Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học môn địa lý THCS năm học 2015 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.65 KB, 16 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
nhóm trong dạy học Địa lý ở trường trung học cơ sở”
*****

MỤC LỤC
I.

II.

III
.

MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng
2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang: 1
1
1
1
1


2
2
3
5
13
14
14
15

1


I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Hoạt động thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học có
hiệu quả trong việc phát huy tích tính cực, chủ động của học sinh, rèn luyện cho
các em ý thức hoạt động tập thể và khả năng hợp tác trong công việc. Khi học
theo nhóm, học sinh sẽ được cùng nhau thảo luận theo từng vấn đề của bài học,
đó là cơ hội thuận lợi cho mọi học sinh được tham gia hoạt động học tập. Học
theo nhóm cũng là cơ hội cho học sinh học hỏi lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau về cách
tìm kiếm những giải pháp để giải quyết những tình huống nảy sinh trong bài
học. Thông qua hoạt động nhóm, học sinh có thể cùng nhau tìm hiểu và đạt được
những điều mà cá nhân khó khăn khi thực hiện một mình. Qua đó tính tích cực,
chủ động của học sinh được phát huy đến cao độ. Do đó phương pháp này đang
được nhiều giáo viên vận dụng vào trong quá trình giảng dạy để nâng cao chất
lượng giáo dục trong nhà trường. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy hiện nay,
phương pháp học theo nhóm vẫn còn một số giáo viên chưa nắm vững, ít khi
thực hiện hoặc có thực hiện thì cũng còn mang tính hình thức, chưa phát huy
được hiệu quả tích cực của nó. Vì vậy nhiều năm qua bản thân tôi đã quan tâm
nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng về phương pháp học nhóm và đã rút ra “Một số

biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học Địa lý ở trường
trung học cơ sở” góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn nói riêng và
chất lượng giáo dục ở nhà trường trung học cơ sở nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Địa
lý “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học Địa
lý ở trường trung học cơ sở” đi sâu nghiên cứu và thể nghiệm những biện
pháp, kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học góp phần nâng cao chất
lượng bộ môn Địa lí ở trường THCS hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học bộ
môn Địa lý THCS.
- Học sinh khối lớp 6; 8 trường THCS.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
2


II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
Hoạt động nhóm là một phương pháp dạy học mà học sinh được phân
chia thành từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nhiệm về một mục tiêu duy
nhất, được thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá
nhân riêng biệt được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm thực hiện một
mục tiêu chung.
Hoạt động nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một
cách chủ động vào quá trình hoạt động, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến

thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài
học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau hợp tác
giải quyết những nhiệm vụ chung.
Ưu điểm của phương pháp này là:
- Học sinh được học cách cộng tác trên nhiều phương diện.
- Học sinh được nêu quan điểm của mình, được nghe quan điểm của bạn
khác trong nhóm, trong lớp; được trao đổi, bàn luận về các ý kiến khác nhau và
đưa ra lời giải tối ưu cho nhiệm vụ được giao cho nhóm. Qua cách học đó, kiến
thức của học sinh sẽ bớt phần chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan
khoa học, tư duy phê phán của học sinh được rèn luyện và phát triển.
- Các thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ, băn khoăn, kinh
nghiệm, hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới và
học hỏi lẫn nhau. Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn
do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm, được tham gia trao
đổi, trình bày vấn đề nêu ra. Học sinh hào hứng khi có sự đóng góp của mình
vào thành công chung của cả lớp.
- Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, nhất là những em nhút
nhát trở nên bạo dạn hơn, các em học được cách trình bày ý kiến của mình, biết
lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn. Từ đó giúp học sinh dễ hòa nhập vào
cộng đồng nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt.
- Vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội của học sinh thêm phong phú; kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác của học sinh được phát triển.
Bên cạnh những ưu điểm đó, phương pháp hoạt động nhóm cũng có một
số hạn chế mà khi thực hiện giáo viên cần phải chú ý, đó là:
Thứ nhất: Một số học sinh nhút nhát hoặc vì một lí do nào đó không tham
gia vào hoạt động chung của nhóm, nên nếu giáo viên không phân công hợp lí
3


