Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Nâng cao chất lượng quản lý Nhà nước về hoạt động của Phật giáo tại tỉnh Thanh Hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 86 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Các thông tin
và số liệu sử dụng trong khóa luận là trung thực. Các luận điểm, dữ liệu được trích
dẫn đầy đủ nguồn tác giả, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính
bản thân em.
Hà Nội, ngày 22 tháng 4 năm 2017
Tác giả khóa luận

Vi Thị Luyến


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin được gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, Quý Thầy cô giáo trong Khoa Hành chính học nói
riêng, Thầy cô các Khoa chuyên môn nói chung đã nhiệt tình giảng dạy, tâm huyết
trong quá trình truyền đạt kiến thức và chia sẻ kinh nghiệm thực tế quý báu. Kiến
thức tiếp thu được cùng những trải nghiệm thực tế từ Quý Thầy cô chia sẻ không
chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quý báu để
em bước vào đời tự tin và chắc chắn.
Xin cảm ơn và bày tỏ sự kính trọng tới Cô giáo TS. Lê Thị Vân Anh - Giảng
viên Khoa Khoa học Chính trị đã tận tình, chu đáo hướng dẫn em thực hiện khóa
luận này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn Ban Tôn giáo tỉnh Thanh Hóa, Ban Trị
sự Phật giáo tỉnh Thanh Hóa đã giúp đỡ em trong quá trình tìm kiếm tài liệu thành
công phục vụ cho đề tài. Xin được biết ơn gia đình và bạn bè đã động viên, khích lệ,
ủng hộ tinh thần và vật chất cho em trong suốt bốn năm vừa qua để e, có thể hoàn
thành tốt sự nghiệp học tập và rèn luyện của mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, tiếp cận với thực
tế cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những
thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Rất mong nhận được sự góp ý của


Quý Thầy, cô giáo và các bạn độc giả để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 4 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Vi Thị Luyến


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BTS
BTSPG
CHDCND
CHXHCNVN
CLBTTNPT
GHPG
GHPGVN
HĐND
MTTQVN
NXB
PGVN
QLNN
UBND

Ban Trị sự

Ban Trị sự Phật giáo
Cộng hòa Dân chủ nhân dân
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Câu lạc bộ Thanh thiếu niên Phật tử
Giáo hội Phật giáo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Hội đồng Nhân dân
Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Nhà xuất bản
Phật giáo Việt Nam
Quản lý nhà nước
Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta là một quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo cùng tồn tại và chung
sống bên nhau một cách hoà bình, hữu hảo, cùng với tín ngưỡng dân gian đã tạo
nên những nét văn hoá rất riêng của người Việt. Hoạt động tôn giáo ở nước ta
hiện nay, có lúc, có nơi còn bị lợi dụng để hoạt động chính trị. Bởi vậy, không
một quốc gia nào không đặt ra vấn đề phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về hoạt động tôn giáo. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là
vấn đề chiến lược có ý nghĩa quan trọng. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay tôn giáo đang là vấn đề lớn liên quan đến chính sách đối nội, đối
ngoại của Đảng và Nhà nước thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành, của
cả hệ thống chính trị.
Nếu Nho giáo vào Việt Nam đi liền với sự thống trị, cưỡng bức của Phong
kiến phương Bắc, thì Phật giáo vào Việt Nam bằng con đường hòa bình ( đường
thủy), do nhà sư người Ấn Độ là Mahajivaka (Ma Ha Kỳ Vực) truyền bá đạo
Phật vào Việt Nam năm 188 trước Công Nguyên. Có nhiều bằng chứng cho thấy

Phật giáo du nhập vào Việt Nam tại thời điểm trước sau công lịch xê dịch một,
hai thế kỉ. Đây cũng là lúc mà văn minh Trung Hoa phát huy ảnh hưởng tại các
quốc gia lân cận theo cách thức vừa cưỡng bức vừa tự giác. Vì vậy, tuy có thể
được coi là xứ sở tiếp nhận Phật giáo sớm hơn, là nguồn cung cấp tu sĩ và kinh
sách đầu tiên cho Trung Quốc, nhưng Việt Nam lại chịu một sự truyền giáo
ngược khi các văn bản kinh sách bằng chữ Hánđược truyền vào từ Trung Hoa.
Việt Nam, cũng như các nước lân bang, khó tránh khỏi ảnh hưởng về văn hóa và
truyền thống tôn giáo đó.
Thanh Hóa là tỉnh có khá đông đồng bào theo đạo Phật và hiện nay, thực
hiện chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của
Nhà nước, hoạt động của Phật giáo ở Thanh Hóa có những thay đổi mạnh mẽ về
phương thức hoạt động, cả về số lượng tín đồ và chức sắc, chức việc tôn giáo, tập
trung sửa chữa nâng cấp các cơ sở tôn giáo. Tình hình QLNN về hoạt động của Phật
giáo ở tỉnh Thanh Hóa trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả, góp phần

5


quan trọng trong việc ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.
Tuy nhiên, trên lĩnh vực quản lý này vẫn còn những hạn chế nhất định. Chẳng hạn,
một số cấp uỷ, chính quyền địa phương có thái độ chủ quan, nóng vội trong giải
quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo; Có nơi lại hữu khuynh, thụ động, buông
lỏng quản lý, đơn giản trong việc giải quyết, không kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tôn giáo… Từ những lý do nêu trên tác giả chọn đề tài “Nâng cao
chất lượng quản lý Nhà nước về hoạt động của Phật giáo tại tỉnh Thanh Hóa
hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Công tác quản lý nhà nước đối với Phật giáo trên cả nước nói chung và hoạt
động Phật giáo tại tỉnh Thanh Hóa nói riêng, trong tình hình diễn biến phức tạp như
hiện nay là hết sức cần thiết được quan tâm đặc biệt hơn nữa. Một số công trình

