng và giá cân bằng tăng theo. Tuy nhiên, việc tăng này chỉ
trong ngắn hạn.
- Về tổng cung:
Khi các kết quả của đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng, các năng lực mới tăng
thêm đi vào hoạt động thì tổng cung tăng, đặc biệt là tổng cung dài hạn.
P

AS1
AS2

P2
P1

AD

Q
Q1

Q2


Hình 2. Đồ thị tổng cung – cầu
Như vậy, về dài hạn khi đầu tư tăng thì tổng cung tăng, sản lượng cân bằng
tăng và giá giảm xuống cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng lại tiếp tục kích
thích sản xuất phát triển và nó là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh
tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên
trong xã hội.

5


Về dài hạn, giá sẽ ổn định, sản lượng cân bằng tăng khi tăng đầu tư. Việc tăng
giảm đầu tư có ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế.
Khi tăng đầu tư, sản lượng cân bằng tăng, tỷ lệ thất nghiệo giảm do có công ăn
việc làm được tạo ra. Tuy nhiên, khi tăng đầu tư cũng làm mức giá tăng, tốc độ lạm
phát tăng ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế.
Khi giảm đầu tư thì sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp tăng nhưng giá ổn định.
Như vậy, việc tăng giảm đầu tư đều có mặt lợi hại nhất định, do đó tuỳ thuộc
vào điều kiện của nền kinh tế mà có những chính sách kinh tế thích hợp để điều tiết
nền kinh tế thông qua tác động đến đầu tư.
b. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
Qua phân tích các nhà kinh tế học đã rút ra rằng giữa đầu tư và tăng trưởng có
mối quan hệ tỷ lệ. Muốn giữ cho tăng trưởng ổn định ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu
tư so với GDP phải đạt từ 15 – 25% tuỳ vào hệ số ICOR của mỗi nước. Hệ số ICOR
được tính theo công thức sau:
ΔI
Δ GDP

Hệ số ICOR =
Trong đó:


Δ I:

Mức tăng của vốn đầu tư

Δ GDP: Mức tăng của GDP
Hệ số ICOR phản ánh, cứ tăng thêm một đồng vốn đầu tư thì sẽ tạo ra được
bao nhiêu đồng trong GDP. Nó phản ánh hiệu quả tăng thêm của vốn đầu tư. Trong
công thức trên, nếu ICOR không đổi, thì GDP tăng khi đầu tư tăng. Do đó, đầu tư
chính là chìa khóa cho sự tăng trưởng, là nhân tố làm tăng GDP.
Như ta đã biết, hàm sản xuất là hàm của các biến số như lao động, vốn, công
nghệ đất đai... mỗi sự thay đổi của các yếu tố này đều dẫn đến sự thay đổi trong
GDP. Ở các nước phát triển thì hệ số ICOR rất cao do họ thừa vốn, sử dụng công
nghệ hiện đại, tay nghề lao động cao. Nhưng ở các nước kém và đang phát triển thì
hệ số ICOR lại thấp do thiếu vốn, sử dụng công nghệ lạc hậu và nhiều lao động
chân tay. Vì vậy, nhu cầu đầu tư ở các nước phát triển là cao.
Hệ số ICOR phụ thuộc vào trình độ quản lý đầu tư, trình độ phát triển kinh
tế… do đó, thay đổi hệ số ICOR không phải là dễ dàng.

6


Kinh nghiệm của các nước trên thế giới thì ICOR ở ngành mũi nhọn sử dụng
nhiều công nghệ tiên tiến, lao động có chất xám thì đem lại hiệu quả cao. Còn trong
nông nghiệp thì do hạn chế về đất đai, khả năng tăng trưởng của động thực vật và
khả năng lao động nên hệ số có nhiều hạn chế so với các ngành khác.
c. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Mục tiêu cuối cùng của đầu tư là tạo ra hiệu quả cao, tăng trưởng kinh tế lớn;
do đó, đầu tư phải tập trung vào những ngành có lợi suất đầu tư lớn. Kinh nghiệm
của các nước trên thế giới là muốn tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình 8 - 10%

thì cần đầu tư vào khu công nghiệp và dịch vụ. Đây là ngành có tốc độ tăng trưởng
cao, nhờ sử dụng những tiềm năng về trí tuệ và công nghệ. Các nước phát triển trên
thế giới có tỷ trọng hai ngành này trong GDP rất cao, đối với các ngành này thì tốc
độ tăng trưởng từ 15 – 20% là không khó. Sở dĩ, có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao
như vậy vì hai ngành này có sử dụng một khối lượng vốn lớn, có thể nói là gần như
không hạn chế, chính nhờ có khối lượng vốn đầu tư lớn nên có thể có được lao động
có chất xám cao thông qua đào tạo, đồng thời cũng có công nghệ hiện đại thông qua
nghiên cứu, chuyển giao công nghệ ... Các yếu tố này sẽ giúp cho sự phát triển được
nhanh chóng. Đồng thời, kết quả tạo ra ở những ngành này có xu hướng chứa nhiều
chất xám, bí quyết công nghệ nên có giá trị lớn trong tiêu thụ, trao đổi. Trong khi đó
ngành nông nghiệp, ngành truyền thống ở các nước kém và đang phát triển lại sử
dụng nhiều lao động, công nghệ lạc hậu... nên tốc độ tăng trưởng chỉ có thể đạt ở
mức 5 – 6%.
Do đó, khi đầu tư phải chú trọng đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách hợp lý thì mới tạo ra một kết quả như mong
muốn.
d. Đầu tư tác động đến cơ cấu lãnh thổ
Đầu tư có thể giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa những vùng lãnh
thổ, đặc biệt là giải quyết về cơ sở vật chất kỹ thuật, đời sống văn hoá xã hội của
người dân. Việc đầu tư giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các
vùng thường được thực hiện bằng vốn đầu tư của nhà nước, thông qua các định
hướng chính sách chung nhằm đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn lạc hậu, phát triển và khai thác tối đa những lợi thế so sánh, những tiềm

