Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.19 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SOUKNILANH SENGPHACHANH

CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT NƯỚC CHDCND LÀO- THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN

HÀ NỘI- 2015


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình thạc sĩ luật học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người
hướng dẫn khoa học TS. Vũ Đặng Hải Yến, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ


bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Souknilanh SENGPHACHANH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực.
Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Souknilanh SENGPHACHANH


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHNCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước


NSNN

: Ngân sách nhà nước

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT NƯỚC CHDCND LÀO

5

1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật nước CHDCND Lào
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp nhà nước
1.1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

5
5
19

1.2. Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo
quy định của pháp luật nước CHDCND Lào

27

1.2.1. Mục tiêu và nguyên tắc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

27

1.2.2. Đối tượng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

32

1.2.3. Hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

35

1.2.4. Trình tự, thủ tục cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

36

1.2.5. Chính sách đối với các vấn đề phát sinh sau cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước

44

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI NƯỚC
CHDCND LÀO

47

2.1. Thực trạng pháp luật, thực thi pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước tại nước CHDCND Lào

47


2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước

47

2.1.2. Thực trạng thực thi pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước

53

2.2. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, thực thi pháp luật
về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại nước CHDCND Lào

58


2.2.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật, thực thi pháp luật về cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước

58

2.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, thực thi pháp luật về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước

60

KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

70


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Với quyết tâm xây dựng nền hàng hóa nhiều thành phần, định hướng
XHCN có đặc trưng là đa dạng hóa các loại hình sở hữu, trong đó kinh tế nhà
nước đóng vai trò chủ đạo được Đại hội lần thứ V Đảng Nhân dân cách mạng
Lào năm 1986 đưa ra nền kinh tế- xã hội Lào đã chuyển mình mạnh mẽ. Sau
hơn 20 năm thực hiện chủ trương này, nền kinh tế Lào đã có nhiều thay đổi
vượt bậc, từ một nền kinh tế tập trung, quan liên bao cấp sang nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN; kinh tế nhà nước giữ vị trí chủ đạo, là công cụ
điều tiết và quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô; vị trí và vai trò của các thành phần
kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân được khẳng định và không ngừng đóng
góp cho sự phát triển kinh tế- xã hội ở nước CHDCND Lào.
Từ thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, định hướng XHCN của nước CHDCND Lào thời gian qua đã cho thấy:
Khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư của Nhà nước,
trong khi đó, các DNNN hoạt động trong khu vực kinh tế này lại không mạng
lại hiệu quả cao nhưng lại nắm giữ độc quyền nhiều lĩnh vực kinh tế quan
trọng, lấn áp vai trò của các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Thực trạng đó đã đòi hỏi Đảng, Nhà nước, Chính phủ Lào phải cải tổ, sắp xếp
lại khu vực kinh tế nhà nước; các DNNN với nhiều biện pháp, cách thức khác
nhau, trong đó có cổ phần hóa DNNN.
Cổ phần hóa DNNN ở nước CHDCND Lào mới chỉ thực sự bắt đầu được
thực hiện vào những năm đầu của thế kỷ XXI nên nó còn khá mới mẽ và chưa
có nhiều dấu ấn rõ nét. Sở dĩ có thực trạng này là do pháp luật về cổ phần hóa
DNNN chưa thực sự hoàn thiện; thực pháp luật cổ phần hóa DNNN chưa có
hiệu quả một phần do thiếu kinh nghiệm dẫn đến lúng túng trong việc thực hiện.
Trong khi đó, cổ phần hóa DNNN đã được thực hiện ở các nước TBCN
từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ở các nước XHCN như Việt Nam, Trung
Quốc thì từ những năm cuối 90 của thế kỷ XX và đã chứng tỏ cổ phần hóa


2

DNNN là một trong những phương thức hiệu quả để nâng cao hiệu quả hoạt
động của khu vực kinh tế nhà nước cũng như trong xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Chính vì vậy, cổ phần hóa DNNN ở nước CHDCND Lào còn khá mới
mẻ, chưa có nhiều hiệu quả trong thực tiễn thi hành, nên nó đã thu hút sự