có thể dẫn đến tình trạng chỉ có một vài học sinh khá tham gia còn đa số học

sinh khác không hoạt động.
Thứ hai: Ý kiến các nhóm có thể quá phân tán hoặc mâu thuẫn gay gắt
với nhau.
Thứ ba: Thời gian có thể bị kéo dài.
Thứ tư: Với những lớp có sĩ số đông hoặc lớp học chật hẹp, bàn ghế khó
di chuyển thì khó tổ chức hoạt động nhóm. Khi tranh luận, dễ dẫn tới lớp ồn ào,
ảnh hưởng đến các lớp khác.
2.2. Thực trạng việc tổ chức hoạt động nhóm trong dạy và học
Từ năm học 2002 – 2003 khi bắt đầu thực hiện đổi mới chương trình và
phương pháp giảng dạy, mỗi giáo viên hàng năm đều được tập huấn về đổi mới
phương pháp, trong đó có phương pháp tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm.
Đến nay đã hơn 10 năm thực hiện, nhưng qua các tiết dự giờ, tham khảo giáo án
và trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp gần đây, chúng tôi thấy vẫn còn một số
giáo viên hiểu chưa đúng, lúng túng trong thực hiện và thực hiện chưa có hiệu
quả phương pháp thảo luận nhóm. Những hạn chế đó thể hiện như sau:
- Phần lớn các tiết có tổ chức thảo luận nhóm đều vượt quá thời gian một
tiết dạy (cháy giáo án), hoặc để đảm bảo thời gian thì giáo viên cắt xén thời gian
của các phần, các khâu khác dẫn đến phân phối thời gian trong tiết dạy không
hợp lý.
- Thực hiện không đầy đủ các bước của quy trình thảo luận nhóm như chỉ
nêu câu hỏi cho học sinh thảo luận rồi cho các nhóm báo cáo. Sau đó giáo viên
nhận xét đúng, sai, đầy đủ hay chưa đầy đủ nội dung của các nhóm và chuẩn xác
kiến thức rồi ghi bảng cho học sinh ghi theo. Làm như vậy sẽ thiếu một bước
quan trọng là cho học sinh trong nhóm hoặc các nhóm khác nhận xét, bổ sung
làm rõ vấn đề. Vì thế mỗi nhóm chỉ quan tâm đến câu hỏi của nhóm mình mà
không cần biết đến câu hỏi của nhóm khác dẫn đến kết quả là học sinh nhận thức
không đầy đủ nội dung bài học.
- Một số giáo viên lại có quan niệm là tổ chức bao nhiêu nhóm thì phải
đưa ra bấy nhiêu câu hỏi nên khi tổ chức 6 nhóm thì đưa ra 6 câu hỏi thảo luận.
Khi các nhóm thảo luận và lần lượt báo cáo xong 6 câu trả lời, tiếp đến học sinh

các nhóm nhận xét, bổ sung chéo lẫn nhau và cuối cùng giáo viên nhận xét,
chuẩn xác xong 6 đơn vị kiến thức thì cũng sắp hết thời gian tiết học. Phần thảo
luận nhóm kéo quá dài như vậy sẽ gây nên tâm lí nhàm chán trong học sinh, làm
cho tiết học lẽ ra sinh động nhưng lại trở nên không sinh động.

4


- Có giáo viên muốn rút ngắn thời gian thảo luận nhóm để đảm bảo thời
gian tiết dạy bằng cách đưa ra những câu hỏi rất đơn giản ở dạng “câu hỏi
đóng” (dạng đúng, sai, có, không) hoặc nhìn vào sách giáo khoa hay hình ảnh là
đã biết được nội dung trả lời, làm cho cuộc thảo luận trở nên tẻ nhạt, mang tính
hình thức. Học sinh trong nhóm không cần đóng góp ý kiến, chỉ cần một mình
thư ký hoặc nhóm trưởng mở sách giáo khoa, ghi lại nội dung trả lời là xong,
không cần phải xin ý kiến các bạn trong nhóm.
Ví dụ: Khi dự giờ một đồng nghiệp dạy địa 6 (bài Lớp vỏ khí) thay vì cho
học sinh quan sát hình 46 để thảo luận tìm ra vị trí, đặc điểm, vai trò của mỗi
tầng của lớp vỏ khí (là phần kiến thức trọng tâm phải khai thác trong kênh hình)
thì lại cho học sinh thảo luận tìm những điểm khác nhau của các khối khí (nội
dung này đã được trình bày rất rõ ràng trong kênh chữ nên học sinh không cần
phải thảo luận mà vẫn trả lời được dễ dàng).
- Chưa có hình thức, biện pháp kích thích những học sinh lười biếng
hoặc học sinh yếu tham gia thảo luận. Vì vậy trong nhóm chỉ có một số ít học
sinh hoạt động.
- Tổ chức qui mô nhóm không hợp lý: một lớp học có khoảng hơn 30 học
sinh mà chỉ tổ chức có 2 nhóm (đối với phòng học có 2 dãy bàn) hoặc 3 nhóm
(đối với phòng học có 3 dãy bàn) thì rất khó thảo luận, nhiều học sinh không có
chỗ ngồi, phải đứng vây quanh gây mất trật tự và chỉ mang tính hình thức.
Tóm lại vì nhận thức còn hạn chế về phương pháp thảo luận nhóm như đã
nêu trên nên nhiều giáo viên rất ít tổ chức thảo luận nhóm thường xuyên trong

giảng dạy mà chỉ tổ chức khi có người dự giờ, khi tổ chức thì cũng mang tính
hình thức để thể hiện là có đổi mới phương pháp chứ ít khi mang lại hiệu quả.
Bản thân tôi cũng mắc phải một số hạn chế khi thực hiện phương pháp thảo luận
nhóm trong những năm đầu thực hiện đổi mới chương trình và phương pháp
giảng dạy. Tôi đã thống kê lại phần rút kinh nghiệm sau tiết dạy trong giáo án
địa lý lớp 6 và lớp 8 năm học 2014 - 2015 như sau:
Khối