nghiên cứu về Phật giáo tiêu biểu như:
Ban Nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa (1984),“Lịch sử Thanh Hóa” tập 2, Nxb
VHTT;
Ban nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa (2000),“Địa chí Thanh Hóa” tập 1, Nxb
VHTT;
Ban Tôn giáo tỉnh Thanh Hóa (2012),“ Đề án kiện toàn, củng cố bộ máy tổ chức,
cán bộ làm công tác tôn giáo cấp huyện, xã ở Thanh Hóa”;
Bùi Hữu Dược (2009),“Quan hệ nhà nước CHXHCNVN với Phật giáo trong
tương quan chung quan hệ nhà nước với tôn giáo hiện nay”;
Nguyễn Thị Duyên (2012),“Phật giáo ở Thanh Hóa và ảnh hưởng của nó
đến đời sống tinh thần nhân dân tỉnh hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ;
Nguyễn Khắc Đức,“Vai trò của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay;
Nguyễn Thị Hường (2013), “Vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của
người dân Thanh Hóa từ năm 1984 đến nay”, Luận văn Thạc sĩ;
Trần Hồng Liên “Chức năng của Phật giáo đối với vấn đề văn hóa”;
Lê Văn Nhuần (2004),“Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa – Thực trạng và giải pháp”;
Tỉnh hội Phật giáo Thanh Hóa (2009),“Chùa xứ Thanh” tập 1, Nxb Thanh Hóa;

6


Tỉnh hội Phật giáo Thanh Hóa (2010),“Chùa xứ Thanh” tập 2, Nxb Thanh Hóa;
Vương Quốc Tuấn (2006),“Vấn đề thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh
Thanh Hóa”.
Ngoài ra còn có rất nhiều công trình, các bài viết khác gián tiếp nội dung bàn
về Phật giáo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng, Việt Nam nói chung trên các tạp
chí Phật học, nghiên cứu tôn giáo và một số tạp chí khác. Điểm qua tình hình
nghiên cứu như trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội là lĩnh vực

thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu tiếp
cận vấn đề dưới nhiều quan điểm và góc độ khác nhau.
Thứ hai, có một số công trình nghiên cứu chuyên biệt về các phương diện khác
nhau của Phật giáo, trong đó, một số công trình đã có sự phân tích sâu sắc về những
ảnh hưởng của một số giá trị Phật giáo đến các phương diện khác nhau trong lối sống
của người Việt Nam.
Tuy nhiên, theo chúng tôi thì chưa có công trình nào bàn về công tác quản lý
nhà nước về hoạt động của Phật giáo ở tỉnh Thanh Hóa một cách có hệ thống. Vì vậy
nghiên cứu Phật giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo ở
tỉnh Thanh Hóa đến nay vẫn đang bỏ ngỏ. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa thành quả
nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, khóa luận bước đầu tập trung vào việc hệ
thống hóa những kết quả đạt được và hạn chế tồn tại trong công tác quản lý nhà nước
về hoạt động của Phật giáo ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay và đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về các hoạt động này.
Quá trình tìm kiếm tài liệu còn chưa thật đầy đủ và không tránh khỏi
những thiếu sót nên chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô giáo và
độc giả để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo; Khảo sát đánh giá đặc điểm, thực trạng hoạt động của đạo Phật trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa; Đánh giá thực trạng công tác QLNN đối với hoạt động của

7


Phật giáo trên địa bàn tỉnh; Từ đó đề ra phương hướng, giải pháp và các kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động của Phật giáo
trên địa bàn tỉnh theo các quy định của pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Một là, khái quát thực trạng quá trình QLNN đối với hoạt động của Phật
giáo; Những kết quả đạt được và hạn chế cần khắc phục.
Hai là, khái quát tình hình kinh tế xã hội của tỉnh; Đặc điểm hoạt động của
Phật giáo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Ba là, đề xuất một số giải pháp và phương hướng nhằm nâng cao chất lượng
trong công tác QLNN đối với hoạt động của Phật giáo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Khóa luận tập trung nghiên cứu về Công tác Quản lý nhà nước đối với các
hoạt động của Phật giáo tại tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Giai đoạn 2012 – 2017.
Về không gian: Khóa luận tập trung giới hạn nghiên cứu về hoạt động của Phật
giáo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Khóa luận được tiến hành trên cơ sở vận dụng
những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, dựa trên cơ sở vận dụng tổng hợp về lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về vấn đề QLNN tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể : Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, gắn lý luận với thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Đánh giá thực trạng công tác QLNN về hoạt động của Phật giáo tại tỉnh Thanh
Hóa. Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ trương, biện pháp, đề
xuất một số phương hướng nhằm nâng cao chất lượng QLNN về hoạt động của Phật

8



giáo trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương 1. Vấn đề lý luận về Phật giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt
động của Phật giáo.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về hoạt động của Phật giáo
ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
Chương 3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về hoạt
động Phật giáo ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.

9


Chng 1
VN Lí LUN V PHT GIO V QUN Lí NH NC
I VI HOT NG CA PHT GIO VIT NAM
1.1. Khỏi quỏt v Pht giỏo Vit Nam
1.1.1. Hon cnh ra i ca Pht giỏo
Pht giỏo l mt trong nhng tụn giỏo hng u th gii v s lng cỏc
Pht t v n l quờ hng ca Pht giỏo. Mc dự ch yu l tụn giỏo ca
phng ụng tuy vy Pht giỏo cng ngy cng tr nờn ph bin v cú tm nh
hng trong th gii phng Tõy.
Theo cỏc ti liu lch s thỡ xó hi n chia thnh nhiu ng cp khỏc
nhau. Bn ng cp ln l Tng l, Quý tc, Bỡnh dõn t do v Tin nụ. Mi
giai cp gi mt th sinh hot riờng v phõn bit sõu sc gia cỏc giai cp kip
ngi. Trong khi nhng ngi B La mụn cú uy tớn tuyt i trong trong ỏm
qun chỳng v hng rt nhiu c quyn thỡ giai cp Tin nụ li sng cuc sng
c cc lm than, khụng cú quyn n núi cng nh úng gúp ngang hng vi mi
ngi. Xó hi n thi c i l y ry bt cụng nh vy.

