Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Hoàn thiện công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực tại nhà hàng khách sạn đà nẵng river side

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.85 KB, 89 trang )

Mục lục

Danh mục các bảng biểu, sơ đồ


Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam trong thời gian gần đây ngành du lịch đã có những bước trở mình rõ rệt,
khách du lịch trong nước ngày càng có những đòi hỏi cao trong chất lượng dịch vụ du lịch và
họ sẵn sàng chi trả cao cho những hoạt động dịch vụ đó, lượt khách quốc tế đến với Việt Nam
cũng có xu hướng tăng . Để đáp ứng những nhu cầu đó, nhiều nhà hàng khách sạn,các khu
nghỉ dưỡng, những địa điểm du lịch và vui chơi giải trí trên khắp nước ta ngày càng được đầu
tư xây dựng.
Đà Nẵng là một địa danh không mấy xa lạ đối với khách du lịch trên cả nước và quốc tế
về một thành phố biển, một thành phố du lịch với những cây cầu bắc qua dòng sông Hàn
tuyệt đẹp. Đà Nẵng đang ngày càng ghi điểm trong mắt du khách nội địa và quốc tế với hình
ảnh một thành phố đẹp và không ngừng phát triển top đầu Việt Nam. Để thu hút khách du
lịch mà đặc biệt là khách du lịch quốc tế, nhiều khách sạn và nhà hàng, khu nghỉ dưỡng đang
được dựng lên rất nhiều ở nơi đây. Bên cạnh đó, việc đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực
phục vụ cho ngành cũng là một yếu tố rất quan trọng và cấp thiết.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, đồng thời qua quá trình thực tập tại khách sạn Đà
Nẵng River side, nhận thấy đây là một khách sạn có thứ hạng 3 sao – quy mô không lớn
nhưng có nguồn khách khá ổn định và được xây dựng ở một vị trí rất đẹp của thành phố ( bên
bờ đông sông Hàn và cây cầu Rồng) . Tuy vậy, việc tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực
của khách sạn còn hạn chế, chưa thật sự đáp ứng những nhu cầu của khách hàng và sự phát
triển của khách sạn trong tương lai, đặc biệt là trong mục tiêu đang hướng tới xây dựng một
khách sạn 4 sao . Do đó em đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện công tác tuyển
dụng và đào tạo nguồn nhân lực tại nhà hàng khách sạn Đà Nẵng River side” Qua đó, tiến
hành phân tích những yếu tố tác động đến việc tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực của



khách sạn. Từ đó đề xuất một số giải pháp giúp khách sạn hoàn thiện hơn trong việc tuyển
dụng và đào tạo nguồn nhân lực.
2. Đối tượng nghiên cứu
Tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực tại nhà hàng khách sạn Đà Nẵng River side
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài “Hoàn thiện công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực tại khách sạn Đà Nẵng
River side” được thực hiện với các mục đích nghiên cứu sau:
-

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực tại nhà

-

hàng của khách sạn.
Phân tích thực trạng về công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực tại nhà hàng

-

khách sạn Đà Nẵng River side.
Phân tích những kết quả đạt dược, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong
công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực tại nhà hàng khách sạn Đà Nẵng River
side từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện công tác tuyển dụng và đào tạo

nguồn nhân lực tại nhà hàng khách sạn Đà Nẵng River side.
4. Thời gian và phạm vi nghiên cứu
+ Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu về công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực của
nhà hàng khách sạn Đà Nẵng Riverside trong giai đoạn 2012 – 2014 và các số liệu được lấy
trong khoảng thời gian từ năm 2012 – 2014 và trong thời gian thực tập tại khách sạn
+ Phạm vi nghiên cứu: khách sạn Đà Nẵng Riverside
5. Bố cục của đề tài

Chuyên để có kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về khách sạn và công tác tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực
trong khách sạn.
- Chương 2: Thực trạng về kết quả hoạt động kinh doanh và công tác tuyển dụng, đòa tạo
nguồn nhân lực tại nhà hàng khách sạn Đà Nẵng Riverside.


- Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực tại
nhà hàng khách sạn Đà Nẵng Riverside.

Phần nội dung


Chương 1. Cơ sở lý luận về khách sạn và công tác tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực
trong khách sạn
1.1.1. Cơ sở lý luận về khách sạn và kinh doanh khách sạn
1.1.1.Khái niệm về khách sạn
Có nhiều khái niệm khác nhau về khách sạn. Theo thông tư Số: 88/2008/TTBVHTTDL thì “ Khách sạn (hotel) là cơ sở lưu trú du lịch, có quy mô từ 10 buồng ngủ trở
lên, đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và dịch vụ cần thiết phục vụ khách
lưu trú và sử dụng dịch vụ”.
Theo tiêu chuẩn quốc gia (TCQG 4391:2009) “ Cơ sở lưu trú du lịch có quy mô từ 10
buồng ngủ trở lên, đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và dịch vụ cần thiết
phục vụ khách”
Khoa du lịch trường Đại Học Kinh Tế quốc dân, trong cuốn sách “ giải thích thuật
ngữ du lịch và khách sạn” đã định nghĩa rằng “ Khách sạn là cơ sở cung cấp các dịch vụ lưu
trú (với đầy đủ tiện nghi) dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí và các dịch vụ cần thiết
khác cho khách lưu lại qua đêm và thường được xây dựng tại các điểm du lịch”
Ngoài ra, theo nhóm tác giả nghiên cứu của Mỹ trong cuốn sách “Welcome to
hospitality” xuất bản năm 1995, đã đưa ra khái niệm về khách sạn như sau: “Khách sạn là
nơi mà bất ký ai cũng có thể trả tiền để thuê buồng ngủ qua đêm ở đó. Mỗi buồng ngủ cho

thuê bên trong phải có ít nhất hai phòng nhỏ (phòng ngủ và phòng tắm). Mỗi buồng khách
đều phải có giường, điện thoại và vô tuyến. Ngoài dịch vụ buồng ngủ có thể có thêm các dịch
vụ khác như: dịch vụ vận chuyển hành lý, trung tâm thương mại (với thiết bị photocopy), nhà
hàng, quầy bar và một số dịch vụ giải trí. Khách sạn có thể được xây dựng ở gần hoặc bên
trong các khu thương mại, khu du lịch nghỉ dưỡng hoặc các sân bay”