Số bài
dạy

Số bài có tổ chức Số lần hoạt động Số lần hoạt động
hoạt động nhóm
nhóm
nhóm có hiệu quả

6

27

10 (37 % )

12 (44%)

4 (33,3 % )

8

44


21 (48 % )

25 (57%)

21 (84 % )

5


Từ những hạn chế trên tôi đã dần tìm ra được những giải pháp phù hợp với
tình hình thực tế giảng dạy để nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm, góp phần
nâng cao chất lượng bộ môn.
2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Chuẩn bị hoạt động nhóm:
Trước khi đưa hoạt động nhóm vào một bài dạy giáo viên cần phải trả lời
được các câu hỏi sau:
- Mục tiêu của hoạt nhóm trong bài này là gì ? Liệu nó có phù hợp với các
mục tiêu tổng thể của bài giảng không ?
- Hoạt động này cần bao nhiêu thời gian ? Thời gian còn lại có đủ để hoàn
thành bài dạy không ?
- Hoạt động này yêu cầu giáo viên và học sinh cần chuẩn bị những
phương tiện, thiết bị gì ? học sinh cần phải tham khảo trước các tài liệu nào ?
Liệu những yêu cầu đó thầy và trò có đáp ứng được không ?
2.3.2. Chọn câu hỏi (nêu vấn đề) cho học sinh thảo luận:
- Việc chuẩn bị câu hỏi cho các nhóm thảo luận là một khâu quan trọng.
Những câu hỏi quá đơn giản sẽ làm cho thời gian thảo luận buồn tẻ và rất dễ đi
đến tình trạng thờ ơ của nhiều học sinh. Do đó nên chuẩn bị những “câu hỏi mở”
tức là câu hỏi có nhiều hướng phát triển, nhiều cách lí giải, đòi hỏi học sinh phải
tư duy và trình bày nhiều ý kiến, thậm chí có phần tranh luận để tìm ra kết quả
đúng nhất thì mới lôi cuốn được nhiều học sinh tham gia.

- Mặt khác khi chọn vấn đề thảo luận cần lưu ý là phải xem xét, nghiên
cứu xem học sinh đã biết gì, cảm thấy gì, suy nghĩ gì về vấn đề giáo viên đưa ra
để tránh trường hợp quá sức học sinh thì buổi thảo luận cũng sẽ mất đi ý nghĩa.
- Nội dung thảo luận có thể lấy từ các câu hỏi khó trong sách giáo khoa
hoặc khi khai thác tình huống mâu thuẫn trong lúc giảng bài để cho học sinh
thảo luận tìm phương án giải quyết.
- Ví dụ : Khi giảng về sông ngòi khu vực Đông Á, giáo viên có thể khai
thác tình huống có vấn đề cho học sinh thảo luận như: “Tại sao thuỷ chế của hai
sông Hoàng Hà và Trường Giang hoàn toàn trái ngược nhau ?”.
- Các câu hỏi thảo luận nên cân nhắc kỹ và chuẩn bị trước trong phiếu học
tập (in vi tính), hoặc tiện nhất là viết sẵn trong bảng phụ (loại bảng xếp, thảo
luận đến câu nào thì mở ra đến câu đó) hoặc dùng máy chiếu đa năng. Những
câu hỏi cần phải tham khảo nhiều tài liệu mới trả lời được thì giáo viên nên phổ
biến ở cuối tiết trước (trong phần dặn dò) và giới thiệu cụ thể tên tài liệu tham
khảo. Cần lưu ý là mức độ và dung lượng kiến thức trong mỗi câu hỏi phải
6


tương đối đồng đều nhau, tránh trường hợp giao cho nhóm này câu hỏi quá dễ
còn nhóm kia thì quá khó.
2.3.3. Cách xếp nhóm:
Vấn đề đặt ra là xếp bao nhiêu học sinh vào một nhóm là vừa ?
- Cần phải suy nghĩ cẩn thận khi chia học sinh thành nhóm. Nếu chia
nhóm không hợp lí thì hoạt động nhóm sẽ thất bại ngay từ đầu vì giáo viên bị
mất khả năng kiểm soát lớp.
- Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy xếp từ 4 đến 6 học sinh vào một nhóm là
hoạt động có hiệu quả nhất và nhanh nhất vì khi giáo viên yêu cầu thảo luận
nhóm thì từng cặp bàn (loại 2 chỗ ngồi = nhóm 4 HS) quay lại với nhau là xong,
ít tốn thời gian di chuyển và không gây mất trật tự. Mặt khác nhóm có ít học
sinh thì càng có ít học sinh “ăn theo” nên mỗi học sinh đều phải hoạt động,

