Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.08 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VÕ THỊ HẠNH

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG
HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI - 2015


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NTD

: Người tiêu dùng

BVQLNTD : Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
TNHH


: Trách nhiệm hữu hạn

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

iSEE

: Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường

ASA

: Cơ quan giám định các tiêu chuẩn quảng cáo

VINASTAS : Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
CI

: Tổ chức quốc tế người tiêu dùng


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO
VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO
THƯƠNG MẠI ............................................................................................ 6
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI TIÊU DÙNG, HOẠT ĐỘNG
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI VÀ YÊU CẦU BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU
DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI ................ 6

1.1.1. Người tiêu dùng và sự cần thiết phải bảo vệ người tiêu dùng.......... 6
1.1.2. Khái quát về hoạt động quảng cáo thương mại ............................. 13
1.1.3. Yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương
mại ......................................................................................................... 17
1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI .......................... 18
1.2.1. Điều chỉnh pháp luật đối với bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt
động quảng cáo thương mại ................................................................... 18
1.2.2. Nội dung pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động quảng
cáo thương mại ....................................................................................... 20
1.2.3. Kinh nghiệm pháp luật các nước về bảo vệ người tiêu dùng trong
hoạt động quảng cáo thương mại ............................................................ 22
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG
CÁO THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................... 27
2.1. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƯỜI
TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI .... 27
2.1.1. Các quy định cơ bản về quảng cáo thương mại ............................. 27


2.1.2. Các quy định liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
hoạt động quảng cáo thương mại ............................................................ 33
2.1.3. Một số nhận xét về thực trạng pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
trong hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt Nam ............................... 37
2.2. THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƯỜI
TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI .... 41
2.2.1. Thực tiễn hoạt động quảng cáo thương mại ảnh hưởng quyền lợi
của người tiêu dùng ................................................................................ 41
2.2.2. Những vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định của pháp
luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .................. 50

Chương 3. KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO
VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM .................................................................. 56
3.1. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI................................................................. 56
3.1.1. Nghiên cứu việc sửa đổi khái niệm “quảng cáo thương mại” theo
hướng phân biệt rõ với hoạt động “trưng bày giới thiệu hàng hoá, dịch vụ”
............................................................................................................... 56
3.1.2. Giải pháp đối với một số hoạt động quảng cáo bị cấm .................. 56
3.1.3. Nghiên cứu xây dựng Nghị định riêng về xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động quảng cáo, trong đó bao gồm quảng cáo thương mại .... 59
3.1.4. Nghiên cứu việc sửa đổi các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện
quảng cáo thương mại theo xu hướng cải cách hành chính ..................... 60
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI................................................................. 61


3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại .................... 61
3.2.2. Các giải pháp hoàn thiện các thiết chế liên quan nhằm bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng ................................................................................. 64
KẾT LUẬN ................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 68


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Các hoạt động xúc tiến thương mại ngày càng phát triển với nhiều hình thức,
quy mô khác nhau, kéo theo nhiều hệ quả nhất định. Quảng cáo thương mại là một
trong những hoạt động xúc tiến thương mại quan trọng giúp các doanh nghiệp giới
thiệu về hoạt động sản xuất hàng hoá, dịch vụ của mình. Trong đời sống hiện nay,
chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp các hoạt động quảng cáo diễn ra thường xuyên, phổ
biến trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trong các phương tiện sinh hoạt
thường ngày. Có thể nói, chưa bao giờ hoạt động quảng cáo thương mại lại có vai
trò quan trọng không chỉ đối với các thương nhân, mà còn có tầm ảnh hưởng lớn
đến cả người tiêu dùng như hiện nay. Quảng cáo không chỉ đem lại lợi ích cho
doanh nghiệp, mà còn góp phần định hướng cho người tiêu dùng trong việc lựa
chọn sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Trong hoạt động thương mại, yếu tố lợi nhuận luôn được đặt lên hàng đầu.
Vì vậy, trong nhiều trường hợp, các thương nhân đã vì lợi ích trước mắt mà kinh
doanh những hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, quảng cáo sai sự thật, làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng (NTD). Thị trường kinh doanh càng sôi
động, thì các doanh nghiệp càng cố gắng tạo ra nhiều hình thức thúc đẩy kinh doanh
mạnh mẽ hơn, trong đó có việc tận dụng triệt để ưu thế của hoạt động quảng cáo
thương mại. Bất cứ một hoạt động kinh doanh nào cũng cần đặt ra vấn đề bảo vệ
quyền lợi NTD. Bản thân hoạt động quảng cáo thương mại là hoạt động mang tính
chất mở, dễ bị lạm dụng để thực hiện các hành vi bất chính. Hình thức tổ chức của
hoạt động quảng cáo khá đa dạng, khó kiểm soát và thẩm định chất lượng, nên số
lượng các vụ việc vi phạm pháp luật xảy ra khá nhiều trong thực tế. Thực tế, quá trình
các thương nhân thực hiện hoạt động quảng cáo đang tiềm ẩn những rủi ro cho lợi ích
khách hàng. Cùng với sự bùng nổ thông tin như hiện nay làm cho hoạt động quảng
cáo thương mại ngày càng khó kiểm soát, hàng loạt vụ việc xâm hại đến quyền và lợi
ích chính đáng của NTD xảy ra khiến cho vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trở nên nóng bỏng. Bởi vậy, với việc lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại theo pháp luật Việt Nam”, tác giả