1.1.2.Phân loại khách sạn


Có thể khái quát các thể loại khách sạn theo những tiêu chí như vị trí địa lý, mức cung cấp
dịch vụ, mức giá bán sản phẩm lưu trú, quy mô của khách sạn và hình thức sở hữu và quản lý
của khách sạn.
1.1.1.1.1. Theo vị trí địa lý
Theo vị trí địa lý, khách sạn được phân thành 5 loại: khách sạn thành phố, khách sạn ven đô,
khách sạn ven đường, khách sạn sân bay.
-

Khách sạn thành phố (city centre hotel)
Khách sạn thành phố (khách sạn công vụ)được xây dựng ở trung tâm các thành phố lớn,

các khu đô thị hoặc nơi đông dân cư. Nhằm phục vụ các đối tượng khách đi vì các mục đích
công vụ, tham gia vào các hội nghị (hội thảo), thể thao, thăm thân, mua sắm hoặc tham quan
văn hóa. Các khách sạn này hoạt động quanh năm. Ở Việt Nam các khách sạn thành phố có
thứ hạng cao tập trung nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…
-

Khách sạn nghỉ dưỡng (Resort Hotel)
Khách sạn nghỉ dưỡng được xây dựng ở những khu du lịch nghỉ dưỡng dựa vào nguồn tài

nguyên thiên nhiên như các khách sạn nghỉ biển, khách sạn nghỉ núi. Khách đén đây với mục

đích nghỉ ngơi thư giản là chủ yếu ( có số ít là khách nghiên cứu về môi trường sinh thái).
Những khách sạn nghỉ dưỡng thường chịu sự phụ thuộc vào điều kiện thời tiết khí hậu nên
hoạt động theo thời vụ.
Khách sạn nghỉ dưỡng có thứ hạng cao ở nước ta thường tập trung ở các khu du lịch nghỉ
biển như Hạ Long, Nha Trang, Đà Nẵng…
-

Khách sạn ven đô( Suburban Hotel)
Khách sạn ven đô được xây dựng ở ven ngoại vi thành phố hoặc các trung tâm đô thị. Thị

trường khách chính của khách sạn này là khách đi nghỉ cuối tuần, đôi khi có cả khách công
vụ có khả năng thanh toán trung bình hoặc thấp.


ở Việt Nam, Khách sạn ven đô chưa có thứ hạng cao và chưa phát triển vì hệ thống cơ sở hạ
tầng đường xá còn chưa thật tốt, việc đi lại mất nhiều thời gian, môi trường ở các khu ngoại
thành bụi bặm…
-

Khách sạn ven đường (Highway Hotel)
Khách sạn ven đường được xây dựng ở ven dọc các đường quốc lộ( đường cao tốc) nhằm

phục vụ các đối tượng khách đi lại trên các tuyến đường quốc lộ sử dụng phương tiện vận
chuyển là ô tô và mô tô ( giống như đối với motel).
-

Khách sạn sân bay (airport hotel)
Khách sạn sân bay được xây dựng ở gần các sân bay quốc tế lớn. Đối tượng khách của

loại khách sạn này là những hành khách của các hãng hàng không dừng chân quá cảnh tại các

sân bay quốc tế do lịch trình bắt buộc hoặc vì bất kỳ một lý do đột xuất nào khác. Gía phòng
của đa số các khách sạn sân bay trên thế giới nằm ngay trong giá trọn gói của hãng hàng
không.
1.1.2.1.Theo mức cung cấp dịch vụ
Theo tiêu thức này khách sạn được phân thành 4 loại: khách sạn sang trọng, khách sạn với
dịch vụ đầy đủ, khách sạn cung cáp số lượng hạn chế dịch vụ, khách sạn thứ hạng thấp.
-

Khách sạn sang trọng (luxury Hotel)
Là khách sạn có thứ hạng cao nhất tương ứng với khách sạn có thứ hạng 5 sao ở Việt

Nam. Là khách sạn quy mô lớn được trang bị bởi những trang thiết bị tiện nghi đắt tiền, sang
trọng, được trang hoàng đẹp. Cung cấp mứ độ cao nhất về các dịch vụ bổ sung, đặc biệt là
dịch vụ bổ sung tại phòng, dịch vụ giải trí ngoài trời, dịch vụ thẩm mỹ( beauty sanlon, fitness
centre), phòng họp…Khách sạn này có diện tích của các khu vực sử dụng chung rất rộng, bãi
đỗ lớn và bãn sản phẩm của mình với mức giá bán cao nhất trong vùng.
-

Khách sạn với dịch vụ đầy đủ(full service hotel)


Là những khách sạn có mức giá bán sản phẩm cao thứ 2 trong vùng. Khách sạn loại này
tương ứng với các khách sạn có thứ hạng 4 sao ở Việt Nam. Thị trường khách của các khách
sạn này là đoạn thị trường coa khả năng thanh toán tương đối cao. Ngoài ra, các khách sạn
cung cấp dịch vụ đầy đủ thường phải có bãi đỗ rộng, cung cấp dịch vụa ăn uống tại phòng, có
nhà hàng và cung cấp một số dịch vụ bổ sung ngoài trời một cách hạn chế
-

Khách sạn cung cấp số lượng hạn chế dịch vụ (Limited- service Hotel)
Loại khách sạn này đòi hỏi có quy mô trung bình và tương ứng với các khách sạn hạng 3

sao ở Việt Nam, là những khách sạn bán sản phẩm lưu trú với mức giá cao thứ 3( trung bình)
trong vùng và nhằm vào đối tượng khách có khả năng thanh toán trung bình trên thị trường.
Những khách sạn loại này thường chỉ cung cấp một số lượng rất hạn chế về dịch vụ, trong đó
những dịch vụ bắt buộc phải có ở đây là: dịch vụa ăn uống, một số dịch vụ bổ sung như dịch
vụ giặt là, dịch vụ cung cấp thông tin và một số dịch vụ bổ sung khác, không nhất thiết phải
có phòng họp và các dịch vụ giải trí ngoài trời.
-