Đạo Phật mang tên ngời sáng lập là Đà ( hay Buddha ). Đạo
phật chính là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời
ở ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trớc Công nguyên,
đạo Phật đợc lu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực á Phi, gần đây đợc truyền tới các nớc Âu - Mỹ. Trong quá trình
truyền bá của minh, đạo Phật đã kết hợp với tín ng ỡng, tập tục,
dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều tông phái
và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội
và văn hoá của rất nhiều quốc gia.
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa ( Siddharta), con
trai của Tịnh Phạn Vơng ( Suđhodana) vua nớc Tịnh Phạn, một
nớc nhỏ thuộc Bắc ấn Độ ( nay thuộc đất Nê Pan ) ông sinh ra
vào khoảng năm 623 trớc công nguyên.
T tởng triết lý Phật giáo đợc tập trung trong một khối lợng

10


kinh điển rất lớn, đợc tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam
tạng gồm: Tạng Luận (Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo
qui định cho cả năm bộ phái Phật giáo); Tạng kinh (Trong thời kỳ
đầu tạng kinh gồm nhiều tập dới dạng các tiền đề, mỗi tập đợc
gọi là một Ahàm); Tạng luận (Gồm những bài bình chú, giải
thích về giáo pháp của Phật giáo).
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thờng
của vạn vật, đã xây dựng nền thuyết Nhân Duyên. Trong
thuyết Nhân Duyên có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và
Duyên:
Nhân: lcái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều
kết quả nào đó.
Quả: là cái gì tập lại từ Nhân.

Duyên: là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả.
Duyên không phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là
sự tơng hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của vạn
Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái
nhân của cây lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại
phải nhờ có điều kiện và những mối liên hệ thích hợp nh đất, nớc,
không khí, ánh sáng. Những yếu tố đó chính là Duyên.
Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong
không gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên
toàn bộ thế giới không tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự
giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ đợc tạo thành trong mối
quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó.
Cũng nh nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả
trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt.
Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt.

11


Đạo Phật chủ chơng tìm con đờng diệt khổ. Con đờng
giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận thức đợc nó mà cao
hơn ta phải hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế. Tứ diệu
đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng
sinh phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:

Khổ

đế: Con ngời và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu
là khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ,

yêu nhau mà phải chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà đợc
cũng là khổ; Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Đó là
do con ngời có lòng tham, dâm (giận dữ ), si ( si mê, cuồng mê,
mê muội) và dục vọng; Diệt đế: Là phải thấu hiểu đợc Thập
nhị nhân duyên để tìm ra đợc căn nguyên của sự khổ - để
dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ; Đạo đế: Là con ngời
ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ trong thế giới nội
tâm ( thực nghiệm tâm linh ). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là thực
hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi
phận là đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã.
Tóm lại, Phật giáo không chủ trơng giải phóng bằng cách
mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ ng ời
bóc lột ngời, chống lại chủ nghĩa duy tâm ca Bà La môn giáo.
Đó là một trong những nhợc điểm đồng thời cũng là u điểm
nửa vời của Đạo phật. Đứng trớc bể khổ của chúng sinh Phật giáo
chủ trơng cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện
thực. Nh vậy Phật giáo nguyên thuỷ có t tởng vô thần, phủ nhận
đấng sáng tạo (vô ngã, vô tạo giả) và có t tởng biện chứng (vô
thờng, lý thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng
thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo
giả và do cái tâm vô minh của con ngời tạo ra.
Qua bao thng trm ca lch s, mói n ngy nay, Pht giỏo ó khụng

12


nhng vn tn ti m cũn c lan truyn khp th gii v c nhiu tng lp
ngi tụn kớnh, lu tõm tỡm hiu. c nh th, ngoi nhõn cỏch ca c Pht
cũn nh giỏo lý, giỏo lut, l nghi ca Pht giỏo.
1.1.2. S phỏt trin ca Pht giỏo

Trớc khi Thích ca Mâu Ni tạ thế, các khu vực truyền bá Đạo Phật
chủ yếu ở miền Trung lu vực Sông Hằng, đặc biệt xung quanh các
khu vực thành phố lớn mới nổi lên. Sau khi ngài tạ thế, các thế kỷ
trực tuyến của ngài đã đem Đạo Phật mở rộng đến hạ lu sông Hằng
về phía Đông, phía Nam đến bờ sống Caođaveri, phía Tây đến
bờ biển Arập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro. thời kỳ thống trị của
vua Asôca thuộc Vơng triều Maurya, Đạo phật bắt đầu phát triển tới
các cùng biển của thứ Đại lục, Đông tới Miama, Nam tới Xrilanca, Tây tới
XyRi, Ai Cập .... Nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế giới.
Sau khi vơng triều Casan (Kushan) hng khởi lại truyền tới Iran, các
nơi ở trung tâm Châu á, rồi qua con đờng tơ lụa truyền vào Trung
Quốc.
Sau khi Tt-t-a C-m qua i thỡ Pht giỏo bt u phõn húa ra
thnh nhiu nhỏnh v nhiu h t tng, vi nhiu s khỏc bit so vi ban u.
Nhỏnh Pht giỏo nguyờn thy (hay Pht giỏo Nam tụng, Theravada, thng b
cỏc nh i tha gi l "Tiu tha") v nhỏnh Phỏt trin (hay i tha,
Mahayana, Pht giỏo Bc tụng). o Pht nguyờn thy phỏt trin mnh
SriLanka v ụng Nam (Thỏi Lan, Lo, Campuchia, Myanmar.) o Pht
i tha phỏt trin ụng (Trung Quc, Hn Quc, Nht Bn, Vit
Nam, Singapore) v bao gm nhiu phõn nhỏnh nh hn nh Tnh
tụng, Thin tụng, Pht giỏo Tõy Tng, Chõn Ngụn tụng, Thiờn Thai tụng. Ngoi
ra, theo mt s cỏch phõn loi, nhỏnh th 3 l Mt tụng (Vajrayana), phỏt trin
Tõy Tng v Mụng C, nhng, theo mt s phõn loi khỏc thỡ Mt tụng c
xp vo i tha.
Mc dự phỏt trin ch yu chõu , nhng hin nay o Pht c tỡm thy
khp th gii. c tớnh s ngi theo o Pht vo khong 350 triu n 1,6 t