7


năng sẵn có để đưa những vùng có tiềm năng phát triển tăng trưởng nhanh hơn và
làm bàn đạp cho các vùng khác cùng phát triển.
Do đó, muốn tăng trưởng phải đầu tư vào những ngành mũi nhọn, với một cơ

cấu lãnh thổ hợp lý, kết hợp với các chính sách hiệu quả về kinh tế nói chung và về
đầu tư nói riêng thì sẽ tạo ra được một tốc độ tăng trưởng như mong muốn.
e. Đầu tư tăng cường khả năng công nghệ của đất nước
Công nghệ có thể được thông qua hai con đường chính là: Thứ nhất là tự bỏ
chi phí để tự nghiên cứu, phát hiện ra công nghệ bằng khả năng của chính mình sau
đó áp dụng vào các hoạt động kinh tế để thu hồi vốn đã bỏ ra nghiên cứu công nghệ
và có lãi. Nhưng, để nghiên cứu ra công nghệ cần nhiều vốn đầu tư, lao động chất
xám cao, máy móc hiện đại đồng thời thời gian đầu tư kéo dài và độ mạo hiểm cao
khi nghiên cứu thất bại. Nên việc nghiên cứu thường do các nước phát triển đầu tư
thực hiện.
Thứ hai là mua công nghệ trên thị trường thế giới, bằng cách này sẽ nhanh
chóng giúp cho có được công nghệ như mong muốn, nhưng công nghệ này thường
không hiện đại, phải cạnh tranh và cũng không đắt lắm. Đây là hình thức thích hợp
với các nước đi sau, tuy nhiên phương pháp này cũng có những rủi ro nhất định khi
mua phải công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường...
Dù theo con đường nào đi nữa thì chỉ có đầu tư mới tăng cường khả năng công
nghệ một cách thích hợp và hiệu quả.
f. Trên giác độ các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển nhanh của mỗi cơ sở. Khi
tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời bất kỳ cơ sở sản xuất kinh doanh nào
đều phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, lắp đặt máy móc... Các hoạt động
này là các hoạt động đầu tư. Sau một thời gian, các máy móc này bị hỏng hoặc hao
mòn. Vì thế, để hoạt động sản xuất được diễn ra liên tục cần phải đầu tư kinh phí để
sửa chữa và bảo hành. Điều đó chứng tỏ đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ
ở tầm vĩ mô mà còn cả ở tầm vi mô.
1.1.1.3 Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là tổng thể các yếu tố tự nhiên và xã hội có ảnh hưởng, tác
động đến hoạt động đầu tư.
Môi trường đầu tư bao gồm các yếu tố:
8



- Tình hình chính trị: Khi xem xét tình hình chính trị, các nhà đầu tư thường
đánh giá sự ổn định chính trị như một tiêu chuẩn hàng đầu để đưa ra quyết định đầu
tư. Giữ vững ổn định chính trị có ý nghĩa quyết định đến việc thu hút vốn của các
nhà đầu tư vì nếu chính trị không ổn định sẽ dẫn đến sự thay đổi các định hướng,
mục tiêu, thay đổi phương thức để đạt được mục tiêu đó. Kết quả là sự phủ nhận
định hướng, mục tiêu trước đó làm thiệt hại đến lợi ích của các nhà đầu tư và làm
các nhà đầu tư không an tâm khi quyết định đầu tư.
Sự ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho một xã hội an toàn,
an ninh quốc phòng được giữ vững. Nó cũng là điều kiện quyết định mức độ bền
vững của một Chính phủ, đồng thời cũng là cơ sở quan trọng cho bộ máy Chính
phủ tập trung cho công tác điều hành, quản lý đất nước.
Ngày nay, khi phân tích những rủi ro chính trị, người ta chú ý đến những vấn
đề chi tiết hơn như tham nhũng, quan liêu, tình trạng thiếu trách nhiệm của các cơ
quan Nhà nước, sự bất lực trong hệ thống pháp luật…Chẳng hạn, bây giờ người ta
coi tham nhũng là yếu tố rủi ro của ổn định chính trị. Trên thực tế, tham nhũng đã
gây nên những bất ổn định chính trị - xã hội ở nhiều nước. Nói cách khác, người ta
xem khái niệm ổn định chính trị như là một quá trình chứ không phải một trạng thái
như trước.
- Các chính sách pháp luật: Sự đồng bộ, nhất quán của các chính sách pháp
luật là rất cần thiết đối với mỗi quốc gia trước khi tiến hành các hoạt động xúc tiến
đầu tư, nhưng để thực hiện được điều này đôi khi là rất khó, cần từng bước được
hoàn thiện. Những thay đổi trong các chính sách có tác động không nhỏ đến tâm lý
của các nhà đầu tư từ đó có ảnh hưởng đến cầu đầu tư.
Nhà đầu tư trước khi đầu tư thường tìm hiểu rất kỹ các chính sách pháp luật
như: Chính sách sở hữu; chính sách thuế; chính sách về giá và lệ phí; chính sách
quản lý ngoại hối; chính sách quản lý các hoạt động đầu tư; một số chính sách khác
(môi trường, chuyển giao công nghệ, quy định về tiền lương, quy định liên quan
đến cung cấp nhân lực, quy định về thủ tục hải quan, khai báo xuất nhập cảnh, quy

định về khiếu nại, giải quyết tranh chấp…).
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội: Đối với các nước có điều kiện khác nhau
thì nước nào có trình độ phát triển kinh tế xã hội càng cao ở đó đầu tư sẽ có điều
kiện đảm bảo cho sự thành công cao hơn.
9