Khách sạn thứ hạng thấp (khách sạn bình dân)-(economy hotel)
Là những khách sạn có quy mô nhỏ, thứ hạng thấp (1-2 sao). Có mức giá buồng bán ra ở

mức độ thấp ( dưới mức trung bình) trên thị trường. Những khách sạn này không nhất thiết
phải có dịch vụ ăn uống, nhưng phải có một số dịch vụ bổ sung đơn giản đi kèm với dịch vụ
lưu trú chính như dịch vị đánh thức khách vào buổi sáng, dịch vụ giặt là, dịch vụ cung cấp
thông tin.
1.1.2.2.Phân loại theo mức giá bán sản phẩm lưu trú
Người ta chia các khách sạn theo tiêu chí này ra 5 loại: khách sạn có mức giá cao nhất, khách
sạn có mức giá cao, khách sạn có mức giá trung bình, khách sạn có mức giá thấp
-

Khách sạn có mức giá cao nhất (luxury hotel)


Là những khách sạn có mức giá bán sản phẩm lưu trú ra ngoài thị trường nằm trong
khoảng từ nấc thứ 85 trở len trên thước đo. Như vậy hai tiêu chí phân loại khách sạn theo
mức cung cấp dịch vụ và theo mức giá luôn phải được xem xét đồng thời với nhau.
-

Khách sạn có mức giá cao (up-scale hotel)
Là những khách sạn bán sản phẩm lưu trú ra thị trường ở mức giá tương đối cao, nằm

trong khoảng từ phần thứ 70-85 trên thước đo

-

Khách sạn có mức giá trung bình (mid-price hotel)
Là những khách sạn bán sản phẩm lưu trú ra thị trường ở mức giá trung bình, nằm trong
khoảng từ phần thứ 40-70 trên thước đo.

-

Khách sạn có mức giá bình dân (economy hotel)
Là những khách sạn bán sản phẩm lưu trú ra thị trường ở mức giá bán tương đối
thấp( dưới trung bình), nằm trong khoảng từ phần thứ 20-40 trên thước đo

-

Khách sạn có mức giá thấp nhất (budget hotel)
Là những khách sạn bán sản phẩm lưu trú ra thị trường ở mức giá thấp nhất, nằm trong
khoảng từ phần thứ 20 trở xuống trên thước đo.
1.1.2.3. Theo quy mô của khách sạn
Dựa vào số lượng các buồng ngủ theo thiết kết của các khách sạn, người ta phân khách sạn ra
thành các loại sau đây:

-

-

Khách sạn quy mô lớn:
Là những khách sạn có thứ hạng 5 sao( theo quy định phải có quy mô lớn) nên hiện nay
chúng tương ứng với số lượng buồng thiết kế là từ 200 trở lên.

Khách sạn quy mô trung bình
Là những khách sạn có từ 50 buồng thiết kế trở lên đến cận 200 buồng

-

Khách sạn quy mô nhỏ
Các khách sạn quy mô nhỏ nằm ở giới hạn dưới của bảng phân loại theo tiêu chí này


Quy mô khách sạn lớn, vừa hay nhỏ là phải có bao nhiêu buồng thiết kế, tùy thuộc vào mức
độ phát triển của hoạt động kinh doanh khách sạn ở từng quốc gia khác nhau.
1.1.2.4. Theo hình thức sở hữu và quản lý
Theo tiêu chí này ở Việt Nam có thể chia thành 3 loại: khách sạn tư nhân, khách sạn nhà
nước, khách sạn liên doanh nhóm khách sạn
-

Khách sạn tư nhân
Là những khách sạn có một chủ đầu tư là một cá nhân hay một công ty trách nhiệm hữu
hạn. Chủ đầu tư tự điều hành quản lý kinh doanh khách sạn và tự chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh cuối cùng của khách sạn.

-

Khách sạn nhà nước
Là những khách sạn có vốn đầu tư ban đầu là của Nhà nước, do một tổ chức hay công ty
quốc doanh chịu trách nhiệm điều hành quản lý avf trong quá trình kinh doanh phải tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh cuối cùng của khách sạn. Theo tinh thần của nghị quyết
Trung ương III của Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX, trong tương lai không xa
loại hình doanh nghiệp khách sạn này phải dần dần được chuyển sang thành loại hình doanh
nghiệp hoặc chỉ có một chủ đầu tư(loại thứ nhất), hoặc có nhiều chủ đầu tư ( doanh nghiệp cổ

phần), trong đó Nhà nước có thể sẽ là một cổ đông
-

Khách sạn liên doanh:
Là những khách sạn do hai hoặc nhiều chủ đầu tư bỏ tiền ra xây dựng và mua sắm trang

thiết bị. Về mặt quản lý có thể do hai hoặc nhiều đối tác tham gia điều hành quản lý khách
sạn. Kết quả kinh doanh được phân chia theo tỉ lệ góp vốn của các chủ đầu tư hoặc theo thỏa
thuận trong hợp đồng liên doanh liên kết.
Trên thực tế có nhiều loại khách sạn liên doanh liên kết: Liên kết sở hữu, liên kết quản lý,
liên kết hỗn hợp.
1.1.3.Khái niệm, đặc điểm kinh doanh khách sạn


1.1.3.1. Khái niệm kinh doanh khách sạn
Để hiểu rõ nội dung của khái niệm “kinh doanh khách sạn” cần phải bắt đầu từ quá
trình hình thành và phát triển của kinh doanh khách sạn.
Đầu tiên, kinh doanh khách sạn chỉ là hoạt động kinh doanh dịch vụ nhằm đảm bảo chỗ ngỗ
qua đêm cho khách có trả tiền. Sau đó cùng với những đòi hỏi thỏa mãn nhiều nhu cầu hơn
và ở mức cao hơn của khách du lịch và mong muốn của chủ khách sạn nhằm đáp ứng toàn bộ
nhu cầu của khách, dần dần khách sạn tổ chức thêm những hoạt động kinh doanh ăn uống. Từ
đó , các chuyên gia trong lĩnh vực này thường sử dụng hai khái niệm: kinh doanh khách sạn
theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, kinh doanh khách sạn là hoạt động cung
cấp các dịch vụ phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi và ăn uống cho khách. Theo nghĩa hẹp, kinh
doanh khách sạn chỉ đảm bảo việc phục vụ nhu cầu ngủ nghỉ cho khách. Cùng với sự phát
triển của hoạt động du lịch, kinh doanh khách sạn được bổ sung thêm các dịch vụ giải trí, thể
thao, y tế, dịch vụ chăm sóc sắc đẹp, dịch vụ giặt là…
Nội dung của kinh doanh khách sạn ngày càng được mở rộng và phong phú, đa dạng về thể
loại. Do sự phát triển ấy mà ngày nay người ta vẫn thừa nhận cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của
khái niệm “kinh doanh khách sạn”. Tuy nhiên ngày nay khái niệm kinh doanh khách sạn theo

nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đều bao gồm cả hoạt động kinh doanh các dịch vụ bổ sung. Trong
nghĩa hẹp của khái niệm kinh doanh khách sạn lẽ ra phải loại trừ nhóm dịch vụ phục vụ nhu
cầu ăn uống cho khách, nhưng ngày nay hầu như các cơ sở lưu trú đều đáp ứng nhu cầu ăn
uống, cho dù có thể chỉ là bữa ăn sáng cho khách.
Trên phương diện chung nhất, có thể đưa ra định nghĩa về kinh doanh khách sạn như sau:
Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn
uống và các dịch vụ bổ sung cho khách nhằm đáp ứng các nhu cầu ăn, nghỉ và giải trí của họ
tại các điểm du lịch nhằm much đích có lãi.
1.1.3.2. Đặc điểm kinh doanh khách sạn


-

Kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch
Kinh doanh khách sạn chỉ có thể được tiến hành thành công ở những nơi có tài nguyên du

lịch, bởi lẽ tài nguyên du lịch là yếu tố thúc đẩy, thôi thúc con người đi du lịch. Đối tượng
khách hàng quan trọng nhất của một khách sạn chính là khách du lịch. Vậy rõ ràng tài nguyên
du lịch có ảnh hưởng rất mạnh đến việc kinh doanh của khách sạn. Mặt khác,khả năng tiếp
nhận của tài nguyên du lịch ở mỗi điểm du lịch sẽ quyết định đến quy mô của các khách sạn
trong vùng. Gía trị và sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch cóa tác dụng quyết định thứ hạng
của khách sạn. Chính vì vậy khi đầu tư vào kinh doanh khách sạn đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ
các thông số của tài nguyên du lịch cũng như những nhóm khách hàng mục tiêu và khách
hàng tiềm năng bị hấp dẫn tới điểm du lịch mà xác định các chỉ số kỹ thuật cảu một công
trình khách sạn khi đầu tư xây dựng và thiết kế. Khi các điều kiện khách quan tác động tới
giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch thay đổi sẽ đòi hỏi sự điều chỉnh về cơ sở vật
chất kỹ thuật của khách sạn cho phù hợp. Bên cạnh đó đặc điểm về kiến trúc, quy hoạch và
đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn tại các diểm du lịch cũng có ảnh hưởng tới
việc làm tăng hay giảm giá trị của tài nguyên du lịch tại các trung tâm du lịch.
-


Kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng vốn đầu tư lớn
Đặc điểm này xuất phát từ nguyên nhân do yêu cầu về tính chất lượng cao của sản phẩm

khách sạn: đòi hỏi các thành phần của cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn cũng phải có chất
lượng cao. Tức là chất lượng của cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn tăng lên cùng với sự
tăng lên của thứ hạng khách sạn. Sự trang trọng của các trang thiết bị được lắp đặt bên trong
khách sạn chính là một nguyên nhân đẩy chi phí đầu tư ban đầu của công trình khách sạn lên
cao.
Ngoài ra đặc điểm này còn xuất phát từ một số nguyên nhân khác như: chi phí ban đầu cho cơ
sở hạ tầng của khách sạn cao, chi phí đất đai cho một công trình khách sạn rất lớn
-

Kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng lao động trực tiếp tương đối lớn


Sản phẩm khách sạn chủ yếu mang tính chất phục vụ và sự phục vụ này không thể cơ giới
hóa được, mà chỉ được thực hiện bởi những nhân viên phục vụ trong khách sạn. Mặt khác,
lao động trong khách sạn có tính chuyên môn hóa cao. Thời gian lao động lại phụ thuộc vào
thời gian tiêu dùng của khách, thường kéo dài 24/24 giờ mỗi ngày. Do vậy cần phải sử dụng
một số lượng lớn lao động trực tiếp trong khách sạn. Với đặc điểm này các nhà quản lý khách
sạn luôn phải đối mặt với những khó khăn về chi phí lao động trực tiếp tương đối cao, khó
giảm thiểu chi phí này mà không làm ảnh hưởng xấu tới chất lượng dịch vụ khách sạn. Khó
khăn cả trong công tác tuyển mộ, lựa chọn và phân công bố trí nguồn nhân lực của mình.
Trong các điều kiện kinh doanh theo mùa vụ, các nhà quản lý khách sạn thường coi việc giảm
thiểu chi phí lao động một cách hợp lý là một thách thức lớn đối với họ.
-

Kinh doanh khách sạn mang tính quy luật
Kinh doanh khách sạn chịu sự chi phối của một số quy luật như: quy luật tự nhiên,quy


luật kinh tế xã hội, quy luật tâm lý của con người….
Chẳng hạn, sự phụ thuộc vào tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên, với những
biến động lặp đi lặp lại của thời tiết khí hậu trong năm, luôn tạo ra những thay đổi theo những
quy luật nhất định trong giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên đối với khách du lịch, từ đó gây
ra sự biến động theo mùa của lượng cầu du lịch đến các điểm du lịch. Từ đó tạo ra sự thay đổi
theo mùa trong kinh doanh khách sạn, đặc biệt là các khách sạn nghỉ dưỡng ở các điểm du
lịch vùng biển hoặc vùng núi.
1.1.4. Ý nghĩa của hoạt động kinh doanh khách sạn
1.1.4.1.Ý nghĩa kinh tế:
Hoạt động kinh doanh khách sạn là một trong những hoạt động chính của ngành du
lịch. Giữa kinh doanh khách sạn và ngành du lịch có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kinh
doanh khách sạn tác động đến sự phát triển của ngành du lịch và đời sống kinh tế- xã hội nói
chung của một quốc gia.