tham gia nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế, pháp lý; cũng như các thành
phần kinh tế- xã hội khác.
Từ thực tiễn cấp thiết trên và vốn kiến thức có được trong quá trình học
tập, làm việc, tác giả nhận thấy việc tiếp tục nghiên cứu về pháp luật và thực
thi pháp luật cổ phần hóa DNNN có ý nghĩa kinh tế- xã hội và pháp lý rất lớn
đối với nước CHDCND Lào. Đó là lý do tác giả chọn đề tài: “Cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật nước CHDCND LàoThực trạng và giải pháp” để hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học
tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cưu về cổ phần hóa DNNN ở Lào là một lĩnh vực mà các tác
giả chủ yếu tập trung nghiên cứu dưới góc độ kinh tế, góc độ chính sách. Còn việc
nghiên cứu cổ phần hóa DNNN dưới góc độ pháp lý và thực thi pháp luật cổ phần
hóa DNNN thì chưa thực sự nhiều. Tuy nhiên, có thể liệt kê một số công trình
nghiên cứu về cổ phần hóa DNNN ở Lào dưới góc độ lý sau đây:
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Những vấn đề pháp lý cơ bản về cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào” của
Xaykham VANNAXAY được thực hiện ở Trường Đại học Luật Hà Nội năm
2007. Điểm được của công trình nghiên cứu này là đã tiếp cận cổ phần hóa
DNNN ở nước CHDCND Lào dưới góc độ pháp lý nhưng điểm chưa được
của công trình nghiên cứu này là chỉ tiếp cận về mặt lý luận pháp lý, chưa chú
trọng đến thực tiễn thi hành pháp luật về cổ phần hóa DNNN và được nghiên
cứu trong giai đoạn Lào chưa gia nhập WTO.


3

- Luận văn thạc sĩ luật học: “Tổ chức quản lý công ty nhà nước theo
pháp

luật


Cộng

hòa

dân

chủ

nhân

dân

Lào”

của

Daochay

HAOPHOMMASENG được thực hiện ở Trường Đại học Luật Hà Nội năm

2013. Tuy nhiên, có thể thấy công trình nghiên cứu chủ yếu tiếp cận về pháp
luật quản lý công ty nhà nước ở nước CHDCND Lào, cổ phần hóa DNNN chỉ
là một nội dung nhỏ trong công trình nghiên cứu đó.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về cổ phần hóa DNNN ở nước CHDCND
Lào dưới góc độ pháp lý vẫn còn là một lỗ hổng khoa học lớn, cần các nhà nghiên
cứu pháp lý tiếp tục khai thác, nghiên cứu và luận văn này với việc nghiên cứu
tổng thể về cả pháp luật và thực thực thi pháp luật về cổ phần hóa DNNN ở nước
CHDCND Lào với hy vọng sẽ lấp đầy lỗ hổng khoa học pháp lý đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ

* Về mục đích: Từ việc tìm hiểu lý luận về DNNN, cổ phần hóa
DNNN, đến tìm hiểu các nội dung và so sánh pháp luật về cổ phần hóa
DNNN của pháp luật Lào với pháp luật Việt Nam, đến đánh giá thực trạng
pháp luật và thi hành pháp luật về cổ phần hóa DNNN ở nước CHDCND Lào,
tác giả xây dựng một hệ thống các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
và thực thi pháp luật về cổ phần hóa DNNN tại nước CHDCND Lào trong
thời gian tới. Đây chính là mục đích nghiên cứu mà luận văn đặt ra.
* Về nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn phải thực
hiện các nhiệm vụ sau: (i) Tìm hiểu lý luận về DNNN, cổ phần hóa DNNN;
(ii) tìm ra những nguyên nhân gây ra những hạn chế trong pháp luật và thực
thi pháp luật về cổ phần hóa DNNN tại nước CHDCND Lào; (iii) So sánh và
xây dựng giải pháp hoàn thiện pháp luật, thực thi pháp luật cổ phần hóa
DNNN nước CHDCND Lào.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do là một lĩnh vực pháp lý có phạm vi nghiên cứu rộng nên phạm vị
nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào những quy định pháp luật hiện
hành và thực tiễn thực thi pháp luật về cổ phần hóa DNNN ở nước CHDCND


4

Lào trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2014. Ngoài ra, luận văn còn có
những nội dung về cổ phần hóa DNNN của Việt Nam trong sự so sánh với
pháp luật cổ phần hóa DNNN của nước CHDCND Lào.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng rất nhiều các phương pháp
nghiên cứu khoa học, cũng như kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa
học với nhau. Đó là: Phương pháp biện chứng duy vật của Chủ nghĩa MácLênin để nghiên cứu đề tài có tính tiến trình lịch sử, mối quan hệ qua lại giữa
lý luận và thực tiễn thi hành cổ phần hóa DNNN tại nước CHDCND Lào. Bên
cạnh đó còn là các phương pháp như: Phương pháp phân tích để phân tích,