không có học sinh đứng bên ngoài và có ít học sinh thì sự thống nhất ý kiến
càng nhanh, đỡ tốn thời gian.
- Số lượng nhóm ít nhất phải gấp đôi số lượng câu hỏi thảo luận. Nghĩa là
một câu hỏi thì ít nhất phải có hai nhóm cùng thảo luận câu hỏi đó thì mới thực
hiện được khâu quan trọng tiếp theo là nhận xét đánh giá lẫn nhau giữa các
nhóm . Nhóm này có ý kiến thảo luận khác với nhóm bạn, hoặc đề xuất kết quả
hợp lý hơn nhóm bạn thì cuộc thảo luận mới sôi nổi.
2.3.4. Để hoạt động thảo luận nhóm đạt hiệu quả, giáo viên phải thực
hiện đầy đủ các bước sau:
- Cử trưởng nhóm điều khiển thảo luận và thư ký ghi những ý kiến của
các thành viên trong nhóm.
- Phổ biến rõ các câu hỏi thảo luận cho từng nhóm (đã chuẩn bị sẵn trong
bảng xếp hoặc phiếu học tập), giải thích rõ yêu cầu thực hiện cho từng câu hỏi
để học sinh đi đúng hướng và qui định thời gian thảo luận sao cho hợp lí. Tuyệt
đối không phát trước các dụng cụ trình bày (giấy khổ to, bảng phụ, bút viết…)
trước khi hướng dẫn thảo luận vì nếu phát trước học sinh sẽ tiến hành hoạt động
chứ không nghe hướng dẫn.
- Trong thời gian các nhóm thảo luận, giáo viên nhất thiết không được làm
việc khác mà phải thường xuyên đi kiểm tra hoạt động của từng nhóm để nắm
được em nào hoạt động, em nào không và lắng nghe các em trao đổi có đúng
hướng không . Nếu phát hiện có thành viên trong nhóm không tham gia hoạt
động, giáo viên có thể trực tiếp yêu cầu học sinh đó tham gia phát biểu.
-Ví dụ: “ em A, em hãy nêu ý kiến của em cho cả nhóm nghe về vấn đề mà
nhóm em đang thảo luận”. Nếu thấy nhóm nào gặp khó khăn giáo viên không
7


giải đáp thắc mắc ngay, mà chỉ giúp học sinh hướng tư duy hoặc cung cấp các
nguồn dữ liệu , tư liệu cần thiết cho việc làm sáng tỏ vấn đề.
Ví dụ: Để giúp học sinh giải thích tại sao thuỷ chế sông Hoàng Hà và Trường

Giang hoàn toàn khác nhau, giáo viên gợi ý cho học sinh nhớ lại những yếu tố tự
nhiên nào quyết định chế độ nước của một con sông? Nếu học sinh chưa tiếp cận
được vấn đề, giáo vên có thể đưa ra một vài gợi ý tiếp theo. Giáo viên nên dành
sự giúp đỡ cho các nhóm như nhau, không dành thời gian quá nhiều cho một
nhóm hay một cá nhân nào.
- Giáo viên nên có lời nhắc nhở trước khi hết thời gian thảo luận.
Ví dụ : “chúng ta chỉ còn 2 phút, các em thống nhất ý kiến đi”.
- Khi hết thời gian thảo luận, giáo viên yêu cầu một em thay mặt nhóm
trình bày kết quả thảo luận. Tuỳ nội dung câu hỏi, tuỳ điều kiện từng trường, học
sinh có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau ( dùng máy chiếu, bảng phụ,
giấy khổ to…). Khi học sinh các nhóm lên trình bày, giáo viên không nên đưa ra
các câu hỏi chất vấn làm học sinh lúng túng hoặc đưa ra câu trả lời đúng, sai lập
tức mà phải để ngỏ cho cả lớp thảo luận.
- Để tiết kiệm thời gian, mỗi câu hỏi giáo viên có thể chỉ yêu cầu một vài
nhóm trình bày kết quả (nếu các nhóm cùng thảo luận một câu hỏi), các nhóm
không được yêu cầu trình bày kết quả thì có nhiệm vụ nhận xét, bổ sung phần
trình bày của nhóm bạn nhằm đảm bảo tất cả đều có cơ hội đóng góp ý kiến, qua
đó giáo viên cũng đánh giá được kết quả thảo luận của các nhóm này. Khi học
sinh các nhóm khác nhận xét bổ sung, giáo viên phải lắng nghe cẩn thận và ghi
tóm tắt lên bảng những điểm cơ bản của mỗi ý kiến phát biểu để phát hiện
những mâu thuẫn giữa các ý kiến, nếu có ý kiến khác nhau thì kịp thời nêu vấn
đề cho học sinh tiếp tục giải quyết, tuy nhiên không nên để cuộc thảo luận chệch
hướng hoặc kéo dài vì một vấn đề nhỏ.
- Khi các nhóm không còn ý kiến bổ sung, giáo viên phải dành đủ một
khoảng thời gian thích đáng trong giờ giảng để nhận xét các ý kiến của học sinh
và thực hiện một quá trình phản hồi đầy đủ và hoàn chỉnh các thông tin học sinh
cần ghi nhớ mà giáo viên đã chuẩn bị trước trong bảng phụ hay trên máy
chiếu…. Sau đó giáo viên đặt câu hỏi kiểm tra một số em xem các em đã nắm
được vấn đề chưa. Cuối cùng giáo viên cũng nên khuyến khích, động viên học
sinh tiếp tục tham gia phát biểu trong những lần sau bằng cách tỏ thái độ hài

lòng, thích thú, khen ngợi kịp thời những câu trả lời của học sinh, hoặc cho điểm
những học sinh xuất sắc.