Kinh doanh khách sạn góp phần làm tăng GDP cho các vùng và các quốc gia. Ngày nay, khi
nhu cầu du lịch của con người ngày càng tăng cao, họ có xu hướng đi du lịch ở những nơi mà
họ ưa thích kể cả trong và ngoài nước, ở địa phương của họ hoặc những vùng khác. Thông
qua hoạt động kinh doanh lưu trú, ăn uống và những dịch vụ khác của khách sạn, một phần
trong quỹ tiêu dùng của người dân được sử dụng vào những dịch vụ đó khi họ đi du lịch tại
các điểm và trung tâm du lịch. Theo đó, một phần trong quỹ tiêu dùng từ thu nhập của người
dân được đem đến tiêu dùng tại các trung tâm du lịch, dẫn đến sự phân phối quỹ tiêu dùng từ
vùng này sang vùng khác và từ đất nước này sang đất nước khác.
Kinh doanh khách sạn phát triển góp phần tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài
nước, huy động được vốn nhàn rỗi trong nhân dân. Từ khi có chính sách mở cửa của Đảng và
nhà nước đến nay đã thu hút được một lượng lớn đầu tư vào ngành này (chiếm khoảng gần
70% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam).
Phát triển ngành kinh doanh khách sạn góp phần khuyến khích các ngành khác phát triển
theo, khuyến khích phát triển cơ sở hạ tầng cho các điểm du lịch. Hàng ngày, các khách sạn

phải tiêu thụ một số lượng lớn các sản phẩm của nhiều ngành như: các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp nhẹ, bưu chính viễn thông, ngành ngân hàng, ngành thủ công mỹ nghệ…
Nó trở thành bạn hàng lớn của nhiều ngành khác nhau trong nền kinh tế.
Do có sự tác động giữa ngành kinh doanh khách sạn và các ngành khác(bạn hàng của khách
sạn),vậy nên khi kinh doanh khách sạn phát triển sẽ tạo nên sự phát triển theo cấp số nhân về
việc làm gián tiếp trong các ngành có liên quan.
1.1.4.2. Ý nghĩa xã hội:
Ngành kinh doanh khách sạn luôn đòi hỏi một khối lượng lớn nguồn lao động trực
tiếp, chính vì vậy nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người
lao động. Hoạt động kinh doanh khách sạn cung cấp các dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu nghỉ
ngơi, giải trí tích cực của con người trong thời gian đi du lịch ngoài nơi cư trú thường xuyên,
nó góp phần gìn giữ và phục hồi khả năng lao động và sức sản xuất của người lao động.
Đồng thời, việc thỏa mãn nhu cầu tham quan nghỉ ngơi cuối tuần một cách tích cực cho số
đông người dân góp phần nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Làm tăng


nhu cầu tìm hiểu về di tích lịch sử văn hóa của đất nước và các thành tựu trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước của Đảng ta, góp phần giáo dục lòng yêu nước và lòng tự hào
dân tộc cho thế hệ trẻ.
Kinh doanh khách sạn tạo điều kiện thuận lợi cho sự gặp gỡ và giao lưu của con người từ các
vùng trong nước hay giữa các quốc gia các châu lục khác nhau trên thế giới đến với Việt
Nam. Thông qua đó, nó làm tăng ý nghĩa vì mục đích hòa bình, hữu nghị và tình đoàn kết
giữa các dân tộc.
Kinh doanh khách sạn đóng góp tích cực cho sự phát triển, giao lưu giữa các quốc gia
và các dân tộc trên thế giới trên nhiều phương diện khác nhau.
Những khách sạn lớn và hiện đại chính là nơi tiến hành các cuộc họp, các hội nghị cấp cao
hoặc các hội nghị theo các chuyên đề, các đại hội, các cuộc gặp gỡ công vụ về kinh tế, chính
trị, văn hóa. Là nơi chứng kiến những sự kiện ký kết các văn bản chính trị,kinh tế quan trọng
trong nước và thế giới. Các khách sạn cũng là nơi thường tổ chức nhiều hoạt động văn hóa
như hòa nhạc, trưng bày nghệ thuật, triển lãm….

1.2. Nhà hàng trong khách sạn
1.2.1. Khái niệm nhà hàng
Hiểu một cách đơn giản nhất, nhà hàng trước hết là một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
ăn uống và các dịch vụ bổ sung khác nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Nhà hàng phục vụ nhiều đối tượng khác nhau, có thể nguồn khách tại chỗ hay khách địa
phương, khách từ nơi khác dến hay là khách du lịch, khách vãng lai…như vậy đối tượng
phục vụ rất đa dạng và phong phú, tùy theo khả năng, tùy theo mục đích kinh doanh, tùy theo
đoạn thị trường khách nhắm vào mà doanh nghiệp thiết lập mục tiêu kinh doanh và phục vụ
đối tượng khách đó. Vì đối tượng khách đa dạng như vậy nên nhà hàng có thể là một bộ phận
của khách sạn hoặc cũng có thể là một đơn vị kinh doanh độc lập.
Nhà hàng là nơi mà thực khách đến để ăn uống, thưởng thức ẩm thực, thưởng thức các dịch
vụ đi kèm khác. Theo thông tư liên bộ số 27/LB-TCDL ngày 10/01/1996 của Tổng cục du
lịch và bộ thương mại Việt Nam thì: Nhà hàng là nơi kinh doanh các món ăn dồ uống có mức


chất lượng và là cơ sở kinh doanh có mức vốn pháp định theo quy định của từng loại hình
doanh nghiệp.
Khái niệm chính thống nhất: Nhà hàng là một đơn vị kinh doanh, chuyên phục vụ khách
những món ăn đồ uống và các dịch vụ bổ sung với mức chất lượng cao nhằm thu lợi nhuận.
1.2.2.Đặc điểm kinh doanh nhà hàng
-