13



ngi. Cỏc trng phỏi Pht giỏo khỏc nhau quan im v bn cht ca con
ng a n gii thoỏt, tớnh chớnh thng ca cỏc bi ging o v kinh in, c
bit l phng thc tu tp.
Mấy năm gần đây ở một số nớc nh: Italya, Thuỵ Sỹ, Thuỵ
Điển, Tiệp .... Việc nghiên cứu Đạo Phật cũng rất sôi nổi, đã xây
dựng nên không ít cơ sở nghiên cứu Phật giáo và trung tâm
nghiên cứu Phật học. Ví dụ Sở nghiên cứu Trung Đông, Viễn Đông
Italia, dới sự chủ trì của Đỗ Kỳ đã biên tập và xuất bản T sách
La mã với Đông Phơng ( Đến năm 1977 đã xuất bản đợc 51 loại )
trong đó bao gồm rất nhiều trớc tác phẩm Phật giáo. Nhng ở
trong các quốc gia này số tín đồ không nhiều lắm chỉ chiếm
số ít phần trăm trong tổng số dân.
Trớc đây Phật giáo đợc coi là một trong ba tôn giáo lớn của
thế giới, nhng trong những năm gần đây do sự suy yếu của
một số quốc gia, số tín đồ Phật giáo đã gim xuống đứng sau
Đạo Cơ Đốc, Đạo Ixlam và Đạo ấn Độ, chiếm vị trí thứ t. Căn cứ
thống kê của Bách khoa toàn th Cơ Đốc giáo thế giới xuất bản
ở Oxford năm 1982, toàn thế giới hiện có 295.570.780 tín đồ
Phật giáo. Con số này so với năm 1972 đã tăng lên 50.000 ngời
( năm 1972 có 244.800.300 ngời ). Tín đồ Phật giáo phát triển
so với tổng số dân trên toàn thế giới là rất nhỏ bé.Trên thực tế
hiện nay số lợng tín đồ Phật giáo trên thế giới đã tăng lên rất
nhiều, ớc chừng khoảng trên 50 triệu ngời. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, Phật giáo ở các nơi trên thế giới đã trải qua những
biến đổi khác nhau, đã xuất hiện một số đặc điểm mới.
Pht giỏo rt khỏc vi cỏc tụn giỏo khỏc.Vớ d, tõm im ca hu ht cỏc tụn
giỏo l Thng , hoc ng ton nng, th nhng Pht giỏo l Vụ thn. c Pht
dy tin vo Thng khụng mang li li ớch trong vic nhn thc chõn lý giỏc ng.
Hu ht cỏc tụn giỏo ly nim tin lm nn tng cn bn. Nhng trong Pht
giỏo nim tin v mt ch thuyt no ú nm ngoi tm nhn thc thỡ khụng


14


thể chấp nhận. Đức Phật cho rằng, chúng ta không nên đặt niềm tin vào bất cứ
một học thuyết nào dù học thuyết đó chúng ta được đọc nó trong kinh điển,
hoặc được dạy bởi một vị thầy nào.
1.2. Phật giáo ở Việt Nam
1.2.1. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Việt Nam cũng đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, với ngoại bang và
nội chiến, với hệ quả tất yếu là hầu hết các công trình kiến trúc đặc sắc nói
chung, và Phật giáo nói riêng, bị huỷ hoại phần lớn. Chưa kể ngay cả trong thời
bình các phù điêu tượng khắc hay nghệ thuật cổ Phật giáo Việt Nam cũng đã bị
thất thoát ra nước ngoài. Hiện tại các vùng còn lại những di chỉ quan trọng là:
Bắc Ninh với trung tâm Phật giáo Luy Lâu (hay Liên Lâu). Đây là trung tâm
Phật giáo lớn của quận Giao Chỉ vào thế kỉ thứ 1. Còn sót lại tại đây có: Chùa Dâu,
Chùa Bút Tháp, Chùa Phật Tích; Tại Ninh Bình: Chùa Nhất Trụ, Chùa Bái Đính, chùa
Tháp, chùa Am Tiên…; Hà Nội có các di chỉ Phật giáo còn lại đáng kể là: Chùa Trấn
Quốc, Chùa Báo Ân, Chùa Một Cột, Chùa Đậu, Chùa Thầy..; tỉnh Quảng Ninh:
chùa Yên tử, Quỳnh Lâm, Long Động, Giải Oan, Bảo Sái, Một Mái và chùa Đồng..
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần,
Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn
đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật
giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang Trung cố gắng chấn
hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều
kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo
Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp
quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
Phật giáo vào Việt Nam trong sự hòa hợp với cuộc sống, tập quán, tín
ngưỡng và các tôn giáo khác, tạo ra xu hướng “ Tam giáo đồng nguyên” nên có

những giai đoạn phát triển thịnh vượng, đồng thời có cả thời kỳ suy thoái. Tổ
chức PGVN trong những thập kỷ gần đây hoạt động chịu ảnh hưởng của những
biến động chính trị qua các thời kỳ..
Sau năm 1975, đất nước thống nhất. Các vị giáo phẩm đại diện cho các hệ