Về trình độ phát triển kinh tế xã hội các nhà đầu tư thường quan tâm đến các
mặt sau:
+ Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
+ Hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đặc trưng của một nền kinh tế hiện
đại
+ Giá trị đồng tiền ổn định, khả năng tích luỹ nội bộ cao
+ Mức độ và triển vọng xâm nhập của khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản
xuất kinh doanh và đời sống kinh tế xã hội
+ Thu nhập của người lao động, mức sống của nhân dân, thị trường phát triển
đồng bộ và có khả năng thanh toán cao
+ Trình độ dân trí cao, có đội ngũ cán bộ quản lý cũng như công nhân kỹ thuật
có trình độ và đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.
+ Một xã hội công bằng văn minh, tự do dân chủ không có sự phân biệt đối xử
giữa các thành phần kinh tế khác nhau; biết giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc riêng
nhưng cũng chú ý đến sự hoà nhập và hợp tác quốc tế.
- Điều kiện tự nhiên, những đặc điểm văn hoá xã hội: Những yếu tố này có
những tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư, có thể là tạo
điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn; những yếu tố này ít có sự thay đổi trong một
thời gian dài nên nhà đầu tư có thể an tâm sau khi tìm hiểu và đưa ra quyết định của
mình.
1.1.2 Vốn và nguồn vốn đầu tư
1.1.2.1 Khái niệm và nội dung của vốn đầu tư
a. Khái niệm

Vốn đầu tư là nguồn lực tích luỹ được của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch vụ, tiết kiệm của dân và huy động từ nước ngoài được biểu hiện dưới
các dạng tiền tệ các loại, hàng hoá hữu hình, tài nguyên, hàng hoá vô hình (công
nghệ, nguồn nhân lực), hàng hoá đặc biệt khác. Nhằm tái sản xuất, duy trì, mở rộng
các tài sản cố định, đổi mới và bổ sung cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, cho
các ngành, cho các địa phương, cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Trên giác độ vi mô: Vốn đầu tư là nguồn lực tự tích luỹ của cơ sở (lợi nhuận
để lại, vốn tích luỹ trước, vốn góp); vốn vay (của các cơ sở sản xuất khác, của dân,
của nước ngoài); vốn tài trợ, viện trợ.
10


b. Nội dung của vốn đầu tư
Đây là các khoản chi phí phát sinh trong quá trình đầu tư bao gồm:
- Chi phí để tạo ra các tài sản cố định mới hoặc bảo dưỡng cho hoạt động của
các tài sản cố định sẵn có.
- Chi phí để tạo ra hoặc tăng thêm các tài sản lưu động
- Chi phí chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư.
- Chi phí dự phòng cho các khoản chi phí phát sinh
1.1.2.2 Đặc điểm của vốn đầu tư
- Vốn phải vận động và sinh lợi
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, vốn đầu tư được khai thác và sử
dụng lãng phí, hiệu quả thấp. Trong nền kinh tế thị trường, người ta không cho phép
một đồng vốn nào được nằm im, bất động, không sinh lời mà mọi đồng vốn đều
được đưa vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Tính sinh lợi, hiệu quả là đặc
trưng cơ bản của vốn trong nền kinh tế thị trường.
- Vốn bao giờ cũng gắn liền với một chủ sở hữu nhất định
Tính hiệu quả, tính sinh lợi của vốn trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi gắn
liền với quá trình quản lý vốn. Muốn quản lý vốn có hiệu quả, trước hết vốn phải
gắn liền với chủ sở hữu nhất định (như Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân). Người

chủ sở hữu bằng kinh nghiệm, khả năng sẵn có sẽ tìm những cách thức để bảo toàn
và phát triển đồng vốn của mình. Dĩ nhiên, người chủ sở hữu vốn có thể không
đồng nhất với người sử dụng vốn.
- Vốn phải tích lũy và tập trung để phát huy hiệu quả
Cơ hội đầu tư thì nhiều nhưng không phải khi nào bắt gặp cơ hội là ta có thể
đầu tư. Để tiến hành đầu tư, nhà đầu tư trước hết cần phải xác định thời cơ và cơ
hội đầu tư đúng đắn sau đó cần tích lũy, tập trung vốn đến một mức độ nhất định để
đáp ứng đủ nhu cầu. Nếu nhu cầu lớn mà nguồn vốn chưa bảo đảm thì không thể
tiến hành đầu tư vì có thể sẽ dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp thậm chí đổ vỡ cả công
cuộc đầu tư.
- Khối lượng vốn đầu tư thường lớn, nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu

Không như các hoạt động kinh doanh thông thường, hoạt động đầu tư thường
có tính chất dài hạn, sản phẩm của hoạt động đầu tư có tính cá biệt, đơn chiếc nên
11


mỗi công cuộc đầu tư thường đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư lớn, nằm khê đọng
trong suốt quá trình đầu tư. Các kết quả đầu tư, vốn đầu tư chỉ được thu hồi sau một
quá trình từ khâu chuẩn bị đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư. Đó là một chu kỳ khép
kín, sau mỗi chu kỳ vốn đầu tư lại tăng lên, lại được bỏ vào tái sản xuất đầu tư phát
triển. Cũng có trường hợp, do chủ đầu tư không biết quản lý vốn, có những tính
toán sai lầm hoặc những lý do khách quan mà vốn đầu tư bị thâm hụt, mất mát nên
vốn đầu tư còn mang cả tính rủi ro.
1.1.2.3 Phân loại nguồn vốn đầu tư
Theo nguồn hình thành, vốn đầu tư bao gồm:
a. Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn trong nước là những nguồn vốn được huy động trong nước bao
gồm: nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước,
nguồn vốn tín dụng của các doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn từ khu vực tư

nhân...
 Nguồn vốn ngân sách Nhà nước
Đây là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư, là một nguồn vốn đầu
tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn
vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự
tham gia của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và phát triển
nông thôn.
 Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, tín dụng đầu tư của Nhà nước ngày
càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao
cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn
này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải
tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách
sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý
và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư, Nhà nước khuyến
12


khích phát triển kinh tế - xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến
lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không
chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển
xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển
vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và
trên hết nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực
trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

 Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước
Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh
nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Mặc dù,
vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực kinh tế
Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay. Lượng vốn mà các doanh nghiệp nắm
giữ để đưa vào đầu tư thường cho hiệu quả cao, góp một phần quan trọng thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển.
 Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích
luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo nhận định sơ bộ thì khu
vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa
được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển của đất nước, một bộ phân không nhỏ trong dân cư có
tiềm năng kinh tế cao, có một lượng vốn khá lớn do có nguồn thu nhập gia tăng
hoặc do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư
không phải là nhỏ, lượng vốn này tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt....
Nguồn này ước tính xấp xỉ 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống
ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình.
Quy mô của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp
thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
- Tập quán tiêu dùng của dân cư.
- Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và
các khoản đóng góp với xã hội.
b. Nguồn vốn nước ngoài
13


 Nguồn viện trợ chính thức (ODA)

ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín
dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức thuộc hệ thống liên hợp quốc (United Natinons-UN), các tổ chức
tài chính quốc tế dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển.
ODA cùng với các nguồn vốn khác như tín dụng thương mại từ các ngân hàng,
đầu tư trực tiếp nước ngoài, viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ
(NGO), tín dụng tư nhân chủ yếu chảy vào các nước đang và chậm phát triển. Các
dòng vốn quốc tế này có những mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu một nước
kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để cải thiện cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội thì cũng khó có thể thu hút được nguồn vốn FDI cũng như vay
các nguồn vốn tín dụng khác để mở rộng kinh doanh. Nhưng nếu chỉ tìm và phụ
thuộc vào ODA mà không tìm cách thu hút các nguồn vốn khác thì nước đó không
có điều kiện tăng trưởng nhanh sản xuất, dịch vụ, không có đủ thu nhập để trả nợ
ODA.
Vốn ODA mang tính ưu đãi: Đây chính là một sự ưu đãi dành cho nước vay,
nhiều khi nước nhận các khoản vốn này không phải hoàn lại. Thông thường trong
ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại, đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ
và cho vay thương mại. Các nhà tài trợ thường áp dụng nhiều hình thức khác nhau
trong ưu đãi, như kết hợp một phần ưu đãi và một phần tín dụng gần với điều kiện
thương mại.
Vốn ODA còn thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm
phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang
phát triển và chậm phát triển nhận được ODA là:
Thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp. Nước
nào có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường nhận được tỷ lệ viện trợ
không hoàn lại của ODA càng cao và khả năng vay với lãi suất thấp, thời hạn ưu đãi
càng lớn. Khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất định qua ngưỡng đói nghèo
thì sự ưu đãi này sẻ giảm đi.
Thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA cua các nước này phải phù hợp với chính
sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận

ODA.
14


Thông thường, các nước cung cấp ODA đều có những chính sách ưu tiên riêng
của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay lĩnh vực mà họ có khả
năng kỹ thuật và tư vấn (công nghệ, kinh nghiệm quản lý...). Đồng thời, đối tượng
ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo thời gian tùy từng
điều kiện cụ thể. Vì vậy, nắm được hưởng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ
chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong
những điều kiện nhất định một phần Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) từ các nước
phát triển sang các nước đang phát triển. Như vậy, nguồn gốc thực chất của ODA
chính là một phần của tổng sản phẩm quốc dân của các nước giàu được chuyển sang
các nước nghèo. Do thế, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của
dư luận xã hội từ nước cung cấp cũng như từ nước tiếp nhận ODA.
Vốn ODA mang tính ràng buộc: Có thể là ràng buộc một phần hoặc không
ràng buộc đối với nước nhận, thông thường đi kèm với vốn ODA là sự ràng buộc,
tuy nhiên sự ràng buộc nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào bên cho vay và bên nhận vay.
Ngoài ra, nước viện trợ vốn họ còn có điều kiện, yêu cầu riêng khác nhau, các ràng
buộc này thường chặt chẽ với nước nhận ODA.
Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình, vừa
gây ảnh hưởng về chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào
nước nhận viện trợ. Như các nước Đức, Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ
phải mua hàng hoá và dịch vụ của nước mình, Canađa yêu cầu lên tới 65%, riêng
Thuỵ Sĩ chỉ yêu cầu 1,7% và Hà Lan 2,2%.
Kể từ khi ra đời đến nay, viện trợ luôn chứa đựng 2 mục tiêu cùng tồn tại song
song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm đói nghèo ở các
nước đang phát triển; động cơ thúc đẩy các nhà tài trợ chính là thị trường tiêu thụ
sản phẩm, thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế cho nên

xét về lâu dài các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế
các nước nghèo tăng trưởng. Mối quan tâm mang tính cá nhân này được kết hợp với
tinh thần nhân đạo và tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như sự
bùng nổ dân số, bảo vệ môi trường sống, bình đẳng giới, chống dịch bệnh, giải
quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo... đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc
tế, không phân biệt nước giàu, nước nghèo. Mục tiêu tiếp theo là tăng cường vị thế
15