8


2.3.5. Biện pháp khuyến khích mọi thành viên trong nhóm tham gia
thảo luận:
- Trong các tài liệu hướng dẫn yêu cầu giáo viên cho mỗi nhóm tự bầu
nhóm trưởng, thư ký. Tuy nhiên qua thực tế áp dụng tôi thấy không hiệu quả
bằng việc giáo viên chỉ định và bồi dưỡng lần lượt từng học sinh trong nhóm
luân phiên theo thứ tự làm nhóm trưởng hoặc thư ký. Làm như vậy để mỗi học
sinh đều có khả năng hướng dẫn thảo luận trong nhóm mình. Kinh nghiệm này
theo chúng tôi là có thể chấp nhận được vì nó giúp cho mọi học sinh đều có điều
kiện để bồi dưỡng cho mình năng lực tổ chức, điều khiển hoạt động học tập và
nâng cao hứng thú tìm tòi, nghiên cứu, tránh được thói quen cả nhóm chỉ trông
chờ, ỷ lại vào một vài thành viên nổi trội trong nhóm mình.
- Đối với những lớp chưa có phong trào và thói quen học tập tốt, giáo viên
cũng không nên để cho nhóm tự cử đại diện báo cáo kết quả thảo luận mà giáo
viên chỉ định bất kì một thành viên trong nhóm (chú ý những học sinh có thái
độ lơ là) đứng lên báo cáo kết quả thảo luận của nhóm và giáo viên có thể đặt
thêm một số câu hỏi phụ yêu cầu học sinh đó lí giải những nội dung vừa trình
bày để kiểm tra xem học sinh đó có tham gia thảo luận không, có hiểu vấn đề
không, qua đó giáo viên có thể cho điểm tuỳ theo mức độ. Có như vậy thì mọi
thành viên trong nhóm mới tập trung tham gia thảo luận, khắc phục được tình
trạng chỉ có nhóm trưởng và thư kí làm việc, còn các học sinh khác (đa số là
những học sinh yếu hoặc lười biếng) cứ ngồi làm việc riêng hoặc có thái độ ỷ
lại, bất hợp tác, chờ đến khi nào giáo viên đưa kết quả chuẩn xác rồi ghi vào vở
mà không hiểu gì cả.
- Để phần nào làm rõ hơn phần trình bày ở trên, tôi xin nêu một vài ví dụ

cụ thể như sau:
* Ví dụ 1 :
Bài 10 (Địa 8): Điều kiện tự nhiên khu vực Nam Á
Sau khi nghiên cứu mục tiêu bài học chúng tôi thấy một trong các kiến
thức và kĩ năng mà học sinh cần đạt đựơc là phải biết sử dụng, phân tích lược đồ
phân bố mưa để thấy được sự ảnh hưởng của địa hình đối với sự phân bố lượng
mưa trong khu vực. Để đạt được mục tiêu đó ở phần 2 (khí hậu) tôi chọn
phương pháp cơ bản là thảo luận nhóm.
- Ở bước chuẩn bị:
Tôi chọn câu hỏi mở đầu là “Bằng kiến thức đã học ở bài 2 hãy nhắc lại
khu vực Nam Á chủ yếu nằm trong đới khí hậu nào ? Có lượng mưa ra sao ?”

9


+ Chọn câu hỏi thảo luận là “Dựa vào lược đồ hình 10.2 hãy nhận xét
và giải thích lượng mưa ở 3 địa điểm : Se-ra-pun-di, Mum-bai, Mun-tan ?
+ Dự kiến thời gian cho hoạt động này là 5 phút.
+ Phương tiện thực hiện là bảng xếp (dành cho giáo viên) và phiếu học
tập in sẵn (dành cho học sinh) có nội dung như sau :
PHIẾU HỌC TẬP
Nhóm :………………
- Địa điểm: …………………………………………………………………….
- Lượng mưa : ………………………………………………………..………
- Giải thích…………………………………………………………..………..
…………………………………………………………..……………………..
…………………………………………………………..……………………..
+Tổ chức nhóm: Do phòng học trường tôi đang dạy có 3 dãy bàn, mỗi dãy
4 bàn nên tôi dự kiến chia làm 6 nhóm, mỗi nhóm 2 bàn (khoảng 4 HS/nhóm).
- Tiến hành hoạt động:

+Giáo viên mở trang đầu bảng phụ có ghi sẵn nội dung câu hỏi mở đầu,
gọi một học sinh trả lời, sau đó giáo viên đặt vấn đề để gây sự chú ý cho học
sinh.
+ Giáo viên mở trang 2 của bảng xếp có ghi sẵn nội dung thảo luận.
+ Giáo viên phân nhóm theo dự kiến, cử nhóm trưởng, thư kí.
+ Giáo viên treo lựơc đồ hình 10.2 phóng to.
+ Giáo viên dựa vào lược đồ giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm (Một
địa điểm có 2 nhóm nhận xét và giải thích).
+Yêu cầu các nhóm ngồi vào vị trí (từng cặp bàn quay lại với nhau).
+ Phát phiếu học tập và công bố thời gian thảo luận.
+ Giáo viên đi quan sát từng nhóm, nhắc nhở học sinh trong nhóm tập
trung thảo luận, nếu nhóm nào không biết giải thích giáo viên gợi ý từng bước
như “ các em hãy quan sát xem địa điểm này chịu ảnh hưởng của hướng gió nào,
nó từ đâu thổi đến, có tính chất ra sao?, so với hướng của địa hình thì như thế
nào?…”, tuỳ tình hình mà giáo viên có gợi ý giúp học sinh tư duy.
+ Còn khoảng 2 phút giáo viên nhắc học sinh thống nhất ý kiến và ghi
vào phiếu học tập.
- Kết thúc hoạt động :
+Yêu cầu học sinh quay lại vị trí ban đầu.
+ Giáo viên gọi học sinh nhóm một báo cáo kết quả thảo luận của nhóm
mình ở địa điểm thứ nhất và gọi nhóm hai cùng thảo luận ở địa điểm thứ nhất có
10


ý kiến nhận xét bổ sung (hoặc ngược lại), giáo viên yêu cầu cả lớp có thêm ý
kiến nếu thấy còn chưa đủ. Các ý kiến bổ sung giáo viên ghi tóm tắt nhanh lên
bảng . Khi không còn ý kiến, giáo viên dựa vào lược đồ để chuẩn xác kiến thức,
sau đó giáo viên liên hệ lại những ý kiến học sinh vừa phát biểu để đánh giá kết
quả thảo luận, khen ngợi những ý kiến đúng.
+Tương tự như vậy, giáo viên- học sinh cùng phân tích, giải thích hai địa

điểm còn lại.
+ Cuối cùng để kiểm tra mức độ nhận thức cũng như khả năng khái quát
vấn đề, giáo viên đặt thêm hai câu hỏi và chỉ định bất kỳ học sinh nào để trả lời :
- Em hãy rút ra kết luận về sự phân bố lượng mưa ở Nam Á ?
- Nguyên nhân của sự phân bố đó ?
Nếu học sinh trả lời được hai câu hỏi trên coi như đã đạt yêu cầu .
* Ví dụ 2 :
Bài 22 (Địa lí 6 ): Các đới khí hậu trên Trái Đất
Khi thiết kế bài này tôi xác định trọng tâm là mục 2: Sự phân chia bề mặt Trái
đất ra các đới khí hậu theo vĩ độ.
Ở mục này cần phải đại được hai mục tiêu:
- Kiến thức: Học sinh trình bày được vị trí của các đai nhiệt, các đới khí
hậu và đặc điểm của các đới khí hậu theo vĩ độ trên bề mặt Trái Đất .
- Kĩ năng: Biết xác lập mối quan hệ nhân quả giữa góc chiếu sáng, thời
gian chiếu sáng của Mặt Trời với nhiệt độ của không khí .
Để đạt hai mục tiêu trên, tôi chọn phương pháp thảo luận theo nhóm .
- Ở bước chuẩn bị :
+ Tôi thiết kế hai phiếu học tập phục vụ cho hai hoạt động nhóm:
-> Phiếu học tập số 1: Thiết kế dạng bảng tổng hợp để học sinh dựa vào đó
làm rõ các đặc điểm của từng đới khí hậu trình bày trong sách giáo khoa
-> Phiếu học tập số 2: Thiết kế dạng sơ đồ trống để học sinh củng cố kiến
thức và hình thành mối quan hệ nhân quả giữa góc chiếu sáng, thời gian chiếu
sáng của Mặt Trời với nhiệt độ của không khí.
PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1
Nhóm:……………
Góc chiếu
Gió thổi Lượng mưa
Vị trí
Đới
của ánh sáng Nhiệt độ

thường
trung bình
( vĩ độ )
Mặt Trời
xuyên
năm (mm)
.............

............

...............

............

...............

..............

11


PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2
Nhóm :………………
(Hoàn thành sơ đồ sau bằng cách điền vào chỗ chấm và đánh mũi tên cho phù
hợp).

Đới
……
……



Góc chiếu sáng:
…………………
……………
Thời gian chiếu
sáng:
…………………
…………………

Nhiệt lượng
hấp thụ:……
……………
…………….