15


phái Phật giáo đã họp tại Thành phố Hồ Chí Minh (1980) để xem xét tình hình
Phật giáo cả nước và thấy rằng: đất nước hòa bình thống nhất là thời cơ thuận lợi
cho việc thực hiện nguyện vọng thống nhất Phật giáo từ phong trào chấn hưng
Phật giáo đầu thế kỷ và đã quyết định thành lập một Ban vận động thống nhất
Phật giáo để xúc tiến cuộc vận động trong phạm vi cả nước. Sau gần 2 năm vận
động, ngày 4/11/1981 Đại hội thống nhất Phật giáo đã diễn ra tại chùa Quán Sứ Hà Nội.
Đại hội đã thành lập ra tổ chức chung của Phật giáo cả nước, lấy tên là
“Giáo hội Phật giáo Việt Nam” và thông qua Hiến chương (Điều lệ hoạt động)
của Giáo hội. Hiến chương được Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) phê
duyệt tại quyết định số 83/BT ngày 29/12/1981. Theo Quyết định này, kể từ ngày
19/12/1981, Phật giáo Việt Nam trong cả nước có một tổ chức chung là “Giáo
hội Phật giáo Việt Nam”. GHPGVN có hệ thống trường lớp đào tạo từ cấp cơ
bản đến Đại học Phật giáo, Học viện Phật giáo, có Viện nghiên cứu Phật học; ở
các tỉnh, thành phố có Tăng ni, Phật tử đều thành lập Ban Trị sự Phật giáo.
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
Một là, từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình
thành và phát triển rộng khắp.
Hai là, thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh. Nhìn chung Phật
giáo thời này đã có những bước phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Nó là
một yếu tố của kiến trúc thượng tầng của xã hội Việt Nam từ thế kỷ X đến thế
kỷ XIV, được giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng trong quá trình xây dựng
và củng cố địa vị thống trị của mình và đã có ảnh hưởng sâu rộng tới mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa…
Ba là, từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái. Giai cấp
phong kiến Việt Nam suy tôn Nho giáo, lấy đó làm chỗ dựa về tư tưởng, chính
trị, đạo đức. Phật giáo cung đình suy tàn dần. Thời kỳ này có hai môn phái
thiền ở Trung Quốc được truyền vào Việt Nam là thiền Tào Động (1570) và
thiền Lâm Tế (1712), song đều không gây được nhiều ảnh hưởng đối với Phật
giáo Việt Nam.

16


Bốn là, từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng do một số nhà
sư cùng với một số nhân sĩ tri thức có tinh thần dân tộc và mộ đạo khởi xướng
đã làm cho Phật giáo dần dần được khởi sắc.
1.2.2. Đặc điểm và vai trò của Phật giáo ở Việt Nam
1.2.2.1. Đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt Nam:
Theo Sách Cơ sở Văn hóa Việt Nam (PGS. Trần Ngọc Thêm, 1999), Phật
giáo Việt Nam có 3 đặc điểm rõ nét bao gồm:
Thứ nhất, tính tổng hợp:
Đây là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp. Khi vào Việt Nam , Phật
giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc ta, do đó, đã
tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ pháp” kết hợp việc thờ
Phật với thờ các vị thần tự nhiên như Mây-Mưa-Sấm-Chớp và thờ đá. Lối kiến
trúc của chùa chiền Việt Nam là “tiền Phật hậu Thần” với việc đua vào chùa
các thần, thánh, các thành hoàng thổ địa và các anh hùng dân tộc. Có chùa thờ
cả Bác Hồ ở Hậu tổ và hầu như không một chùa nào là không để bia hậu, bát
nhang cho các linh hồn, vong hồn đã mất.
Bên cạnh đó, Phật giáo Việt Nam lại tổng hợp các tông phái với nhau nên không
có tông phái Phật giáo nào ở Việt Nam là thuần khiết. Tuy Thiền tông chủ trương bất
lập ngôn, song ở Việt Nam, chính các thiền sư đã để lại khá nhiều trước tác giá trị.

Phật giáo Việt Nam cũng dung hợp chặc chẽ con đường giải thoát bằng
tha lực,phối hợp Thiền tông với Tịnh độ tông(niệm Phật A di đà và cầu Bồ tát).
Chùa miền Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng chục pho
tượng Phật, Bồ- tát, La- hán của các tông phái khác nhau. Còn ở phía Nam, Đại
Thừa và Tiểu Thừa kết hợp mật thiết với nhau trong đó: nhiều chùa mang hình thức
Tiểu Thừa (thờ Phật Thích-ca) nhưng lại theo giáo lý Đại Thừa; bên cạnh tượng
Phật Thích-ca lớn vẫn có nhiều tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng vẫn sử dụng
đồ nâu và đồ lam.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn kết hợp chặt chẽ giữa việc đạo với việc
đời. Tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng ở Việt Nam, Phật giáo lại rất nhập thế:
Các cao tăng được nhà Nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ

17


trọng. Sự gắn bó giữa đạo với đời mật thiết tới mức không chỉ có các nhà sư
tham gia vào chính sự, mà các thời Lý- Trần còn khá nhiều vua quan quý tộc đi
tu ( thiền phái Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử).
Thứ hai, xu hướng hài hòa âm dương có phần thiên về nữ tính:
Đây là đặc trưng nổi bật thứ hai của Phật giáo Việt Nam - đặc trưng bản chất
của nền văn hóa nông nghiệp. Các vị thần Ấn Độ vốn xuất thân là những vị đàn ông,
sang Việt Nam biến thành Phật ông Phật Bà. Phật Bà Quan Âm ( biến thể của từ Quán
Thế Âm Bồ Tát) trở thành vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước vốn là địa
bàn của cư dân Nam Á. Đặc biệt, người Việt Nam còn có những Phật Bà riêng của
mình, do mình tạo ra như: đứa con gái của nàng Man, tương truyền sinh ngày 8-4,
được xem là Phật tổ Việt Nam, bản thân nàng Man trỏ thành Phật mẫu.
Ở nước ta có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà như: chùa Bà Dâu, chùa
Bà Đá, chùa Bà Đanh… và tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia cũng là các bà.
Thứ ba, tính linh hoạt:
Tính linh hoạt này đã khiến cho khi vào Việt Nam, Phật giáo đã bị Việt