về chính trị của các nước viện trợ, các nước phát triển sử dụng ODA như một công
cụ chính trị nhằm xác định vị trí ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp
nhận ODA. Mỹ là một trong những nước đi đầu trong chính sách dùng ODA để tạo
tầm ảnh hưởng về chính trị cho mình. Tiếp theo là Nhật Bản, đây là nước sử dụng
ODA để tạo tầm ảnh hưởng về mặt kinh tế và chính trị.
ODA là vốn có khả năng gây nợ: Vì đây là nguồn vốn của các tổ chức nước
ngoài cho vay, thông qua hình thức đầu tư gián tiếp nên nước nhận đầu tư phải trả
nợ cho nước vay. Sự phức tạp là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp
cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi viện trợ lại dựa vào xuất khẩu ngoại tệ
nên khả năng nợ là rất cao, điều này khác với nguồn vốn FDI là nguồn vốn không
có khả năng gây nợ.
Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước nhận viện trợ lớn của khu vực,
điều này đòi hỏi chúng ta phải đầu tư từ nguồn vốn này sao cho có hiệu quả cao.
Vốn ODA có khả năng gây nợ nên hiệu quả đầu tư của nguồn vốn này cần phải
nghiên cứu xem xét kỹ trước khi nhận viện trợ từ các nước, phải nghiên cứu xem
xét tính khả thi của các dự án trước khi ra quyết định đầu tư.
Xu hướng của nguồn vốn ODA ngày nay là: ngày càng có thêm nhiều cam kết
quan trọng trong quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức, bảo vệ môi trường sinh thái
đang là trọng tâm ưu tiên của các nhà tài trợ, mục tiêu và yêu cầu của các nhà tài trợ
ngày càng cụ thể, tuy nhiên ngày càng có sự nhất trí cao giữa các bên về mục tiêu
này; cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong việc thu hút ODA đang tăng

lên. Có thể khẳng định ODA là nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước
đang và chậm phát triển.
 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó,
người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động
sử dụng vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được hình thành từ lâu, chủ yếu là sự di
chuyển vốn giữa các nước tư bản phát triển, ngày nay các nước đang phát triển cũng
tiếp nhận lượng vốn đầu tư này cho quá trình phát triển triển kinh tế của mình. Đây
là một nguồn quan trọng đối với các nước đang phát triển. Kinh nghiệm cho thấy
các nước như Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Singapo ... đã tận dụng nguồn vốn

16


này rất tốt cho quá trình phát triển kinh tế của nước họ, hiện nay các nước này đang
là một trong những nước có nền kinh tế phát triển nhanh, kinh tế ổn định.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm như sau:
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định,
tuỳ theo luật đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn: Đối với doanh
nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp
và quản lý đối tượng hợp tác tuỳ thuộc vào mức độ vốn góp của các bên tham gia,
còn đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì bên nước ngoài (chủ đầu tư)
toàn quyền quản lý doanh nghiệp.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ít chịu sự chi phối của chính phủ: Đầu tư trực
tiếp nước ngoài do các nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp tư nhân thực hiện nên nó ít
chịu sự chi phối của chính phủ, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài ít phụ thuộc
vào mối quan hệ giữa nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư so với các hình
thức di chuyển vốn đầu tư quốc tế khác.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra một nguồn vốn dài hạn cho nước chủ nhà:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường dài hạn nên không dễ rút đi trong thời gian
ngắn. Do đó, nước chủ nhà sẽ được tiếp nhận một nguồn vốn lớn bổ sung cho vốn
đầu tư trong nước mà không phải lo trả nợ. Điều này khác với nguồn vốn ODA, các
nước nhận vốn đầu tư phải trả nợ trong một khoảng thời gian nào đó theo quy định
ký kết giữa các bên chủ nhà và nhà viện trợ.
- Quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đầu tư gắn liền với chủ đầu tư. Chủ đầu
tư cũng chính là nhà đầu tư, họ trực tiếp đứng ra quản lý nguồn vốn của mình và
chịu mọi rủi ro có thể xảy ra khi đầu tư. Tuy nhiên, cũng như các nhà đầu tư trong
nước, các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật,
các văn bản pháp quy liên quan đến lĩnh vực đầu tư của Việt Nam.
1.1.3 Thu hút và sử dụng vốn đầu tư
1.1.3.1 Thu hút vốn đầu tư
a. Khái niệm
Thu hút vốn đầu tư bao gồm các hoạt động, biện pháp và chính sách nhằm đưa
nguồn vốn từ tích lũy trong nền kinh tế sang đầu tư.
b. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút vốn đầu tư
17


Thu hút vốn đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, tuy nhiên việc thu hút vốn đầu tư không phải là dễ dàng mà nó còn
phụ thuộc vào một số nhân tố như sau:
Thứ nhất, như chúng ta đã biết, đầu tư là hành động bỏ vốn ngày hôm nay để
thu lại lợi nhuận trong tương lai, việc bỏ vốn của nhà đầu tư sẽ phụ thuộc nhiều vào
môi trường đầu tư, vì vậy, môi trường đầu tư có một vị trí vô cùng quan trọng. Theo
nghĩa chung nhất môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố bên ngoài liên quan đến
hoạt động đầu tư. Có nhiều cách phân loại môi trường đầu tư, song theo nhiều nhà
kinh tế, môi trường đầu tư có thể chia ra môi trường cứng và môi trường mềm.
Môi trường cứng liên quan đến các yếu tố thuộc kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục
vụ cho sự phát triển kinh tế, gồm: hệ thống hạ tầng giao thông (đường sá, cầu cảng

hàng không, cảng biển, hệ thống thông tin liên lạc, năng lượng). Môi trường mềm
bao gồm: Hệ thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt động
đầu tư (đặc biệt là các vấn đề liên quan đến chế độ đối xử giải quyết các tranh chấp
khiếu nại); Hệ thống các dịch vụ tài chính – ngân hàng, kế toán và kiểm toán …
Mọi hoạt động đầu tư suy ra cho cùng là để thu lợi nhuận, vì thế môi trường
đầu tư hấp dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư cao, mức độ rủi ro thấp.
Điều này lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: chính sách, cơ chế ưu đãi đầu
tư của địa bàn được đầu tư, điều kiện phát triển về kết cấu hạ tầng, mức độ hoàn
thiện về thể chế hành chính – pháp lý, khả năng ổn định về mặt chính trị - xã hội,
độ mở cửa nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống thị trường… Các nhân tố trên có
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả
của môi trường đầu tư nhất thiết phải quan tâm xử lý đồng bộ các yếu tố ảnh hưởng
trên.
Thứ hai, mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, chất lượng cung cấp dịch
vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh; mức độ cạnh tranh của thị trường
trong nước cũng ảnh hưởng đến quá trình thu hút vốn đầu tư. Mức độ phát triển về
quản lý kinh tế vĩ mô thấp, dẫn đến các hiện tượng lạm phát cao, nợ nước ngoài
nhiều, tham nhũng, thủ tục hành chính rườm rà, tăng trưởng kinh tế thấp… là
nguyên nhân tiềm ẩn gây nên khủng hoảng. Chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém
ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như
đời sống của các nhà đầu tư nước ngoài khiến tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản
18