Nhiệt độ
không khí :
…………
…………

+ Phương thức thực hiện là tổ chức hai hoạt động nhóm nối tiếp nhau.
+ Dự kiến thời gian thích hợp cho từng hoạt động: hoạt động 1 là 5 phút,
hoạt động 2 là 4 phút.
+ Chuẩn bị phương tiện thực hiện gồm: bảng xếp, hai phiếu học tập (mỗi
phiếu 6 bản), bút dạ, hình 58 SGK phóng to, quả Địa Cầu.
+ Tổ chức nhóm: do đặc thù phòng học tôi chia 6 nhóm, mỗi nhóm 2 bàn
-Tiến hành hoạt động 1: (hoàn thành phiếu học tập số 1).
+ Giáo viên treo hình 58 phóng to và đặt vấn đề.
+ Giáo viên trình chiếu mẫu phiếu học tập số 1 và hướng dẫn học sinh
thu thập thông tin từ hình 58 và kênh chữ (mục 2) SGK điền vào các ô trống của
phiếu học tập .

+ Giáo viên phân nhóm theo dự kiến, cử nhóm trưởng, thư kí.
+ Giáo viên giao nhiệm vụ cho từng nhóm ( nhóm 1+2 tìm hiểu đới nóng,
nhóm 3,4 tìm hiểu đới ôn hoà, nhóm 5,6 tìm hiểu đới lạnh ).
+ Yêu cầu các nhóm ngồi vào vị trí ( từng cặp bàn quay lại với nhau )
+ Phát phiếu học tập, bút, qui định thời gian hoàn thành phiếu 1 .
+ Giáo viên đi quan sát hoạt động của từng nhóm để có uốn nắn kịp thời
+ Nhắc sắp hết thời gian.
-Kết thúc hoạt động 1:
+ Giáo viên gọi học sinh quay về vị trí ban đầu.
+ Giáo viên yêu cầu nhóm 1 trình bày kết quả thảo luận (kết hợp chỉ trên
lược đồ 58 phóng to), nhóm 2 nhận xét, bổ sung (hoặc ngược lại) và gọi các
12


nhóm khác nhận xét thêm, những ý kiến mới được giáo viên ghi tóm tắt trên
bảng .
+ Đến đây học sinh mới dừng lại ở mức độ nhận biết và thu thập các
thông tin từ sách giáo khoa mà chưa hiểu rõ vấn đề nên giáo viên phải dùng quả
địa cầu, hình 58 kết hợp với câu hỏi phát vấn để giúp học sinh giải thích lần lượt
từng đặc điểm của đới nóng như : Vì sao ở đới nóng có góc chiếu của mặt trời
lớn ? vì sao có lượng mưa trung bình năm ở đới nóng lớn hơn các đới khác ?
……
+ Tiếp theo giáo viên mở trang đầu của bảng xếp đã có ghi sẵn nội dung
chuẩn xác cần ghi nhớ những đặc điểm của đới nóng hoặc nội dung ghi sẵn trên
máy chiếu, đồng thời đối chiếu với kết quả thu thập được của học sinh để nhận
xét về kết quả thảo luận của nhóm 1 và 2, khen ngợi những ý kiến bổ sung
đúng.
+ Tương tự như vậy lần lượt tìm hiểu đới ôn hoà và đới lạnh.
Để rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức, giáo viên tiếp tục hoạt động 2 .
-Tiến hành hoạt động 2 :

+Giáo viên tiếp tục duy trì nhóm như hoạt động 1 nhưng thay đổi nhóm
trưởng và thư kí.
+ Giáo viên trình chiếu mẫu phiếu học tập số 2 và hướng dẫn học sinh
thảo luận tìm nội dung thích hợp điền vào chỗ trống trong các ô, đồng thời vẽ
mũi tên chỉ mối quan hệ giữa các ô đó.
+ Giao cho nhóm 1+2 thiết lập sơ đồ thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa
góc chiếu sáng, thời gian chiếu sáng của Mặt Trời với nhiệt độ không khí ở đới
nóng, nhóm 3+4 : đới ôn hoà, nhóm 5+6 đới lạnh.
+ Tiến trình tiếp theo như ở hoạt động 1.
-Kết thúc hoạt động 2:
+ Giáo viên yêu cầu học sinh quay về vị trí cũ.
+ Phần báo cáo và ý kiến bổ sung của học sinh được tiến hành như hoạt
động1
+ Sau khi các nhóm trình bày xong và học sinh không còn ý kiến, giáo
viên lần lượt mở 3 sơ đồ đã hoàn chỉnh trong bảng xếp và đối chiếu lại với
sơ đồ của từng nhóm để nhận xét .
Nếu cả 6 nhóm đều thực hiện đúng các sơ đồ như phân công thì coi như hoạt
động nhóm đã có hiệu quả .
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

13


Những biện pháp trên giúp cho những lần tổ chức thảo luận nhóm có hiệu
quả rõ rệt:
- Cuộc thảo luận diễn ra nhanh gọn, đúng theo thời gian dự kiến.
- Tất cả thành viên trong nhóm đều tích cực tham gia thảo luận và mạnh
dạn tranh luận với các nhóm khác.
- Các thành viên trong nhóm đều có khả năng điều khiển nhóm thảo luận
hoặc tổng hợp ý kiến thảo luận của nhóm với vai trò là nhóm trưởng hay thư kí.