Sản phẩm kinh doanh nhà hàng mang tính tổng hợp
Sản phẩm của nhà hàng là toàn bộ các món ăn đồ uống khách được phục vụ trong quá

trình tiêu dùng ở nhà hàng.
Sản phẩm của nhà hàng là sự kết hợp giữa hàng hóa và dịch vụ, trong đó dịch vụ chiếm tỉ
trọng lớn. Yếu tố hàng hóa trong sản phẩm nhà hàng là các nguyên vật liệu,thực phẩm, nhiên
liệu, khấu hao cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà hàng sử dụng để tạo ra món ăn, đồ uống phục vụ
khách. Yếu tố dịch vụ chính là quá trình phục vụ khách ăn uống, bầu không khí tại nhà

hàng…Dịch vụ này cần những con người với kỹ năng nghề nghiệp giỏi, có tính chuyên
nghiệp, khả năng giao tiếp tốt, biết ứng xử mọi tình huống để đem đến cho khách hàng sự hài
lòng tối đa. Hai yếu tố này đều không thể thiếu trong việc tạo ra một sản phẩm hoàn hảo cho
nhà hàng.
Ngoài ra,danh mục sản phẩm trong nhà hàng thường đa dạng và phong phú, tương ứng với
các khu vực địa lý, cũng như thị hiếu của khách hàng. Tuy nhiên, tùy theo khả năng đáp ứng,
nhà hàng có thể ấn định giới hạn phục vụ của mình qua hệ thống thực đơn.
Sự kết hợp yếu tố hàng hóa và dịch vụ trong sản phẩm nhà hàng đã tạo nên tính không đồng
nhất của sản phẩm, dịch vụ cung ứng. Cùng một sản phẩm, dịch vụ nhưng đối tượng tiêu
dùng khác nhau đòi hỏi nhân viên phải phục vụ theo các phương pháp khác nhau cho phù
hợp. Cùng một món ăn nhưng những lần thưởng thức khác nhau cũng không hoàn toàn giống
nhau, bởi nó có thể tùy thuộc vào tâm trạng, sức khỏe của nhân viên phục vụ và đầu bếp khi
chế biến món ăn và tâm trạng của khách hàng khi thưởng thức.


Từ đặc điểm này có thể thấy, chất lượng sản phẩm dịch vụ ăn uống của nhà hàng phụ thuộc
vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, đòi hỏi nhà hàng phải có biện pháp quản lý phù
hợp để giữ được chất lượng phục vụ. Bởi vì chất lượng phục vụ là một yếu tố quyết định sự
thành công hay thất bại của nhà hàng.
-

Kinh doanh nhà hàng cần số lượng lao động lớn, tính chuyên môn hóa cao
Lao động trong nhà hàng là lao động dịch vụ đặc thù, đòi hỏi kỹ năng nghề nghiệp cao,
máy móc công nghệ khó có thể thay thế. Mặt khác, quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm
diễn ra đồng thời, cần có sự tiếp xúc trực tiếp cũng như gián tiếp của nhân viên trong việc
phục vụ khách hàng,do đó, kinh doanh nhà hàng đòi hỏi số lượng lao động lớn( trung bình
12-16 khách/ nhân viên phục vụ). Nhiều nhà hàng lớ có các phòng ăn nhỏ, rieng biệt, chỉ có
6-10 chỗ ngồi cho khách luôn luôn phải có một người phục vụ thường xuyên. Ngoài ra, nhà
hàng cần có đội ngũ cán bộ quản lý, kế toán, thu ngân, nhân viên bỏa dưỡng, nhân viên bảo
vệ,tạp vụ, vệ sinh…tham gia gián tiếp vào việc phục vụ khách hàng.

Lao động phục vụ tại nhà hàng đóng vai trò quyết định đến hiệu quả kinh doanh của nhà
hàng. Vì vậy, lao động trong nhà hàng có tính chuyên môn hóa cao, nghĩa là mỗi bộ phận
chuyên về một lĩnh vực, mỗi công việc nhất định. Mỗi bộ phận trong nhà hàng bàn, bar, bếp
có các chức năng nghiệp vụ thao tác riêng, đòi hỏi lao động ở mỗi bộ phận đa số phải trải qua
quá trình đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ kỹ càng như nhân viên bếp, nhân viên phục vụ
bàn, nhân viên pha chế.
Chuyên môn hóa cao giúp người lao động có điều kiện chuyên sâu về nghiệp vụ cụ thể, thao
tác công việc nhanh, gọn, chính xác, thành thạo, rút ngắn thời gian lao động và tăng năng suất
lao động. Tuy nhiên, điều này cũng khiến lao động ở các bộ phận này khó có thể thay thế cho
nhau một cách hoàn hảo và người lao động có thể cảm thấy nhàm chán với công việc. Do đó,
nguời quản lý cần có những chính sách quản lý lao động hiệu quả như luân chuyển nhaan


viên giữa các bộ phận để học hỏi lẫn nhau, chính sách lương thưởng khuyến khích nhân viên
chăm lo bồi dưỡng tay nghề, thăng tiến cho nhân viên dựa vào năng lực…
Nhân viên thường chịu sức ép cao về mặt tâm lý, đặc biệt là nhân viên phục vụ trực tiếp do
lao động cảm xúc chiếm bộ phận lớn. Bởi nhiệm vụ nhân viên phục vụ là phải tối đa hóa sự
hài lòng của khách hàng, đòi hỏi nhân viên phải luôn giữ thái độ lịch sự, vui vẻ, nhã nhặn
cũng như tác phong chuyên nghiệp trong quá trình phục vụ khách, gây nên sức ép tâm lý cho
nhân viên, đồng thời, yêu cầu sự cầu toàn và chuyên nghiệp trong quá trình phục vụ từ cấp
trên cũng khiến nhân viên bị áp lực tâm lý. Điều này đòi hỏi đội ngũ lao động phải trẻ khỏe
mới có thể phục vụ khách tốt. Yêu cầu về độ tuổi của mỗi bộ phận cũng khác nhau, bộ phận
phục vụ trực tiếp như bàn, bar độ tuổi hợp lý từ 20-30 tuổi, có sức khỏe dẻo dai và kỹ năng
nghiệp vụ tốt, các bộ phận khác như bếp, bảo vệ, tạp vụ… thường không giới hạn nhiều về độ
tuổi nhưng đòi hỏi có sức khỏe, thâm niên và kinh nghiệm thực tế.
Đồng thời do tính chất công việc, yêu cầu lao động trong nhà hàng thường là nam,nhanh
nhẹn, hoạt bát, dẻo dai, chịu được áp lực cao…Tuy nhiên, sự cân đối tỉ lệ nhân viên nam và
nữ trong nhà hàng cũng phải hợp lý đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu công việc.
-


Kinh doanh nhà hàng đòi hỏi tính liên tục cao
Thời gian làm việc liên tục, theo ca/kíp: Nhà hàng luôn tồn tại và hoạt động theo nhu cầu
của khách, vì vậy trong thực tế nhà hàng hoạt động không kể ngày đêm, ngày lễ tết, bất kỳ
khi nào có yêu cầu của khách thì nhà hàng phải phục vụ. Nhà hàng càng uy tín với khách
hàng thì càng bận rộn, để đáp ứng được nhu cầu của khách, nhà hàng thường phan chia ca
làm việc
Tùy theo thời gian mở cửa phục vụ, nhà hàng sẽ có sự phân chia ca làm việc khác nhau.
Chẳng hạn. Nhà hàng trong khách sạn mở cửa phục vụ từ 6h sáng đến 23h đêm, phân 2 ca
làm việc: ca1 (từ 6h-14h30) và ca 2(14h30-23h), và nhân viên thường phải đến sớm 30 phút
để chuẩn bị trước giờ vào ca.