phẩm không cao. Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng lao động, tài chính
cũng là những yếu tố rất cần để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Tính cạnh tranh
của các nước chủ nhà sẽ giảm được rào cản đối với đầu tư nước ngoài, các nhà đầu
tư có thể lựa chọn lĩnh vực đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình.
Bên cạnh đó, môi trường luật pháp và chính sách đầu tư là một trong những
điều đầu tiên mà các nhà đầu tư quan tâm khi lựa chọn thị trường đầu tư. Bởi, quá

trình đầu tư liên quan đến rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài, nên
cần một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản
lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các chính
sách, quy định, luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo
nhau và có tính hiệu lực cao.
c. Điều kiện để thu hút vốn đầu tư
Thứ nhất, tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền
kinh tế. Xét trong dài hạn, năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng
xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả. Vấn đề tăng
trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với
cả vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Nó thể hiện nguyên tắc mang tính
chủ đạo trong thu hút vốn đầu tư. Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả
năng thu hút nó càng lớn, điều này được thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, với năng
lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích lũy của nền kinh tế sẽ có khả năng gia
tăng. Khi đó, quy mô các nguồn vốn trong nước có thể huy động được cải thiện.
Thứ hai, triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng là tín hiệu tốt thu hút
các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Đây được coi là điều kiện
tiên quyết cho mọi ý định và hành vi đầu tư. Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường
kinh tế vĩ mô, chính trị xã hội và môi trường kinh doanh ổn định. Đối với vốn đầu
tư nước ngoài còn yêu cầu năng lực trả nợ tối thiểu của nước nhận vốn đầu tư.
Thứ ba, xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả. Bên
cạnh tiềm năng tăng trưởng và ổn định nền kinh tế vĩ mô, để có thể huy động các
nguồn vốn cần có các chính sách và giải pháp hợp lý và đồng bộ trên cơ sở tính toán
tổng hợp đảm bảo khuyến khích, định hướng các hoạt động thu hút và cung ứng
vốn.
19


1.1.3.2 Sử dụng vốn đầu tư

a. Khái niệm
Sử dụng vốn đầu tư là quá trình đưa nguồn vốn đã tích luỹ, huy động được
vào đầu tư.
Sử dụng vốn đầu tư bao gồm các hoạt động phân bổ, quản lý và giám sát quá
trình chuyển biến của vốn từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật chất dưới dạng các
kết quả đầu tư nhằm phục vụ trực tiếp cho quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở
rộng của nền kinh tế.
b. Vai trò của sử dụng vốn đầu tư
Cơ chế phân bổ vốn, cơ chế quản lý và giám sát hoạt động đầu tư sẽ có ảnh
hưởng trực tiếp và cơ bản đến hiệu quả đầu tư và chất lượng tăng trưởng của mỗi
quốc gia. Cơ chế phân bổ vốn hiểu quả sẽ giúp cho quá trình điều tiết vốn đến được
đúng địa chỉ thực sự nhu cầu sử dụng vốn, giúp nền kinh tế chuyển dịch vốn từ nơi
dư thừa sang nơi thiếu, từ nơi sử dụng kém hiểu quả sang nơi hiệu quả hơn. Cơ
chế quản lý công khai và minh bạch sẽ giúp cho quá trình giám sát thực hiện đầu tư
được thực hiện triệt để và từ đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
c. Hiệu quả của sử dụng vốn đầu tư
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là hiệu quả sử dụng một bộ phận nguồn lực đầu
vào rất quan trọng của nền kinh tế, là thước đo trình độ tổ chức quản lý và khai thác,
sử dụng vốn đầu tư phát triển vào các hoạt động kinh tế nhằm tối đa hóa lợi ích của
chủ đầu tư và các lợi ích kinh tế xã hội khác với chi phí thấp nhất. Hiệu quả đầu tư
phản ánh mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với tổng số vốn đầu tư phát
triển đã được sử dụng để tạo ra kết quả đó. Hiệu quả vốn đầu tư có thể được đo
bằng các chỉ tiêu trực tiếp (ví dụ: GDP/VĐT) và các chỉ tiêu gián tiếp (ví dụ: hệ số
ICOR). Với những ý nghĩa trên, có thể thông qua chỉ tiêu hiểu quả sử dụng vốn đầu
tư – bộ phận nguồn lực đầu vào rất quan trọng để phát triển Kinh tế xã hội để đánh
giá chất lượng tăng trưởng kinh tế.
1.1.4 Những nguyên tắc và điều kiện để thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu

1.1.4.1 Nguyên tắc
Thứ nhất, phải xác định vai trò của từng nguồn vốn từ đó có những biện pháp

khai thác huy động vốn có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
20