Nam hóa mạnh mẽ. Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc
sống phúc đức, trung thực hơn là việc đi chùa:”Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu
chợ, thứ ba tu chùa”. Coi trọng truyền thống thờ ông bà cha mẹ hơn là thờ Phật.
Vào Việt Nam, đức Phật được đồng nhất với những vị thần tín ngưỡng
truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi tai họa. Hơn nữa vì
muốn giữ cho Phật giáo ở mãi bên mình, người Việt Nam nhiều khi phá cả giới
luật. Người Việt Nam giao tiếp theo nguyên tắc” xưng khiêm hô nhường” nên
các vị Bồ tát, hòa thượng mà người Việt Nam yêu quý đều được tôn làm Phật
hết: Phật bà Quan Âm ( vốn là Bồ tát), Phật Di-Lặc ( vốn là hòa thượng). Còn
tượng Phật Việt Nam vốn mang dáng dấp hiền hòa của người Việt Nam.
Nhìn chung, lịch sử đã chứng minh những đóng góp quan trọng của văn
hóa Phật giáo nói chung và Phật giáo Thanh Hóa nói riêng trong công cuộc dựng
nước, giữ nước, bảo vệ, giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc của ông
cha ta. Trải qua dòng chảy lịch sử của dân tộc, Phật giáo Thanh Hóa đã hòa nhập
cùng cộng đồng, trở thành một bộ phận văn hóa tinh thần, góp phần tạo nên bản

18


sắc văn hóa dân tộc phong phú. Đạo từ đời mà có, đạo đi vào đời không tách rời
cuộc sống con người.
Tuy vậy, Phật giáo Thanh Hóa bên cạnh những đặc điểm hài hòa cùng với
Phật giáo Việt Nam nói chung vẫn nổi lên một hiện tượng tín ngưỡng khá độc đáo,
đó là việc thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Đạo Đông (Đạo nội chính tông) và
Thần Độc Cước tại một số chùa, phủ, đền trên địa bàn tỉnh. Đó thực chất là minh
chứng cho tín ngưỡng “ tiền Phật hậu Mẫu” mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam
tồn tại song song cùng với Phật giáo tại Thanh Hóa. Nhưng cũng chính việc cùng
với việc thờ trong chùa các vị thần, các vị thánh, các vị thành hoàng thổ địa và
vị anh hùng dân tộc..vì tinh thần khai phóng này mà tại Thanh Hóa về sau phát sinh
những hậu quả mê tín dị đoan bên trong Phật Giáo như xin xăm, bói quẻ, Hầu đồng

tràn lan..
Phật giáo Thanh Hóa với tính thực tiễn, bình dân và dân chủ. Ở vùng miền núi,
nhiều hộ gia đình được các Tăng Ni, Phật tử đóng góp ủng hộ xây nhà tình thương, làm
đường đi lại dễ dàng. Nhiều chùa mở trại dưỡng lão, hội tương tế giúp người già cô
độc; Mở trường mẫu giáo, lớp học tình thương cho trẻ em nhà nghèo; Cứu trợ đồng
bào bị thiên tai; Giúp đồng bào nghèo khó mỗi dịp Phật Đản, Vu Lan, Tết Nguyên
Đán…Nhiều vị Tăng Ni trong quá trình Hoằng đạo, quan tâm giúp đỡ, xây dựng mô
hình Câu lạc bộ Thanh thiếu niên Phật tử, kết hợp đưa tin cùng với truyền hình An
Viên, Báo Giác Ngộ…
Phật giáo Thanh Hóa đã đồng hành cùng con người và quan tâm hướng dẫn
tín đồ phật tử sinh hoạt theo đúng chánh pháp, góp phần xây dựng cuộc sống lành
mạnh của người dân, và có những hoạt động đáp ứng nhu cầu cuộc sống tinh thần
và vật chất của con người, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của Tăng, Ni, Phật tử
tạo thành sức sống mãnh liệt, góp phần giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.
Tăng Ni, Phật tử tỉnh Thanh Hóa đóng góp nhiều ý kiến sửa đổi Hiến pháp,
bầu và ứng cử Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân; Hưởng ứng các phong trào
thi đua yêu nước, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, và xây dựng nông thôn
mới; Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... Các Nghi lễ như Phật
đản, Vu lan, Thành đạo, Lễ hội Quán Thế Âm,… hàng năm đều được tổ chức trang

19


trng, thu hỳt hng vn tớn , nhõn dõn trong v ngoi tnh tham gia. Chớnh nhng
hot ng l hi y gúp phn bo tn v phỏt huy cỏc giỏ tr vn húa v duy trỡ
nột p vn húa trong i sng sinh hot thng ngy, ng thi truyn dy cho
th h tr ngy cng bit n bn sc vn húa dõn tc, cng nh np sng muụn
i ca t tụng.
Pht giỏo Thanh Húa ó m rng lũng t bi, lm nhiu vic thin gúp phn tt
i, p o. Quý ch Tng, Ni úng gúp thng niờn gõy dng Qu chm lo cho

nhng a tr m cụi, khụng ni nng ta, n hc thnh ngi. Mụ hỡnh Bp n
tỡnh thng c xõy dng v thc hin nhiu chựa trờn a bn tnh nh: chựa
Thanh H ( Thnh ph Thanh Húa), chựa Mốo ( huyn Lang Chỏnh), chựa ễng
( huyn Quan Húa)mụ hỡnh thc hin nu cm, chỏo min phớ nh k hng
thỏng cho cỏc bnh nhõn ang iu tr ti cỏc bnh vin ti a phng. Tng qu
cho bnh nhõn nghốo v cỏc gia ỡnh khú khn ti a phng theo danh sỏch
thng kờ ca chớnh quyn
Nh vy, Pht giỏoVit Nam núi chung v Pht giỏo Thanh Húa núi riờng ó
hũa quyn, khụng th tỏch ri. Chớnh vỡ l ú, trong tng lai, Pht giỏo Thanh Húa
cũn cú vai trũ to ln hn na trong i sng tõm linh ca ngi Vit Nam núi
chung, nhõn dõn Pht t Thanh Húa núi riờng tip tc phỏt huy nhng giỏ tr vn
húa tớch cc ca mỡnh, bi p v i mi cho phự hp vi thi i.
1.2.2.2. Vai trũ ca Pht giỏo Vit Nam
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt
Nam nh Thiên chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, ...
ngoài ba tôn giáo chính từ xa. Nhng Phật giáo vẫn giữ một vai
trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội và tinh thần ngời
Việt Nam. Nhìn vào đời sống xã hội và tinh thần ngời Việt Nam
trong thời gian qua, ta thấy qua nhiều biểu hiện Phật giáo đang
đợc phục hồi và phát triển. nhiều vùng đất nớc số ngời theo
Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày
càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có
vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, số s sãi đợc đào tạo từ