2
muốn khẳng định tính cấp thiết và ý nghĩa to lớn của công tác bảo vệ quyền lợi
NTD trước những hoạt động quảng cáo đang diễn ra phổ biến trong điều kiện kinh
tế thị trường; mong muốn tìm kiếm giải pháp nâng cao trách nhiệm và đạo đức kinh
doanh của giới thương nhân trong hoạt động quảng cáo thương mại phải xuất phát
từ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NTD, cũng như trong các hoạt động
thương mại nói chung. Đây cũng là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài để làm Luận
văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ luật học, hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây thường
tách riêng vấn đề quảng cáo thương mại và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để
nghiên cứu độc lập. Gần đây, pháp luật về quảng cáo cũng như pháp luật quảng cáo
với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được đề cập đến trong một số công
trình nghiên cứu. Công trình lớn nhất là Luận án Tiến sỹ luật học của tác giả
Nguyễn Thị Dung: “Pháp luật về xúc tiến thương mại trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam – Lý luận, thực tiễn và giải pháp hoàn thiện” (năm 2006). Cho đến nay,
đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và đầy đủ nhất về cơ sở lý luận và thực
tiễn của vấn đề hoàn thiện pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt Nam, trong đó,
vấn đề pháp luật quảng cáo với việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được phân
tích và đưa ra phương hướng hoàn thiện luật một cách khái quát nhất.
Bên cạnh đó, có thể kể đến những công trình khác như: “Pháp luật về quảng
cáo, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Hà Thu
Trang, năm 2004; “Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Vũ Vân Anh, năm 2003;
“Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học
của Bùi Thị Long, năm 2007; “Trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học của
Nguyễn Thị Thu Hiền, năm 2014; “Thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của hệ thống các cơ quan nhà nước tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học

của Nguyễn Hoàng Mỹ Linh, năm 2014… Ngoài ra, còn có các bài viết như: “Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh” của ThS. Ngô Vĩnh Bạch
Dương, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật; “Pháp luật và vấn đề bảo vệ quyền lợi người


3
tiêu dùng” của TS. Đặng Vũ Huân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2000. Năm
2007, tác giả Đào Tuyết Vân đã có công trình nghiên cứu: “Pháp luật quảng cáo với
vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” tập trung phân tích về pháp luật quảng cáo
nói chung đặt trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…
Có thể nhận định rằng, các công trình nghiên cứu trên đây mới chỉ nêu ra vấn
đề pháp luật quảng cáo nói chung liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi NTD mà
chưa đi sâu phân tích và nghiên cứu về quảng cáo thương mại. Trên thực tế, vấn đề
bảo vệ quyền lợi NTD trong hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt Nam còn khá
mới mẻ, cho nên, việc nghiên cứu về quyền lợi NTD và pháp luật bảo vệ quyền lợi
NTD ở lĩnh vực này chưa được quan tâm một cách thoả đáng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo
thương mại, từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ hiệu quả quyền lợi người tiêu
dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
như sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng,
về hoạt động quảng cáo thương mại; yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong hoạt động quảng cáo thương mại; đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu kinh
nghiệm pháp luật của một số nước về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động quảng
cáo thương mại.
Thứ hai, khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng các quy định pháp luật,
thực trạng thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo

thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo
thương mại ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Quảng cáo thương mại là cầu nối giữa nhà kinh doanh với người tiêu dùng,
là một hoạt động xúc tiến thương mại của các thương nhân nhằm nâng cao hiệu quả


4
kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận. Điều này rất có thể xâm hại quyền lợi của người
tiêu dùng nếu như không được sự điều chỉnh và kiểm soát chặt chẽ của pháp luật.
Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là hệ thống các quy định pháp luật
cũng như quá trình thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng đặt trong mối tương quan với pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo
thương mại do thương nhân tiến hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu các vấn đề thuộc đề tài này, tác giả đã sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin, những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, so sánh và phương pháp lịch sử
được sử dụng chủ yếu trong Chương 1 khi nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại.
Phương pháp so sánh luật học, phân tích, tổng hợp, thống kê, đánh giá được sử
dụng chủ yếu trong Chương 2 khi khái quát, đánh giá thực trạng quy định pháp luật
và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo

thương mại nhằm chỉ ra ưu điểm và hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở Chương 3 khi xem xét, đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn là công trình chuyên khảo góp phần xây dựng các
luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật, nhằm nâng cao tính minh bạch, khả
thi của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo
thương mại; tạo hành lang pháp lý thuận lợi góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người tiêu dùng; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, hoàn thiện cơ chế
và các thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương
mại ở Việt Nam hiện nay.


5
Về mặt thực tiễn, Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy và học tập về vấn đề pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng
trong hoạt động quảng cáo thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu
dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương
mại ở Việt Nam.



6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI TIÊU DÙNG, HOẠT ĐỘNG
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI VÀ YÊU CẦU BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
1.1.1. Người tiêu dùng và sự cần thiết phải bảo vệ người tiêu dùng
1.1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Trên thế giới, pháp luật mỗi quốc gia chủ yếu dựa vào tư cách chủ thể và
mục đích sử dụng để quy định thế nào là người tiêu dùng. Hầu hết theo hai quan
điểm sau:
Quan điểm thứ nhất (nghĩa hẹp): Người tiêu dùng là cá nhân mua và sử
dụng hàng hóa hoặc dịch vụ. Như vậy, người tiêu dùng bao gồm người mua hàng
hóa (mua lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, quần áo, thiết bị máy móc, đồ
dùng sinh hoạt, phương tiện đi lại...) và người sử dụng dịch vụ (dịch vụ bảo hiểm,
vận tải, vui chơi, giải trí, khám chữa bệnh, sửa chữa, lắp đặt thiết bị...). Cách quy
định này thể hiện rõ luật bảo vệ người tiêu dùng chỉ bảo vệ đối với người nhận hàng
hóa, dịch vụ để sử dụng cho mục đích cá nhân, sử dụng trong hộ gia đình, mà không
vì mục đích thương mại hoặc sử dụng vào quá trình sản xuất vì pháp nhân có những
vị thế và điều kiện tốt hơn so với cá nhân trong quan hệ với nhà cung cấp nên luật
bảo vệ người tiêu dùng không cần thiết phải can thiệp vào quan hệ tiêu dùng của họ.
Cụ thể, Trong bản Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng ban
hành từ năm 1985 và đã được hiệu chỉnh vào năm 1999, khái niệm người tiêu dùng
không được giải thích một cách rõ ràng. Tuy nhiên, theo bản hướng dẫn này người
tiêu dùng được hưởng 8 quyền sau đây: (i) Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ
bản, (ii) quyền được an toàn, (iii) quyền được thông tin, (iv) quyền được lựa chọn,
(v) quyền được lắng nghe, (vi) quyền được khiếu nại và bồi thường, (vii) quyền
được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng, (viii) quyền được có môi trường sống lành

mạnh và bền vững [1, Tr.33]. Xem xét tổng thể nội dung của 8 quyền, có thể thấy
rằng, đây chỉ có thể là các quyền mà chỉ chủ thể là cá nhân con người mới đầy đủ tư