Cường độ làm việc không ổn định mang tính thời điểm cao, đa dạng và phức tạp: lúc nhà
hàng vắng khách nhân viên thường rảnh rỗi , nhưng lúc đông khách hoặc có tiệc thì nhân viên
phải làm việc với cường độ cao và phải làm thêm giờ. Thời gian lao động của nhân viên là
giờ ăn của khách, thường không được ấn định rõ ràng và hay dao động, kéo dài nhiều giờ
trong khi khách thưởng thức dịch vụ ăn uống.
-

Hoạt động kinh doanh nhà hàng là hoạt động tổng hợp và phức tạp
Do đặc điểm sản phẩm của nhà hàng mang tính tổng hợp nên hoạt động kinh doanh nhà
hàng cũng mang tính tổng hợp. Để kinh doanh và phục vụ khách tốt, đáp ứng đầy đủ các nhu
cầu của khách với mức chất lượng cao, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa
các bộ phận nghiệp vụ khác nhau trong nhà hàng: bộ phận phục vụ bàn, bộ phận chế biến
món ăn, bộ phận pha chế đồ uống và bộ phận làm thủ tục thanh toán nhằm tạo ra dịch vụ
hoàn hảo cho khách hàng. Một sơ suất nhỏ trong bất kỳ bộ phận nào cũng gây ảnh hưởng xấu
đén chất lượng sản phâm và lượng khách đến nhà hàng, ảnh hưởng đến uy tín nhà hàng.
Thời gian sản xuất và tiêu dùng sản phẩm diễn ra đồng thời, có sự tham gian trực tiếp của
khách hàng, làm kinh doanh nhà hàng tương đối phức tạp, bởi bất kỳ sự tác động nào của
khách hàng cũng dễ ảnh hưởng tới tâm trạng của nhân viên phục vụ và quy trình phục vụ, gây

khó khăn trong việc quản lý chất lượng sản phẩm.
Thêm vào đó, hoạt động của nhà hàng có tính thời vụ cao làm cho hoạt động kinh doanh của
nhà hàng phức tạp hơn: tính thời vụ trong kinh doanh nhà hàng phức tạp, diễn ra hàng ngày
( sáng-trưa-chiều, phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của nhà hàng là phục vụ khách ăn bữa
hay ăn tiệc), hàng tuần( nhà hàng thường đông khách vào các ngày cuối tuần), hàng
năm( thời điểm cuối năm hay đầu năm thường là dịp diễn ra các hội nghị, lễ tết, lễ cưới.
1.2.3.

Yêu cầu lao động trong nhà hàng

Yêu cầu đối với nhân viên tiếp xúc trực tiếp:


Được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, vi tính phù hợp với vị trí công việc và loại
hạng khách sạn.
Có sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc, được kiểm tra định kỳ một năm một lần( có giấy
chứng nhận của y tế)
Mặc trang phục đúng quy định của khách sạn, có phù hiệu trên áo.
Đối với người quản lý và nhân viên phục vụ của khách sạn 3 sao
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ
+ Người quản lý
Tốt nghiệp cao đẳng du lịch, nếu tốt nghiệp cao đẳng ngành khác phải qua lớp bồi dưỡng
quản lý lưu trú du lịch, an ninh, an toàn, phòng chống cháy nổ, bảo vệ môi trường và vệ sinh
an toàn thực phẩm.
Hai năm kinh nghiệm trong nghề.
Giao tiếp tốt một ngoại ngữ.
+ Trưởng các bộ phận
Chứng chỉ trung cấp nghề(lễ tân, buồng, bàn, bar, bếp) hoặc chứng chỉ của Vietnam Tourism
Certification Board (Hội đồng cấp chứng chỉ ngành du lịch Việt Nam)
Hai năm kinh nghiệm trong nghề.

Giao tiếp tốt một ngoại ngữ trong phạm vi nghề ( trưởng lễ tân thông thạo một ngoại ngữ).
Sử dụng tốt vi tính văn phòng.
+ Nhân viên phục vụ
50% có chứng chỉ nghề hoặc chứng chỉ của Vietnam Tourism Certification Board (Hội đồng
cấp chứng chỉ ngành du lịch Việt Nam)
50% qua lớp tập huấn nghiệp vụ.
Nhân viên trực tiếp phục vụ khách: giao tiếp tốt một ngoại ngữ trong phạm vi nghề.
Nhân viên lễ tân: thông thạo một ngoại ngữ và sử dụng tốt vi tính văn phòng.


1.3.

Cơ sở lý luận về công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực
1.3.1.Công tác tuyển dụng nguồn nhân lực
1.3.1.1. Khái niệm
Tuyển dụng là quá trình tuyển mộ, tuyển chọn những ứng viên phù hợp với công việc.
Tuyển mộ là quá trình thu hút các ứng viên (người xin việc) về phía các tổ chức để các nhà
tuyển dụng lựa chọn và sàng lọc những người đủ điều kiện vào làm việc tại một vị trí nào đó
trong tổ chức.
Tuyển chọn là quá trình đánh giá các ứng viên theo nhiều khía cạnh khác nhau dựa vào các
yêu cầu của công việc để tìm được những người phù hợp với các yêu cầu đặt ra trong số
những người đã thu hút được trong quá trình tuyển mộ.
1.3.1.2. Các nguồn tuyển dụng
Nguồn tuyển dụng nhân lực bao gồm nguồn bên trong tổ chức và bên ngoài tổ chức.