đại hoá của đất nước. Điều này được xác định rõ trong Nghị quyết đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX: nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn
nước ngoài đóng vai trò quan trọng.
Thứ hai, huy động vốn đầu tư phải gắn liền với sử dụng vốn đầu tư. Chỉ trên
cơ sở xác định nhu cầu vốn đầu tư là bao nhiêu và đầu tư vào đâu mới tổ chức huy
động vốn đầu tư. Bởi lẽ, việc huy động vốn chính là nhằm cho mục đích sử dụng số
vốn đó. Và việc sử dụng vốn như thế nào, nhiều hay ít lại dựa trên cơ sở huy động
vốn. Nếu huy động vốn không đủ nhu cầu thì việc sử dụng vốn khó đem lại hiệu
quả cao, còn nếu huy động vốn thừa so với nhu cầu thì việc sử dụng sẽ dẫn đến lãng
phí. Do vậy có thể nói, huy động vốn phải đi đôi với sử dụng vốn có hiệu quả.
Thứ ba, khai thác vốn đầu tư phải gắn liền với thực hiện mục tiêu phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng khai thác
vốn đầu tư phải đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế; tăng GDP, tăng
thu nhập bình quân theo đầu người; phải đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện công bằng xã hội. Chỉ có như vậy mới có thể đưa đất nước tiến lên
theo con đường xã hội chủ nghĩa.
1.1.4.2 Điều kiện để thu hút vốn đầu tư có hiệu quả
Một là, các điều kiện về môi trường pháp lý cho việc huy động và sử dụng
vốn: Một cơ chế chính sách và pháp luật rõ ràng, đồng bộ là môi trường tốt cho
hoạt động huy động vốn đầu tư. Hiện nay, pháp luật và chính sách khuyến khích
đầu tư của Việt nam còn nhiều vướng mắc cần phải sửa đổi, bổ sung. Ngoài những
vấn đề về mặt pháp lý thì môi trường đầu tư cũng như môi trường kinh doanh chưa
thật sự ổn định, chưa thông thoáng hấp dẫn các nhà đầu tư; nhiều biện pháp hỗ trợ
của Nhà nước đã được ban hành nhưng trên thực tế vẫn khó áp dụng từ đó chưa thật
sự khuyến khích các nhà đầu tư.

Hai là, điều kiện về khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế: Khả năng hấp thụ
vốn biểu hiện thông qua năng lực về cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, nguồn vốn đối
ứng và một số điều kiện kinh tế xã hội khác mà nền kinh tế phải đáp ứng để có thể
tiếp nhận được các nguồn vốn đầu tư.
Ba là, khai thác vốn đầu tư phải trên cơ sở giải quyết thoả đáng lợi ích của các
bên: Chủ sở hữu vốn và người sử dụng vốn. Mỗi bên đều có những mục tiêu, mục
21


đích nhất định làm sao phải kết hợp hài hoà những mục đích đó. Có như vậy mới
phát huy, tạo động lực mạnh cho việc khai thác, sử dụng vốn có hiệu quả.

Bốn là, quá trình đầu tư chịu tác động bởi các yếu tố của môi trường vĩ mô
cũng như môi trường vi mô như: Tình hình lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái; tình
hình sản xuất kinh doanh, lợi nhuận, khả năng thanh toán của doanh nghiệp; tình
hình quản lý vốn đầu tư trong nền kinh tế. Vì vậy, việc khai thác và sử dụng vốn
đầu tư phải được đáp ứng trong điều kiện ổn định nền kinh tế vĩ mô, hoạt động của
doanh nghiệp lành mạnh.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Sự cần thiết phải thu hút vốn đầu tư để phát triển vùng lãnh thổ
Việt Nam là một nước đang phát triển với các nguồn vốn đầu tư còn hạn chế.
Trong điều kiện đó, Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện chiến lược đầu tư có
trọng điểm và phát triển kinh tế dựa trên thế mạnh và lợi thế so sánh của từng vùng,
từng địa phương. Trong “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội” trình đại hội IX của
Đảng nhấn mạnh các nội dung xây dựng và phát triển ở các vùng. Đó là 3 vùng
kinh tế trọng điểm Bắc bộ, miền trung, phía nam và 3 vùng khó khăn hơn là trung
du miền núi Bắc bộ, Tây nguyên và ĐBSCL. Việc thu hút các nguồn vốn đầu tư
phát triển các vùng lãnh thổ nhằm để khai thác, phát huy tiềm năng thế mạnh của
từng vùng, tạo động lực phát triển cho vùng và tạo ra sức hấp dẫn, tác động vào sự
phát triển của các vùng có liên quan.

Để đạt được các mục tiêu chiến lược đó, cần phải các chính sách đầu tư thích
hợp và cơ chế tăng cường liên kết, quản lý vùng. Đối với các vùng có lợi thế, việc
ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ nhanh chóng tạo ra một môi trường kinh doanh
hấp dẫn đầu tư. Đối với những vùng khó khăn, chính sách đầu tư phát triển cần
nhằm nhanh chóng thu hẹp những bất lợi so với các vùng khác. Trên thực tế, trong
những năm qua một số chính sách liên quan đến phát triển vùng đã được ban hành
dưới nhiều hình thức. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội các vùng.
Đó là những định hướng của Nhà nước, trên thực tế làm thế nào để thu hút
vốn đầu tư, tăng cường liên kết với các vùng thì mỗi tỉnh cần áp dụng sáng tạo tuỳ
theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Cũng như các tỉnh lân cận, nền kinh tế Tỉnh Yên
Bái nói chung và Huyện Văn Yên nói riêng đang từng bước chuyển mình theo
22


hướng công nghiệp hoá, nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn trong khi tích luỹ nội bộ
còn hạn chế. Để không bị tụt hậu so với các tỉnh và trên phạm vi cả nước thì thu hút
mọi nguồn lực cho đầu tư là rất cần thiết trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện
nay.