7
cách để thụ hưởng. Nói cách khác, 8 quyền năng này không thể trao trọn vẹn cho
chủ thể là tổ chức. Điều này cũng có nghĩa rằng, trong quan niệm của bản Hướng
dẫn vừa nêu, người tiêu dùng chỉ được hiểu là cá nhân người tiêu dùng.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1993 của Trung Quốc tuy không
có điều khoản riêng giải thích khái niệm người tiêu dùng, nhưng tại Điều 2 của Luật
này có quy định: “Trường hợp người tiêu dùng, vì nhu cầu cuộc sống, mua, sử dụng
hàng hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được bảo vệ theo
quy định của Luật này và trường hợp Luật này không quy định thì sẽ được bảo vệ
theo các quy định khác có liên quan của pháp luật”[33]. Điều luật này đã ngụ ý,
người tiêu dùng theo quan niệm của pháp luật Trung Quốc chỉ là cá nhân (mua, sử
dụng hàng hóa, dịch vụ vì nhu cầu sinh hoạt của mình chứ không phải vì mục đích
kinh doanh hoặc hoạt động nghề nghiệp).
Các quy định về bảo vệ người tiêu dùng ở Hoa Kỳ được quy định trong pháp
luật của liên bang và pháp luật của các bang. Theo các chuyên gia pháp luật của
Hoa Kỳ, khái niệm người tiêu dùng cũng chỉ được quan niệm là cá nhân người tiêu
dùng. Cụ thể, “người tiêu dùng là cá nhân tham gia giao dịch với mục đích chủ yếu
vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh hoạt hộ gia đình.”[34]
Điều 3 của Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 của Malaysia giải thích:
“Người tiêu dùng là người mua hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ cho mục đích
sinh hoạt cá nhân hoặc sinh hoạt gia đình… và không gồm việc mua hoặc sử dụng
hàng hóa vì mục đích chính để bán lại hoặc đưa vào quá trình sản xuất hàng hóa,
dịch vụ khác hoặc để dùng cho việc sửa chữa, gắn thêm vào hàng hóa khác.”[35]
Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Thái Lan năm 1979 giải thích: “Người
tiêu dùng là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc được chào mua hàng hóa hoặc
dịch vụ từ một người kinh doanh, bao gồm người thực sự sử dụng hàng hóa, tiêu thụ

dịch vụ có nguồn gốc từ người kinh doanh mặc dù người này không trực tiếp trả
tiền cho việc sử dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch vụ đó”. Trong khi đó, cũng tại điều
khoản này, “người kinh doanh” được giải thích là người bán hàng, nhà sản xuất, nhà
nhập khẩu để bán hàng, người mua hàng để bán lại, người cung cấp dịch vụ, người
tiến hành việc quảng cáo.”[36]


8
Quan điểm thứ hai (nghĩa rộng): Người tiêu dùng bao gồm cả cá nhân và tổ
chức mua và sử dụng hàng hóa vì mục đích tiêu dùng hoặc mục đích thương mại.
Người tiêu dùng ngoài mục đích mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ để đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt thì còn có thể phục vụ cho mục đích tái sản xuất kinh doanh (mua sản
phẩm này để chế biến, sản xuất thành sản phẩm khác, ví dụ như mua vải để may
thành quần, áo và mang đi bán). Quan điểm này mở rộng về đối tượng được bảo vệ
theo luật bảo vệ người tiêu dùng. Trong số này, phải kể đến Ấn Độ và Đài Loan
(Trung Quốc). Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Ấn Độ năm 1986 có một số quy
định như sau (Điều 2(1d) và 2(1m)): Điều 2(1d): “Người tiêu dùng là bất cứ người
nào mua … hàng hóa… mà không có mục đích để bán lại hoặc vì mục đích thương
mại khác”. Điều 2(1m) giải thích chữ “người” (nhân) ở đây được hiểu bao gồm:
hãng (doanh nghiệp), cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ chức xã hội.[37]
Quy định này đã khắc phục được hạn chế của cách quy định trên vì không
phải lúc nào pháp nhân cũng là người đủ khả năng để đối mặt được với các vi phạm
từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả là nếu luật bảo vệ người tiêu dùng không
bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì quyền lợi của một nhóm đối
tượng khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho toàn xã hội.
Có thể nói, xu hướng chung mang tính thông lệ trong pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng ở các quốc gia trên thế giới (nhất là các quốc gia phát triển và các quốc
gia thuộc khu vực ASEAN) là người tiêu dùng là cá nhân mua sắm hàng hóa, dịch
vụ không nhằm mục đích hoạt động kinh doanh, thương mại hoặc hoạt động nghề
nghiệp chuyên nghiệp.

Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng thì: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục
đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Đây là định nghĩa phù hợp
với hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng.
Về quyền của người tiêu dùng, theo Nghị quyết số 39/248 ngày 09/4/1985
của Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua “Bản hướng dẫn bảo vệ Người tiêu
dùng”, thì người tiêu dùng có tám quyền cơ bản sau:
(i) Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản: Là quyền được cung cấp
những sản phẩm và dịch vụ cơ bản, thiết yếu như các nhu cầu về lương thực, thực


9
phẩm, quần áo, nhà ở, đi lại, giáo dục, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ
công cộng…;
(ii) Quyền được an toàn: Là quyền được bảo vệ để không phải sử dụng các
sản phẩm hàng hóa, quy trình sản xuất và dịch vụ nguy hại cho sức khỏe hoặc đời
sống của người tiêu dùng;
(iii) Quyền được cung cấp thông tin: Người tiêu dùng được quyền có các số
liệu và dữ liệu cần thiết để trên cơ sở đó lựa chọn, chống gian dối, lừa đảo, quảng
cáo, ghi nhãn không rõ ràng, không chân thực;
(iv) Quyền được lựa chọn: Người tiêu dùng được tự do lựa chọn sản phẩm và
dịch vụ có giá cả, chất lượng phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng;
(v) Quyền được đại diện: Người tiêu dùng được đưa ra các ý kiến với đại
diện của người tiêu dùng trong việc hoạch định các chính sách của Chính phủ trong
phát triển hàng hóa và dịch vụ;
(vi) Quyền được khiếu nại và bồi thường thiệt hại: Người tiêu dùng được
quyền khiếu nại với nhà sản xuất kinh doanh khi mua phải hàng hóa kém chất
lượng, không phù hợp và được giải quyết thỏa đáng những khiếu nại, được bồi
thường những thiệt hại do mua phải hàng hóa, dịch vụ không đúng cam kết của
doanh nghiệp, nhà sản xuất;

(vii) Quyền được giáo dục về tiêu dùng: Người tiêu dùng được quyền có
những kiến thức và kỹ năng cần thiết để yêu cầu được cung cấp thông tin, được
hướng dẫn sử dụng; có kiến thức để lựa chọn hàng hóa, dịch vụ; có kiến thức về các
quyền cũng như trách nhiệm của người tiêu dùng và cách thức thực thi các quyền và
trách nhiệm đó;
(viii) Quyền được sống trong một môi trường trong sạch và lành mạnh:
Người tiêu dùng có quyền sống và làm việc trong một môi trường không bị ô nhiễm
cả trong hiện tại và tương lai.
Các quốc gia đã căn cứ vào tám (8) quyền cơ bản của người tiêu dùng nêu
trong Bản hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng này của Liên Hợp quốc để thể chế hoá
thành văn bản pháp luật quốc gia phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, phong tục
tập quán cũng như đặc điểm riêng của quốc gia mình để đảm bảo quyền lợi của
người tiêu dùng được bảo vệ. Đồng thời, người tiêu dùng cũng có năm (5) trách


10
nhiệm: (i) Biết phê bình; (ii) Biết hành động; (iii) Quan tâm đến xã hội; (iv) Hiểu
biết về tiêu dùng; (v) Có ý thức cộng đồng cao.
Ở nước ta, quyền lợi của người tiêu dùng được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao, như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Thương
mại, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa,
Luật An toàn thực phẩm... Và đặc biệt là Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
(Điều 8) đã quy định cụ thể quyền của người tiêu dùng Việt Nam bao gồm:
- Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
- Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng
hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin
cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.

- Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia
giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả,
chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội
dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội
dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết,
quảng cáo hoặc cam kết.
- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo
vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật.
- Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.


11
1.1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ người tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có vai trò quan trọng, mang
tính quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, một thương hiệu. Có
thể nói, người tiêu dùng chính là động lực để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
và là trọng tâm của kế hoạch kinh tế. Nếu như sản phẩm làm ra mà không có người
tiêu thụ sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng thừa, nền kinh tế không phát triển và các
doanh nghiệp không thể tồn tại. Với xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học công nghệ, nhiều sản phẩm hữu ích cùng với phương thức kinh doanh
hiện đại đã ra đời và phát triển đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vì mục đích lợi nhuận nên một số doanh nghiệp, nhà sản

xuất đã vi phạm nghiêm trọng quyền lợi của người tiêu dùng khi đưa ra thị trường
các sản phẩm, hàng hóa không đảm bảo chất lượng, thậm chí có sản phẩm còn gây
nguy hại tới sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng.
Những vi phạm của nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ đối với người tiêu
dùng thường xảy ra như: Vi phạm về chất lượng hàng hóa, dịch vụ như lưu thông
hàng kém chất lượng, chất lượng hàng hóa không bảo đảm, vi phạm vệ sinh an toàn
thực phẩm (thường liên quan đến hàng giả, hàng nhái và hàng thật kém chất lượng)
và chất lượng dịch vụ không đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng (như các dịch vụ
về viễn thông, tài chính, bảo hiểm... với các loại hình internet, điện thoại, giao dịch
bằng thẻ ATM, chi trả tiền bảo hiểm...) chưa đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng của
người tiêu dùng. Vi phạm về bảo hành hàng hóa (chủ yếu là các sản phẩm điện tử,
điện lạnh, tin học). Nhiều doanh nghiệp đưa việc bảo hành hàng hóa nhằm làm yên
lòng người tiêu dùng hoặc quảng cáo cho sản phẩm của mình. Phiếu bảo hành sơ
sài, không quy định cụ thể và không có giá trị pháp lý, có nhiều doanh nghiệp đổ lỗi
cho người tiêu dùng để không chấp nhận bảo hành hoặc sửa chữa qua loa, hoặc kéo
dài thời gian sửa chữa làm cho người tiêu dùng mất công sức, tốn thời gian chờ đợi,
đi lại... Vi phạm về giá, định lượng của hàng hóa (như việc tăng giá sữa, giá gas, giá
thuốc... hoặc đong thiếu xăng, thiếu gas...). Quảng cáo khuyến mại không trung
thực, lừa dối người tiêu dùng (thường sử dụng các cụm từ “số 1 thế giới”, “chất
lượng tuyệt hảo”, “chuyên gia hàng đầu”, “bán giá gốc” hoặc “mua hàng có quà
tặng” hay “mua một tặng một”, “bốc thăm trúng thưởng”... Vi phạm quyền lựa chọn