- Đặc biệt là khả năng tư duy của học sinh tiến bộ rõ rệt. Các em không
còn thói quen chép lại toàn bộ những nội dung trong sách, vở có liên quan đến
câu hỏi vào bài kiểm tra, mặc dù đó là câu hỏi đòi hỏi học sinh phải tư duy
( phân tích, giải thích, so sánh…) .
Những hiệu quả nói trên phần nào được minh chứng qua bảng thống kê sau :
Năm học

Khối

Số bài
dạy

Số bài có HĐ
nhóm

Số lần
Số lần HĐ
HĐ nhóm nhóm có hiệu quả

6
27
10 (37% )
12(44%)
4 (33 % )
8
44
21 (48%)
25(57%)
21 (84%)
6

27
17 (63%)
19(70%)
11(58 %)
2015 - 2016
8
44
31 (70%)
36(82%)
33 (92%)
Từ những giải pháp, việc làm cụ thể và kết quả nêu trên, bản thân tôi rút
ra được kinh nghiệm bước đầu về hoạt động thảo luận nhóm như sau:
1/ Ở bước chuẩn bị:
- Phải nắm vững qui trình hoạt động nhóm.
- Phải xác định rõ mục tiêu hoạt động trong bài giảng.
- Phải lựa chọn chủ đề thảo luận cho phù hợp mục tiêu bài học và đối
tượng học sinh.
- Phải dự kiến khá chính xác thời gian hoạt động.
- Thầy và trò phải chuẩn bị đủ điều kiện, phương tiện, thiết bị phục vụ cho
hoạt động.
- Phải cho học sinh nắm được những nhiệm vụ cụ thể khi làm việc trong
nhóm và thấy được lợi ích của nó để học sinh có hứng thú tham gia hoạt động.
2/ Trong quá trình hoạt động:
- Phải tạo không khí lớp học thoải mái, sinh động.
- Khuyến khích những học sinh kém tự tin phát biểu.
- Hỗ trợ cho những học sinh kém khả năng diễn đạt có thể diễn đạt được ý
kiến của mình.
2014 - 2015

14



- Định hướng cho học sinh thảo luận đúng hướng, làm sáng tỏ những
điểm học sinh có thể hiểu sai vấn đề.
- Quan sát các nhóm để nhận biết tình hình thảo luận mà kịp thời uốn nắn
- Định lại trọng tâm, đặt câu hỏi gợi ý khi học sinh bị lúng túng.
- Tôn trọng tất cả các ý kiến, quan điểm, khuyến khích học sinh suy nghĩ
và phát biểu, khen ngợi những nỗ lực của học sinh.
3/ Cuối hoạt động:
- Tóm tắt phần thảo luận.
- Đưa ra kết luận đúng.
- Nhấn mạnh trọng tâm vấn đề.
- Liên hệ trở lại kết quả thảo luận của học sinh để đánh giá khả năng nhận
thức của học sinh.
- Kiểm tra lần cuối xem cả lớp hiểu vấn đề chưa.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Từ lí luận vận dụng vào thực tiễn đã cho thấy tổ chức một hoạt động thảo
luận nhóm có hiệu quả sẽ đem lại hiệu quả rất lớn cho một tiết dạy. Tuy nhiên để
tạo một hoạt động nhóm có kết quả như mong muốn là một việc làm tương đối
khó, lí do khách quan cũng có, chủ quan cũng có nhưng tôi nghĩ rằng ai cũng
làm được với điều kiện là giáo viên phải có nhận thức đúng đắn, phải dành
nhiều thời gian đầu tư suy nghĩ, lập kế hoạch cụ thể, chuẩn bị chu đáo và phải
mạnh dạn thực hành.
Tóm lại: Muốn nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm giáo viên phải dốc hết
nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp, phải tìm ra những giải pháp tốt nhất phù
hợp với điều kiện thực tế giảng dạy ở cơ sở, phải tạo cho học sinh có nề nếp,
thói quen làm việc theo nhóm .
Thầy tổ chức hoạt động tốt, trò học tốt, chắc chắn là hiệu quả của một hoạt
động thảo luận theo nhóm sẽ đạt được hiệu quả cao.

Hoạt động thảo luận nhóm được xem như là một trong những phương pháp
dạy học có hiệu quả trong việc phát huy tích tính cực, chủ động của học sinh,
rèn luyện cho các em ý thức hoạt động tập thể và khả năng hợp tác trong công
việc. Do đó phương pháp này đang được nhiều giáo viên vận dụng vào trong
quá trình giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Những gì
mà tôi tích luỹ được và trình bày trên đây cũng chỉ là kinh nghiệm bước đầu.

15


Trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục hoàn thiện thêm và rất mong được sự góp ý
của đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị
- Phòng Giáo dục và Đào tạo cần mở các lớp chuyên đề bồi dưỡng thường
xuyên cho giáo viên về các phương pháp giảng dạy để giáo viên học tập, nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Nhà trường cần mua thêm tài liệu tham khảo cho giáo viên và trang bị
thêm máy chiếu đa năng ở các phòng học để thuận lợi cho quá trình giảng dạy,
học tập của giáo viên và học sinh.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Ngày 05 tháng 4 năm 2016
Người thực hiện

16



×