20


các trờng Phật học ngày càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng
năm cũng tăng.
Mc ớch ca o Pht l o to con ngi thnh Bi Trớ Dng. Bi l tụn

trng quyn sng ca ngi khỏc. Trớ l hnh ng sỏng sut, li lc. Dng l quyt
tõm qu cm hnh ng. Ba iu ny phi i lin vi nhau mi to nờn con ngi
hon thin.
Vi vai trũ, chc nng v nhng giỏ tr nhõn vn sõu sc ca mỡnh, Pht
giỏo tr thnh ch da trong i sng vn húa, tinh thn ca mt b phn qun
chỳng. Cỏc chun mc ca o c Pht giỏo cú tỏc dng iu chnh hnh vi,
nhõn cỏch con ngi, nh hng tớch cc n qun chỳng.
Vi t tng t bi, cu kh, chựa ó dang rng vũng tay ún cỏc bỏc xe
ụm, xớch lụ cỏc b bỏn hng rong, cỏc chỏu bỏn bỏo, vộ s, ỏnh giy, n xin...
vo ngh tra gh ỏ v h thng c mi n ba cm chay m bc cựng
vi Tng Ni trong chựa. Nhiu ngi coi chựa l ngụi nh th hai ca mỡnh,
nhng ngụi chựa y tr thnh ni ngh ngi, ni chia s bt nhng khú khn
ca h lỳc thiu thn, m au, cng thng ca cuc sng i thng.
Nhng nm gn õy, i sng kinh t ca ngi dõn nõng cao, to iu
kin cho nhiu ngi i chựa l Pht thng xuyờn hn. Ngoi cu nguyn Pht
ban phỳc, phự h, ngi dõn cũn quan tõm hn ti vic nghe ging giỏo lý, giỏo
lut, l nghi, tu tp c hnh. Cỏc bui nghe ging giỏo lý ngy cng thu hỳt
nhiu ngi, k c nhng ngi khụng phi Pht t. Cỏc bui ging trang b
cho h nhng hiu bit v giỏ tr o c th hin trong ng gii, thp thin,
lc ... ly c Pht lm gng sỏng, ghi khc nhng gii rn trong lũng v
thc hin nú trong i sng, giỳp ớch cho bn thõn, gia ỡnh v xó hi. Pht
giỏo ch trng khuyn thin, trỏnh ỏc, gi tõm trong sch, khuyn thin, giỳp
ngi neo n, c nh, tn tt, tr m cụi, cho thuc cha bnh.
Pht giỏo khụng ch dng li cụng vic chia s nhng khú khn ca xó
hi nh hũa bỡnh, thnh vng, cụng bng, m cũn hng mi ngi ly iu
thin lm chun mc sng, lm phng tin v mc ớch t ti hnh phỳc
cho con ngi. Vi quan nim nhõn qu v nghip bỏo "gieo nhõn no thỡ gt

21



quả ấy", kiếp trước làm nhiều điều ác thì kiếp sau sẽ bị báo ứng (ác giả ác báo),
các tăng ni, Phật tử đã không ngừng “gieo nhân lành để gặt quả tốt" bằng
những việc làm hữu ích, góp phần vào sự ổn định, phát triển của đất nước.
Cộng

đồng người

Việt

Nam

tiếp

nhận Phật

giáo, đồng

thời tiếp

nhận những tư tưởng bình đẳng, bắc ái, vô ngã, vô thường…ở đạo Phật, những tư
tưởng này cùng với những tư tưởng cộng đồng cổ truyền đã làm cản trở cho quá
trình phân hóa giai cấp, làm dịu những xung đột giai cấp trong xã hội. Phật
giáo đóng góp phần tích cực của nó bằng cách tự làm trong sạch bản thân, xóa
bỏ những yếu tố mê tín lỗi thời. Việc cải tiến nghi lễ, và hiện đại hóa là một xu
hướng tất yếu, là điều cần thiết của Phật giáo, điều đó có từ trong lịch sử Phật
giáo của Việt Nam. Phật giáo còn có vai trò to lớn trong đời sống tình cảm, tâm
linh của người Việt Nam, người dân của đất nước đã trải qua nhiều đau thương và
đang còn nhiều khó khăn trong đời sống xã hội.
Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng trong (Mấy ý kiến về Phật giáo và văn hóa dân

tộc – Mấy vấn đề Phật giáo và tư tưởng Việt Nam) đã viết: “Đạo Phật có thể mất đi như
mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh túy của văn hóa Phật giáo đã được dân tộc hóa
và dân gian.
Trong điều

kiện xã

hội hiện

nay,

những di

sản văn

hóa của Phật

giáo đang tiếp tục phát huy tác dụng, tạo nên sắc thái dân tộc, góp phần làm phong
phú bản sắc văn hóa Việt Nam. Có thể thấy nhiều tổ chức và cá nhân đã quyên
góp, công đức tiền của để khôi phục, tôn tạo chùa chiền,niệm Phật đường, đúc
chuông, đắp tượng,… Ngoài ý nghĩa tâm linh, nhiều ngôi chùa đã trở thành những
danh thắng nổi tiếng để du khách đến chiêm ngưỡng. Những giá trị văn hóa Phật
giáo không chỉ tồn tại trong tư tưởng, mà còn đang hiện diện thông qua sự nỗ
lực của hàng triệu tín đồ nhằm vươn tới một lẽ sống vì Tổ quốc giàu mạnh, nhân
sinh hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định được vai trò của Phật giáo trong suốt quá
trình đồng hành cùng dân tộc.
1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo
1.3.1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm Phật giáo:


22


Phật giáo là một tôn giáo dựa trên lời dạy của Siddhartha Gautama,
người sống cách đây khoảng 26 thế kỷ ở phía Đông Bắc nước Ấn Độ và thuộc
Nepal ngày nay. Ngài được người ta gọi là “Đức Phật” (Buddha) hàm nghĩa là
một người tỉnh thức sau khi trải qua kinh nghiệm tu tập, nhận chân được bản
chất của cuộc đời, sự sống và cái chết. Trong tiếng Anh, đức Phật còn được gọi
là một người giác ngộ, mặc dù trong ngôn ngữ Sanskrit là “Bodhi” có ý nghĩa
là “tỉnh thức”.
Khái niệm Quản lý:
Quản lý, theo nghĩa chung nhất, là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý là một hoạt động có tính chất
phố biến, mọi nơi, mọi lúc, trong mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và liên quan đến mọi
người. Đó là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự
phân công và hợp tác làm một công việc để đạt được mục tiêu chung.
Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người. Ọuán
lý là hoạt động do một hay nhiều người điều phối hành động của những người
khác nhằm đat được một mục tiêu nào đó một cách có hiệu quả.
Như vậy, quản lý là sự áp dụng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm để điều
khiển nguồn lực thực hiện các tiến trình để giải quyết các vấn đề. Quản lý là
điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình theo những quy luật, định luật
hay những quy tắc tương ứng nhằm để cho hệ thống hay quá trình đó vận động theo
ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước.
Quản lý nhằm tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức giữa những người
quản lý và người bị quản lý; Giữa những người bị quản lý với nhau.
Định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu chung
và hướng mọi nỗ lực của các đối tượng quản lý vào mục tiêu đó.
Tổ chức, điều hoà, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân, tổ
chức, giảm độ bất định nhằm đạt được mục tiêu quản lý.

Tạo động lực cho mọi cá nhân trong tổ chức bằng cách kích thích, động viên;
Uốn nắn lệch lạc, sai sót nhằm giảm bớt thất thoát, sai lệch trong quá trình quản lý.
Tạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển của mọi cá nhân và tổ

23


chức, đảm bảo phát triển ổn định, bền vững và có hiệu quả.
Khái niệm Quản lý nhà nước:
Quản lý nhà nước là sự tác động đến các chủ thể mang tính quyền lực
Nhà nước bằng nhiều biện pháp tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện những
chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước trên cơ sở chính sách pháp luật.
Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là qua trình tác động, điều
hành, điều chỉnh để các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra theo đúng quy định của
pháp luật.
Quản lý nhà nước có thể hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: Là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, được sử dụng quyền
lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người do tất cả các cơ quan nhà nước ( Lập pháp, hành pháp, Tư pháp) tiến
hành để thực hiện các chức năng của nhà nước đối với xã hội.
Nghĩa hẹp: Là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước với
chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của cơ quan
trong hệ thống hành pháp ( Chính phủ, UBND các cấp).
Khái niệm quản lý nhà nước hoạt động tôn giáo :
Khái niệm quản lí nhà nước về hoạt động tôn giáo Căn cứ theo khoản 3 và
khoản 5 Điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 quy định tổ chức tôn giáo là
tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức
theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận. Còn hoạt động tôn giáo là việc
truyền bá, thực hành giáo lí, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức tôn giáo.
Xét về tín ngưỡng và tôn giáo có mối liên hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên,

chúng cũng có điểm khác nhau bởi tín ngưỡng là khái niệm thuộc lĩnh vực ý thức, tình
cảm, tư tưởng, còn tôn giáo là khái niệm rộng hơn, bao gồm cả hoạt động và tổ chức.
Việt Nam là một nước đa tôn giáo, trong đó phần lớn dân cư chịu ảnh hưởng của Nho
giáo và Phật giáo. Các tôn giáo lớn ở Việt Nam là Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Hồi
giáo, Cao đài và Phật giáo Hòa hảo. Như vậy có thể thấy QLNN về hoạt động tôn giáo
là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hướng

24


các hoạt động tôn giáo phục vụ lợi ích chính đáng của các tín đồ và phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Nội dung QLNN về hoạt động tôn giáo bao gồm những nội dung như:
Đối với việc xét duyệt và công nhận các pháp nhân tôn giáo: Căn cứ theo Điều
16 của Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo năm 2004 quy định.
Đối với việc xét duyệt chương trình hành đạo thường xuyên và đột xuất: Căn
cứ theo Điều 5 của Nghị định 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và
biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004.
Đối với việc thành lập và gia nhập các tổ chức tôn giáo: Căn cứ theo Điều
17 của Pháp lệnh về Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 quy định.
Đối với việc tiến hành các Nghi lễ tôn giáo và hoạt động tôn giáo khác: Căn
cứ theo quy định tại Điều 18 của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004.
Đối với hoạt động quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng, nhà tu hành, chức
sắc: Căn cứ theo quy định tại Điều 34, Điều 35 của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo
năm 2004.
Đối với việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành
tôn giáo: Căn cứ theo quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo
năm 2004.
Đối với việc đào tạo, bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo:

Căn cứ theo quy định tại Điều 24 của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004.
Đối với việc xét duyệt quá trình xây dựng và sửa chữa nơi thờ tự: Căn cứ
theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004.
Đối với việc xét duyệt quá trình sản xuất, lưu thông đồ dùng việc đạo: Căn
cứ theo quy định tại Điều 32 của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004.
Xét duyệt các hoạt động từ thiện – xã hội: Căn cứ theo quy định tại Điều 33
của Pháp lệnh Tín ngưỡng – tôn giáo năm 2004.
Xử lý các khiếu nại, tố cáo liên quan đến tôn giáo và các vi phạm chính sách
tôn giáo: Căn cứ theo Luật khiếu nại, tố cáo năm 2011; Luật Hình sự; Luật Tố tụng
hình sự; Luật Dân sự… và các chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước để giải
quyết ngay từ cơ sở và đúng thẩm quyền pháp lý của từng cấp quản lý.

25


×