12
của người tiêu dùng, thường thấy trong các hợp đồng cung cấp điện, nước, thông tin
truyền thông, tín dụng... trong các hợp đồng này nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ đã
soạn thảo sẵn hợp đồng, khách hàng chỉ việc ký và không có cơ hội để thỏa thuận
về những điều khoản trong hợp đồng (về giá, về bồi thường vi phạm hợp đồng...).
Không hướng dẫn cách sử dụng, bảo quản sản phẩm, hàng hóa dẫn đến người tiêu
dùng không biết cách bảo quản hàng hóa hoặc sử dụng sai mục đích ảnh hưởng đến

sự an toàn về tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng. Những vi phạm về quyền
lợi người tiêu dùng ngày càng gia tăng với mức độ nghiêm trọng (đặc biệt là các vi
phạm về chất lượng hàng hóa, gian lận định tính, định lượng...), đó là những hành vi
vi phạm đạo đức trong sản xuất kinh doanh, cần lên án, đấu tranh chống lại những
hành vi này nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng và lợi ích cho toàn
xã hội nói chung để xây dựng xã hội phát triển lành mạnh vì lợi ích cộng đồng.
1.1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng
Một là: Yếu tố lợi nhuận của các tổ chức sản xuất kinh doanh
Quan hệ kinh tế chủ yếu trong xã hội bên cạnh quan hệ giữa các nhà sản xuất
với nhau là quan hệ giữa NTD và nhà sản xuất kinh doanh. Là lực lượng hết sức
đông đảo, nhưng vì chưa nhận thức đầy đủ các quyền và trách nhiệm của mình,
không có đầy đủ kiến thức về mọi mặt và thường hành động riêng lẻ nên trong mối
quan hệ đó, NTD thường đứng ở thế yếu và chịu nhiều thiệt thòi. Để tăng lợi nhuận,
một số doanh nghiệp thường lợi dụng những khe hở của pháp luật, công tác quản lí
và lòng tin của NTD để thực hiện những hành vi, thủ đoạn gian dối như cung cấp
hàng hoá kém chất lượng, đưa ra thông tin nhầm lẫn, ép giá…Khi đó, NTD thường
mắc phải những sai lầm trong việc lựa chọn tiêu dùng và có nguy cơ sử dụng hàng
hoá, dịch vụ thiếu độ an toàn.
Hai là: Hệ thống pháp lý chưa đầy đủ và cơ chế quản lý thiếu chặt chẽ của
cơ quan có thẩm quyền
Một khi hệ thống pháp lý chưa đầy đủ sẽ tạo những kẽ hở cho các cơ sở sản
xuất, kinh doanh không chân chính thực hiện những hoạt động gây ảnh hưởng đến
NTD. Sự quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước và các cơ quan chức năng là rất
cần thiết trong vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Nếu thiếu sự tham gia này, quyền lợi
NTD sẽ rất dễ bị xâm phạm bởi vì không có đủ chế tài cũng như quy định để xử


13
phạt các trường hợp vi phạm. Theo đó, người sản xuất kinh doanh sẽ không ngần
ngại lách luật và có những hành động vi phạm tới quyền lợi NTD nhằm tối đa hoá

lợi nhuận.
Ba là: Sự hạn chế về kiến thức quyền lợi trong tiêu dùng cũng như cách thức
tiêu dùng của bản thân người tiêu dùng
Người tiêu dùng nói chung thường không có đủ kiến thức cũng như điều kiện
cần thiết để có thể nhận biết được hàng hoá, dịch vụ có thực sự tốt như những thông
tin được công bố hay không. Nói cách khác, NTD luôn ở vào vị trí bất lợi về thông
tin sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Chính vì những lý do trên, những nhà sản xuất,
cung ứng hoàng hoá dịch vụ có rất nhiều động cơ có thể gây tổn hại đến quyền lợi
NTD. Nếu sự quản lý của Nhà nước không đủ mạnh và không hiệu quả, thì quyền
lợi hợp pháp của NTD sẽ khó được đảm bảo.
1.1.2. Khái quát về hoạt động quảng cáo thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm quảng cáo thương mại
Hiện nay phần lớn các quốc gia trên thế giới không định nghĩa về “quảng cáo
thương mại” mà chủ yếu chỉ giải thích thuật ngữ “quảng cáo”. Điều này cũng dễ
hiểu vì theo pháp luật các nước, quảng cáo là hoạt động luôn gắn với yếu tố lợi
nhuận, mang tính thương mại và gắn liền với thương nhân, do vậy, không còn cái
gọi là “quảng cáo phi lợi nhuận”. Trong tiếng Anh, “quảng cáo” là từ “advertise”, từ
này xuất phát từ tiếng Latinh “adverture” có nghĩa là sự thu hút lòng người, sự gây
chú ý và viện dẫn, do đó từ “advertise” được giải nghĩa là sự gây chú ý ở người
khác, thông báo cho người khác một sự kiện gì đó [2, Tr.151]. Theo Từ điển tiếng
Việt, “quảng cáo là nói nhà buôn hay cơ quan kinh doanh làm cho mọi người biết
đến hàng của mình” [7, Tr.700]. Xét dưới góc độ học thuật, các nhà luật học phân
tách khái niệm quảng cáo và quảng cáo thương mại. Điều này xuất phát từ quan
niệm quảng cáo là một khái niệm rộng mà trong đó quảng cáo thương mại là một
loại hình quảng cáo. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý năm 2006,
thì “quảng cáo thương mại” được hiểu là “hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân nhằm giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ” [8, Tr.635].