-

Nguồn bên trong tổ chức:
Là bao gồm những người đang làm việc bên trong tổ chức đó. Đối với những người đang
làm việc bên trong tổ chức, khi ta tuyển mộ những người này vào làm các vị trí cao hơn vị trí

mà họ đang đảm nhận là ta đã tạo ra được động cơ tốt cho tất cả những người làm việc trong
tổ chức. Vì khi họ biết có cơ hội sẽ được đề bạt họ sẽ làm việc với động lực mới và họ sẽ thúc
đẩy quá trình làm việc tốt hơn, sẽ làm tăng sự thỏa mãn với công việc, sẽ làm tăng được tình
cảm và lòng trung thành của mọi người đối với tổ chức
+ Ưu điểm :
Người làm việc đã quen với doanh nghiệp và quen với cách làm việc tại đây, họ hiểu được
mục tiêu của doanh nghiệp và ngày càng gắn bó với công việc hơn.
Nguồn tuyển dụng này sẽ tiết kiệm cho doanh nghiệp một khoản chi phí tuyển dụng cũng như
thời gian tuyển dụng.


Tuyển nhân viên từ trong nội bộ doanh nghiệp sẽ tạo ra sự thi đua rộng rãi trong toàn doanh
nghiệp, kích thích nhân viên làm việc chăm chỉ, tích cực, sáng tạo và hiệu quả.
Người được tuyển sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn trong việc thực hiện công việc nhất là trong
giai đoạn khi mới bắt đầu với vị trí công việc mới.
Người quản lý trước đây của người được tuyển có thể cho doanh nghiệp những nhận xét
chính xác và công bằng về năng lực và phẩm chất của người được tuyển.
+ Nhược điểm:
Người tuyển dụng có thể đã quen với công việc trước đây của cấp trên cũ và có thể sẽ rập
khuôn lại cách làm việc đó, do đó thiếu sáng tạo trong công việc.
Những người tham gia ứng cử không thành công sẽ dễ có tâm lý không phục lãnh đạo, có
thái độ bất hợp tác và có thể chia bè phái và mất đoàn kết dãn đến hiệu quả công việc không
cao.
-

Nguồn bên ngoài tổ chức:
Là những người bên ngoài tổ chức đến để xin việc, những người này bao gồm:

+


Những sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học và dạy

nghề( bao gồm những người được đào tạo trong nước và cả ở nước ngoài)
+

Những người đang trong thời gian thất nghiệp, bỏ việc cũ

+

Những người đang làm việc tại các tổ chức khác

+ Ưu điểm:
Người được tuyển sẽ mang lại “bầu không khí mới” cho bộ phận mà họ làm việc.
Tạo cơ hội thay đổi văn hóa doanh nghiệp hoặc bộ phận ( đặc biệt khi vị trí tuyển dụng là vị
trí then chốt).
Người được tuyển sẽ làm tăng thêm tính sáng tạo, kỹ năng và kinh nghiệm cho bộ phận mà
họ làm việc. Phương pháp này mang lại cho công ty nhiều tài năng cũng như ý tưởng mới.
Nếu gặp được ứng viên đã có nhiều kinh nghiệm làm việc, thì chi phí đào tạo cũng đỡ tốn


kém hơn. Phương pháp này cũng tạo ra sự phát triển nghề nghiệp hợp lí và công bằng cho
mọi người trong công ty.
+ Nhược điểm:
Người được tuyển chưa quen với doanh nghiệp, chưa hiều được mục tiêu của doanh nghiệp,
văn hóa và phong cách làm việc của doanh nghiệp. Do vậy phải có chương trình hòa nhập và
giúp đỡ những người mới được tuyển dụng.
Chi phí cho nguồn tuyển dụng từ bên ngoài thường cao. Ngoài ra, việc này cũng có thể gây
rắc rối với những nhân viên nội bộ, những người mong muốn được thăng chức hay trọng
dụng. Vì do có người mới vào, công ty cũng cần một thời gian nhất định để chấn chỉnh lại sơ
đồ tổ chức.



1.3.1.3. Quy trình tuyển dụng
Sau đây là sơ đồ về quy trình tuyển dụng nhân lực.

Chuẩn bị tuyển dụng

Thông báo tuyển dụng

Thu nhận, nghiên cứu hồ sơ

Phỏng vấn sơ bộ

Kiểm tra, trắc nghiệm

Phỏng vấn lần hai

Xác minh điều tra

Khám sức khỏe

Ra quyết định tuyển dụng

Bố trí công việc
Sơ đồ 1.1. Quy trình tuyển dụng nguồn nhân lực
a. Chuẩn bị tuyển dụng
- Trong bước chuẩn bị cần thiết phải
Thành lập hội đồng tuyển dụng, quy định rõ về số lượng, thành phần và quyền hạn của hội
đồng tuyển dụng.



Nghiên cứu kỹ các loại văn bản, quy định của Nhà nước và tổ chức, doanh nghiệp liên quan
đến tuyển dụng. Hiện nay ở Việt Nam, một số tài liệu quan trọng của Nhà nước liên quan đến
tuyển dụng gồm có:
+ Bộ Luật Lao động
+ Pháp lệnh ngày 30/8/1990 của Hội đồng Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
về hợp đồng lao động.
+ Nghị định số 165/HĐBT ngày 12/5/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh hợp đồng lao động.
+ Điều lệ tuyển dụng và cho thôi việc đối với công nhân viên chức nhà nước (13/3/1963).
+ Tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức, viên chức nhà nước. Văn bản này liên quan đến
các tiêu chuẩn cần có đối với công chức, viên chức nhà nước.
Xác định tiêu chuẩn tuyển chọn
- Tiêu chuẩn để dự tuyển
Là công dân nước Cộng Hõa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Từ 18 tuổi trở lên.
Có đơn xin dự tuyển, có lý lịch rõ rang và có đủ các văn bằng chứng chỉ đã quy định trong
ngạch (tốt nghiệp phổ thông, trung học, chứng chỉ đạt trình độ đánh máy chữ của khóa học 3
tháng, và biết ngoại ngữ trình độ A)
Có đủ sức khỏe để đảm nhận nhiệm vụ (giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế có thẩm quyền
cấp)
Không trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án.
- Trúng tuyển
Thông thường tiêu chuẩn cá nhân là những tiêu chuẩn cần thiết nhưng chưa đủ để được tuyển
chọn vào trong doanh nghiệp. Để được tuyển, ứng viên phải đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn
của tổ chức, doanh nghiệp và tiêu chuẩn của phòng ban hoặc bộ phận. Tiêu chuẩn của tổ chức


×