1.2.2 Thực trạng thu hút và sử dụng vốn của Việt Nam
1.2.2.1 Thực trạng thu hút vốn đầu tư của Việt Nam
a. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Biểu đồ 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Do vẫn còn ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế
giới, thu hút FDI năm 2010 đạt 18,6 tỉ USD, giảm 19,5% so với mức 23,1 tỉ USD
của năm 2009, không đạt mục tiêu thu hút 22 - 25 tỉ USD trong năm 2010. Điểm
sáng nhất trong thu hút FDI năm nay là chỉ tiêu giải ngân, đạt 11 tỉ USD, tăng 10%

so với năm trước và chỉ cách kỉ lục của năm 2008 là 500 triệu USD; nhóm ngành
sản phẩm chế biến vươn lên dẫn đầu khi có tới 4,37 tỉ USD đăng kí và giúp số dự án
nhóm này tăng gần gấp rưỡi. Đây được đánh giá là tín hiệu tốt đối với nền kinh tế
trong việc thu hẹp thâm hụt thương mại trong tương lai.
Tính đến nay, FDI đã có mặt ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước và có 55
quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, Singapore vươn
23


lên dẫn đầu các nhà đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và
tăng thêm là 4,43 tỉ USD chiếm 23,8 % tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hà Lan
đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm trên 2,37 tỉ USD,
chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư tại Việt Nam; Hàn Quốc đứng thứ 3 với tổng vốn
đăng ký cấp mới và tăng thêm là 2,36 tỉ USD, chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư vào
Việt Nam.
Đến năm 2011, đây là năm đầy khó khăn và thách thức đối với nền kinh tế
Việt Nam, trong đó có việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Kinh tế
Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các tiêu cực của kinh tế thế giới cộng với
những hạn chế của nội tại nền kinh tế dẫn đến những bất ổn của kinh tế vĩ mô. Tuy
nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của
Chính phủ, cùng với sự nỗ lực của các bộ, ngành, các địa phương, cộng đồng doanh
nghiệp và nhân dân, nền kinh tế nước ta đã có chuyển biến tích cực. Khu vực FDI
vẫn đạt được những kết quả tương đối khả quan, thể hiện trên các mặt sau:
- Vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD đã đóng góp 25,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội
năm 2011.
- Mặc dù, vốn đăng ký mới và tăng thêm chỉ đạt 14,7 tỷ USD, nhưng vốn đăng
ký tăng thêm của các dự án đã cấp phép đạt 3,1 tỷ USD, tăng 1,65 lần mức vốn
đăng ký tăng thêm của năm 2010 (1,89 tỷ USD). Điều này cho thấy, các nhà đầu tư
nước ngoài đã đầu tư tại Việt Nam vẫn có sự đánh giá tích cực về môi trường đầu tư
kinh doanh tại Việt Nam.

- Cơ cấu vốn đăng ký đã có những chuyển biến tích cực, phù hợp với định
hướng thu hút FDI, đó là tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng - chiếm
76,4% (cao hơn so với năm 2010 là 54,1%); kinh doanh bất động sản chỉ chiếm
5,8% vốn đăng ký (so với năm 2010 là 34,3%).
Bên cạnh những con số cụ thể nêu trên, vai trò của FDI còn thể hiện thông qua
những yếu tố không lượng hoá được, đó là nó đã đưa một phương thức quản lý mới
cho nền kinh tế; đóng vai trò mở đường trong việc tạo ra một số ngành công
nghiệp, sản phẩm, mở rộng thị trường; tác động lan tỏa đối với nền kinh tế.
b. Nguồn viện trợ chính thức (ODA)
Tình hình thu hút vốn ODA ở Việt Nam ngày càng có những chuyển biến tích
cực, điều này được thể hiện trong bảng sau:
24


Bảng 1: Huy động vốn ODA trong giai đoạn 2006 – 2010
(ĐVT: Triệu USD)
Năm
Số vốn cam kết

2006

2007

2008

2009

2010

Tổng


3700

4400

5426

8063

7900

29489

Số vốn đã giải ngân
1780
2000
2200
3600
3500
13080
(Nguồn: Báo cáo chính phủ tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho VN)
Qua bảng trên ta thấy, nguồn vốn ODA của các nhà tài trợ cho Việt Nam ngày
càng nhiều, kể cả vốn vay lãi suất thấp và viện trợ không hoàn lại. Đây là nguồn
ngoại lực quí giá, góp phần quan trọng giúp chúng ta đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ
tầng, trường học, các cơ sở khám, chữa bệnh cho nhân dân. Đặc biệt, nguồn vốn này
đã hỗ trợ rất tích cực cho các địa phương thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo,
xây dựng nông thôn mới.
Trong lịch sử 19 năm tiếp nhận vốn ODA - kể từ năm 1993 đến nay - với tổng
số tiền khoảng trên 40 tỉ USD. Rõ ràng, cộng đồng quốc tế đang ngày càng đánh giá
cao về Việt Nam. Đây cũng là kết quả của quá trình tạo dựng niềm tin với bạn bè

quốc tế mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã thực hiện liên tục trong nhiều năm
qua; nhất là trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, Việt Nam có những tiến bộ
rất khả quan về hiệu quả ổn định nền kinh tế; quyết tâm chống tham nhũng cùng
những nỗ lực cải cách nền hành chính công.
c. Những hạn chế trong thu hút VĐT ở Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thu hút vốn đầu tư cũng còn tồn
tại một số hạn chế, bất cập sau:
- Hệ thống kết cấu hạ tầng của Việt Nam mặc dù đã được đầu tư nhiều trong
một vài năm trở lại đây nhưng vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của
các nhà đầu tư và doanh nghiệp, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao
thông, cảng biển, hệ thống kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào các khu công nghiệp.
- Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân
kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệt, không chỉ xảy ra ở các khu kinh tế mới hình
thành mà còn ở cả những trung tâm công nghiệp như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Bình Dương...
- Công tác quy hoạch còn thiếu đồng bộ, nhất quán.
- Nhiều thủ tục hành chính kéo dài ảnh hưởng kết quả sản xuất kinh doanh;
hệ thống luật pháp về ĐTNN vẫn còn có những chồng chéo, chưa rõ ràng dẫn tới
lúng túng trong việc triển khai thực hiện.
25


×