14
Luật Thương mại 1997 đã từng định nghĩa về quảng cáo thương mại trong
Điều 186, theo quy định này, “quảng cáo thương mại là hành vi thương mại của
thương nhân nhằm giới thiệu hàng hoá để xúc tiến thương mại”. Tuy nhiên, quy
định này bộc lộ nhiều hạn chế trong nhận thức về hoạt động quảng cáo cũng như
hoạt động xúc tiến thương mại. Do đó, đến khi Luật Thương mại 1997 được thay
thế bằng Luật Thương mại 2005, định nghĩa này đã được sửa đổi theo hướng xác
định rõ quảng cáo thương mại là một hoạt động xúc tiến thương mại, cụ thể là:
“Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới
thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình” (Điều
102 Luật Thương mại 2005).
Xét về bản chất, quảng cáo thương mại là một hoạt động thương mại, do
thương nhân tiến hành và phải thông qua phương tiện quảng cáo và sản phẩm quảng
cáo. Vì vậy, ngoài các đặc điểm của quảng cáo, quảng cáo thương mại còn có
những đặc điểm riêng biệt:
Thứ nhất, quảng cáo thương mại trước hết là một hoạt động thương mại
Cũng như các hoạt động xúc tiến thương mại khác, quảng cáo thương mại là
một hoạt động mang tính bổ trợ, được thực hiện không phải để trực tiếp tiêu thụ
hàng hoá, dịch vụ mà chỉ đóng vai trò thúc đẩy nhóm hành vi mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ thương mại được thực hiện thường xuyên, liên tục. Do vậy, quảng
cáo thương mại thường không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho thương nhân (trừ
thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại), nhưng có thể nhận thấy
vai trò quan trọng của hoạt động bổ trợ này trong việc thúc đẩy hoạt động mua bán,
trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên thị trường diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn rất
nhiều. Nhờ vậy, thương nhân sẽ bán được nhiều hàng hoá, cung ứng được nhiều
dịch vụ hơn, từ đó lợi nhuận thu được sẽ tăng lên.
Thứ hai, quảng cáo thương mại là hoạt động thương mại do thương nhân
tiến hành
Thương nhân theo pháp luật Việt Nam bao gồm “tổ chức kinh tế được thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có

đăng ký kinh doanh” (Điều 6 Luật Thương mại 2005). Hoạt động quảng cáo thương
mại có thể do các thương nhân cung cấp hàng hoá, dịch vụ tự tiến hành để giới thiệu


15
về hàng hoá, dịch vụ của mình hoặc cũng có thể được tiến hành bởi các thương
nhân chuyên kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại theo yêu cầu của thương
nhân khác. So với Luật Thương mại năm 1997, chúng ta có thể nhận thấy, nội hàm
của khái niệm “thương nhân” theo Luật Thương mại 2005 đã được mở rộng bao
trùm lên toàn bộ những chủ thể có hoạt động thương mại. Điều này là cần thiết và
phù hợp với thông lệ quốc tế. Thương nhân tiến hành hoạt động quảng cáo thương
mại theo pháp luật Việt Nam được xác định bởi các tiêu chí: Có hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh, trong đó, “có hoạt
động thương mại” được coi là đặc điểm quan trọng và đặc trưng để phân biệt
thương nhân với các chủ thể khác. Tính chất “độc lập, thường xuyên” trong hoạt
động thương mại của thương nhân, tuy không được Luật Thương mại quy định cụ
thể, nhưng có thể hiểu rằng, khi hoạt động thương mại, thương nhân phải nhân danh
chính mình, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Thương nhân phải
hoạt động thương mại một cách thực tế, thường xuyên, liên tục và mang tính chất
nghề nghiệp. Bên cạnh các tiêu chí trên thì “có đăng ký kinh doanh” là một điều
kiện quan trọng để xác định chủ thể nào là thương nhân. Trên thế giới, luật pháp của
hầu hết các quốc gia đều quy định về đăng ký kinh doanh thương mại và xem đó là
yếu tố có tính bắt buộc đối với thương nhân. Tại Việt Nam, việc đăng ký kinh
doanh là yêu cầu bắt buộc đối với thương nhân. Nhà nước chỉ thừa nhận và bảo hộ
những thương nhân đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật.
Thứ ba, quảng cáo thương mại là hoạt động nhằm giới thiệu hàng hoá, dịch
vụ thông qua sản phẩm và phương tiện quảng cáo để xúc tiên thương mại
Thông qua quảng cáo thương mại, thương nhân sẽ truyền tải đến người tiêu
dùng những thông tin về hàng hoá, dịch vụ của mình để xúc tiến thương mại. Đây
được coi là mục đích có ý nghĩa lớn nhất của hoạt động quảng cáo thương mại.

1.1.2.2. Vai trò của quảng cáo thương mại trong nền kinh tế thị trường
Với sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế
thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có sự thay đổi về căn bản.
Hoạt động quảng cáo thương mại trở thành hoạt động vô cùng quan trọng, đóng vai
trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Bởi lẽ có bán
được hàng hoá hay không một phần phụ thuộc vào quảng cáo. Lịch sử ngành quảng


16
cáo đã chứng minh vai trò không thể thiếu và ngày càng quan trọng của quảng cáo
trong việc xây dựng thương hiệu, khẳng định vị thế của một doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Đặc biệt trong thời đại thông tin như hiện nay, quảng cáo là
phương tiện hữu hiệu nhất giúp tạo ra danh tiếng cho sản phẩm hay dịch vụ. Đó
cũng là lí do vì sao ngày nay các doanh nghiệp đều chú trọng đầu tư cho quảng cáo.
Cùng với sự phát triển của mình, quảng cáo không chỉ có ý nghĩa quan trọng
với một doanh nghiệp mà còn mang ý nghĩa ở tầm vĩ mô với một quốc gia. Về mặt
kinh tế, phải khẳng định rằng, ngành quảng cáo đang đóng góp một phần vào GDP
nhất là đối với một đất nước đang phát triển như Việt Nam. Sự phát triển của ngành
quảng cáo đem đến gia tăng trong các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như GDP, tổng lượng
nhu cầu lao động, tổng lượng xuất nhập khẩu hàng hoá… Tỉ lệ ngành quảng cáo
cũng gia tăng theo mức thu nhập. Khi thu nhập của người dân được nâng cao, nhu
cầu ăn no mặc ấm chuyển dần sang ăn ngon mặc đẹp, lúc này các sản phẩm đáp ứng
nhu cầu thay đổi của người dân sẽ đòi hỏi rất nhiều dịch vụ quảng cáo. Về mặt xã
hội, quảng cáo góp phần quảng bá văn hoá dân tộc và qua đó tuyên truyền hình ảnh
của một đất nước. Điều này xuất phát từ mục tiêu của quảng cáo là lôi cuốn và
thuyết phục khách hàng. Muốn vậy, sản phẩm quảng cáo phải dễ hiểu, dễ nhớ và tốt
nhất là gần gũi với quần chúng. Để làm được điều đó, một sản phẩm quảng cáo phải
mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Việt Nam cũng đã có rất nhiều công ty quảng
cáo thành công cho sản phẩm của mình khi nhấn mạnh yếu tố dân tộc như Bitis với
khẩu hiểu “Nâng niu bàn chân Việt”, Thánh Gióng (công ty máy tính giá rẻ) với

khẩu hiệu “đi cùng trí tuệ Việt Nam”… Trong lĩnh vực du lịch, càng phải nhấn
mạnh vai trò quảng bá văn hoá, thông qua quảng cáo Việt Nam đang xây dựng cho
mình hình ảnh một đất nước Việt Nam xinh đẹp, hoà bình với khẩu hiệu “Việt Nam
– một vẻ đẹp tiềm ẩn” hay “Hạ Long – kỳ quan thiên nhiên của thế giới”… Có thể
nói, trong thời đại toàn cầu hoá như hiện nay, quảng cáo đang phát triển vô cùng
mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Quảng cáo có mặt ở khắp nơi với tính chất
ngày càng hiện đại và ảnh hưởng sâu rộng. Việc nhận thức đúng đắn về vai trò của
quảng cáo sẽ giúp cho doanh nghiệp biết xây dựng chiến lược phát triển sản xuất
đúng đắn, quốc gia biết xây dựng chính sách và cơ cấu ngành thương mại hợp lí,
qua đó phát triển kinh tế trong nước, nâng cao đời sống nhân dân, củng cố vị thế
trên trường quốc tế.


17
1.1.3. Yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo
thương mại
Cuộc sống ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống của người dân không
ngừng được tăng lên và với nguồn tài chính ổn định, mọi người bắt đầu nghĩ đến
việc ăn ngon, mặc đẹp, sử dụng những sản phẩm tốt nhất. Nắm bắt được nhu cầu
này, các hãng sản xuất không ngừng tung ra thị trường những sản phẩm mới, những
chiến lược quảng cáo rầm rộ. Quảng cáo trở thành phương tiện không thể thiếu. Thế
giới quảng cáo ngày nay không còn bó hẹp trong các hình thức truyền thống mà đã
tận dụng mọi phương tiện để quảng bá cho sản phẩm. Điều này cũng cho thấy, trong
đời sống thường nhật, người tiêu dùng đang bị “bủa vây” bởi các sản phẩm quảng
cáo thương mại. Theo các chuyên gia quảng cáo, trung bình một người Việt Nam
hiện nhận được khoảng 3.000 thông điệp/ngày từ các quảng cáo, khuyến mãi sản
phẩm, thông tin từ truyền thông xã hội. Với một lượng thông tin khổng lồ tiếp nhận
hàng ngày, người tiêu dùng vô tình hay hữu ý đều là đối tượng tác động trực tiếp
của quảng cáo, chịu ảnh hưởng của quảng cáo theo cả hai hướng tích cực và tiêu
cực. Quảng cáo tác động đến người tiêu dùng cả về tâm lý, thị hiếu và hành vi ứng

xử trong cuộc sống.
Xét về mặt tích cực, quảng cáo thông tin đến người tiêu dùng biết đến những
sản phẩm có thương hiệu. Tùy từng lứa tuổi, giới tính, sở thích, nhu cầu…, khách
hàng dễ dàng tìm thấy cho mình loại sản phẩm phù hợp nhất. Quảng cáo tạo ra
nhiều sự lựa chọn cho khách hàng, qua đó sẽ thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp. Chất lượng, mẫu mã của sản phẩm ngày càng được quan tâm và khi
đó, khách hàng là đối tượng được hưởng những lợi ích từ sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với những quảng cáo có nội dung lành mạnh, phù hợp
văn hoá thuần phong mỹ tục, vai trò của quảng cáo lúc này không chỉ dừng lại ở
việc xây dựng thương hiệu, mà còn góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết văn hoá
xã hội, hướng họ đến những ứng xử xã hội tích cực như bảo vệ môi trường, sử dụng
năng lượng tiết kiệm…
Tuy nhiên, hiện nay tác động tiêu cực của quảng cáo đến người tiêu dùng lại
được quan tâm nhiều hơn. Để gây ấn tượng với người tiêu dùng, các nhà quảng cáo
không ngần ngại sử dụng mọi ý tưởng, mọi cách thức thể hiện đôi khi mang tính


18
phản cảm, miễn sao người tiêu dùng chú ý và ghi nhớ nội dung quảng cáo. Trên
truyền hình, phương tiện quảng cáo hữu hiệu nhất, nhiều sản phẩm quảng cáo xuất
hiện không đúng lúc, đúng chỗ, gây tâm lý khó chịu cho người xem. (Ví dụ: Quảng
cáo sản phẩm băng vệ sinh vào giờ ăn tối của các gia đình, quảng cáo sản phẩm
phòng tắm, phòng ngủ sử dụng hình ảnh không đẹp mắt). Trên mạng truyền thông,
tình trạng phát tán thư rác (spam) trong các email cá nhân, các tin nhắn trong điện
thoại di động…, khiến người tiêu dùng trở thành “khổ chủ” phải nhận những quảng
cáo không mong muốn. Đối với quảng cáo ngoài trời, những tấm biển quảng cáo cỡ
lớn được đặt ở những nơi công cộng, nơi điểm nút giao thông với những hình ảnh
phản cảm, không những không phát huy hiệu quả mà còn gây khó chịu cho người đi
đường, gây ách tắc giao thông… Đó là những tác động tiêu cực ở mức độ thấp của
quảng cáo. Ở mức độ ảnh hưởng nặng hơn, quảng cáo tác động mạnh đến tâm lý,

hành vi ứng xử của giới trẻ. Những quảng cáo mang tính bạo lực, giới tính sẽ tác
động không tốt đến nhận thức các em dẫn đến những hành vi ứng xử sai lệch của
đối tượng này.
Ngoài ra, nội dung của sản phẩm quảng cáo cũng tác động tiêu cực đến
người tiêu dùng. Người tiêu dùng có thể là nạn nhân của những quảng cáo không
trung thực khi mua phải những sản phẩm không đúng chất lượng quảng cáo, đắt hơn
giá trị thực tế hoặc hàng khuyến mại giá trị thấp…, chỉ vì họ tin vào những lời
quảng cáo hoa mỹ. Tác động xấu nhất của quảng cáo là những quảng cáo hàng giả,
hàng nhái khiến người tiêu dùng bị mắc lừa và việc sử dụng những sản phẩm giả
nguy hiểm như thuốc, thực phẩm, mỹ phẩm còn gây nguy hại đến sức khoẻ, tính
mạng của người tiêu dùng. Những tác động của quảng cáo đã đặt ra yêu cầu cấp
thiết phải bảo vệ người tiêu dùng bằng mọi biện pháp, trước hết bằng pháp luật.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
1.2.1. Điều chỉnh pháp luật đối với bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt
động quảng cáo thương mại
Ở Việt Nam, trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay, vấn đề bảo vệ người tiêu
dùng được đặt ra một cách cấp thiết. Cũng như các ngành kinh tế khác của nền kinh


19
tế thị trường đang ngày càng tác động đến đời sống người tiêu dùng, quảng cáo
thương mại cần được điều chỉnh bằng pháp luật một cách mạnh mẽ hơn nhằm bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Hoạt động quảng cáo thương mại và yêu cầu bảo
vệ người tiêu dùng được điều chỉnh trong các văn bản pháp luật về quảng cáo, về
bảo vệ người tiêu dùng và các văn bản khác có nội dung liên quan.
Ở nước ta hiện nay, quảng cáo thương mại vẫn được coi là một trong các
hoạt động quảng cáo nói chung bên cạnh các hoạt động quảng cáo phi thương mại.
Quảng cáo thương mại được điều chỉnh bởi hai văn bản luật là Luật Thương mại

2005 và Luật Quảng cáo 2012 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể là
Nghị định số 37/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/04/2006 quy định chi tiết
Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại; Nghị định số 181/2013/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 14/11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Quảng cáo; Thông tư số 10/2013/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du
lịch ngày 06/12/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật
Quảng cáo và Nghị định số 181/2013/NĐ-CP của Chính phủ…
Nội dung của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động
quảng cáo thương mại được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về quảng cáo và
các văn bản pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Đólà Luật Bảo vệ người tiêu dùng
năm 2010; Nghị định số 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/10/2011 Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng; Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả,
hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Riêng đối với lĩnh vực kiểm soát
hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung còn có hai văn bản là Quyết định số
02/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục hàng hóa,
dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung và
Thông tư số 10/2013/TT-BCT về ban hành mẫu đơn đăng ký hợp đồng theo mẫu,
điều kiện giao dịch chung… Ngoài ra, đối với những lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ
khác nhau, vấn đề này còn được quy định tại các văn bản pháp luật liên quan khác
như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Cạnh tranh, Luật Đo lường, Luật Chất
lượng sản phẩm hàng hoá, Pháp lệnh Thú y…


20
1.2.2. Nội dung pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động quảng
cáo thương mại
Tùy theo quan niệm của từng quốc gia mà pháp luật về bảo vệ NTD trong
hoạt động quảng cáo thương mại có nội dung điều chỉnh khác nhau. Tuy nhiên, về

cơ bản thì pháp luật bảo vệ NTD trong hoạt động quảng cáo thương mại tập trung
quy định những vấn đề sau:
Một là: Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng trong quảng cáo
thương mại
Đây được coi là một trong những nội dung quan trọng nhất của pháp luật bảo
vệ NTD nói chung và bảo vệ quyền lợi NTD trong quảng cáo thương mại nói riêng.
Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của NTD theo Tổ chức quốc tế NTD (CI) và Bản
hướng dẫn của Liên Hợp quốc về bảo vệ NTD là: Quyền được an toàn; Quyền được
thông tin; Quyền được lựa chọn; Quyền được lắng nghe ý kiến; Quyền được thoả
mãn những nhu cầu cơ bản; Quyền được đền bù; Quyền được giáo dục và Quyền
được sống trong môi trường trong lành. Điều 8 và Điều 9 Luật Bảo vệ quyền lợi
NTD năm 2010 của Việt Nam đã quy định các quyền và nghĩa vụ của NTD, đây
cũng là những quyền và nghĩa vụ cơ bản của người tiêu dùng trong mối quan hệ
giữa các chủ thể quảng cáo thương mại. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của
NTD là những nguyên tắc góp phần xây dựng khuôn mẫu về bảo vệ quyền lợi NTD
cho các văn bản khác, nhằm giúp cho việc bảo vệ quyền lợi NTD của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền được phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ nhất.
Hai là: Quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh và bên thứ ba
đối với người tiêu dùng trong quảng cáo thương mại
Ở khía cạnh bảo vệ quyền lợi NTD, pháp luật về quảng cáo đặt ra hai vấn đề
cơ bản là: (i) Đảm bảo thông tin quảng cáo về hàng hoá, dịch vụ phải trung thực và
(ii) Ngăn ngừa những hành vi nói xấu, hạ thấp uy tín của đối thủ cạnh tranh. Tác
dụng của sự điều chỉnh này chính là đảm bảo khá năng nhận biết về chất lượng thật
sự của hàng hoá, dịch vụ và từ đó đảm bảo quyền được lựa chọn thực sự của NTD.
Theo đó, trách nhiệm được đặt ra đối với những chủ thể sau:
- Trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động quảng cáo thương mại của các
cơ quan có thẩm quyền;



×