đánh giá các quy định pháp luật; phương pháp tổng hợp để tổng hợp các kết
quả của thực tiễn thi hành pháp luật; phương pháp diễn giải- quy nạp để trình
bày các nội dung cụ thể; phương pháp so sánh để so sánh quy định pháp luật
về cổ phần hóa DNNN của Lào với Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn khi được hoàn thành sẽ đóng góp những điểm mới về lý luận
pháp lý như sau: (i) Hệ thống hóa các quy định pháp luật về cổ phần hóa
DNNN của nước CHDCND Lào; (ii) Thực trạng thi hành pháp luật về cổ
phần hóa DNNN tại nước CHDCND Lào giai đoạn 2002-2014; (iii) Hệ thống
các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật về cổ
phần hóa DNNN tại nước CHDCND Lào trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh, phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo. Để bảo đảm về kết cấu, tính hợp lý, liên tục của nội dung, luận văn
được chia làm 02 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước theo quy định của pháp luật nước CHDCND Lào;
Chương 2. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, thực thi pháp
luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại nước CHDCND Lào.


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT NƯỚC CHDCND LÀO
1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật nước CHDCND Lào
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước

* Khái niệm DNNN
Trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước tham gia vào lĩnh vực này ở tư cách
khác nhau: (i) Tư cách nhà quản lý kinh tế; (ii) Tư cách là nhà đầu tư. Ở tư
cách nhà quản lý kinh tế, Nhà nước sẽ hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô,
pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế, tạo dựng môi trường đầu tư, điều
tiết các hoạt động kinh tế theo đúng định hướng, chiến lược để bảo đảm nền
kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững. Trong việc thực hiện chức năng
quản lý kinh tế, Nhà nước sử dụng rất nhiều công cụ khác nhau như: Mệnh
lệnh, quyết định hành chính; pháp luật… Trong tư cách là nhà đầu tư vào lĩnh
vực kinh tế, Nhà nước sử dụng ngân sách để thành lập các DNNN hoặc đầu tư
vốn vào cách doanh nghiệp trong khu vực tư nhân để thực hiện các mục tiêu
chính trị- xã hội bên cạnh mục tiêu lợi nhuận [8, tr. 22-23].
Vậy thì thực chất DNNN là gì? Có thể hiểu DNNN là những cơ sở kinh tế
(sản xuất, kinh doanh hàng hóa; cung ứng dịch vụ) do Nhà nước sở hữu hoàn
toàn hoặc sở hữu một phần đủ để chi phối trong quản lý, điều hành. Như vậy,
quyền sở hữu là yếu tố quyết định để phân biệt DNNN với các doanh nghiệp
khác ở khu vực kinh tế tư nhân. Nhưng DNNN không phải là cơ quan hành
chính nhà nước, bởi DNNN được thành lập là để kinh doanh vì mục đích lợi
nhuận hay vì mục tiêu chính trị- xã hội khác. Ngoài ra, quyền chi phối về quản
lý, điều hành của Nhà nước trong DNNN là đặc điểm để phân biệt loại hình
doanh nghiệp này với các loại hình doanh nghiệp khác mà Nhà nước chỉ góp
một lượng vốn nhỏ không đủ để chi phối, điều hành doanh nghiệp đó.


6

Trên thế giới, các nền kinh tế của các quốc gia tồn tại ở nhiều cấp độ
khác nhau, vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế cũng rất khác nhau nhưng
hầu như tất cả các quốc gia đều thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế nhà
nước cũng như loại hình DNNN trong nền kinh tế quốc dân. Nếu như ở thời

điểm đầu trong quá trình hình thành và phát triển của loại hình DNNN thì các
DNNN chủ yếu hoạt động vì các mục tiêu kinh tế- xã hội, hoặc giữ vị trí trung
tâm trong điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Điều là đặc trưng của loại hình DNNN
ở các nước chậm phát triển, đang phát triển như Việt Nam, Lào… Dần dần,
loại hình DNNN chuyển sang hoạt động vì mục đích lợi nhuận, đóng góp cho
NSNN nhưng bên cạnh đó DNNN vẫn hoạt động vì những mục tiêu chính trịxã hội để bảo đảm chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế- xã hội.
Trong một báo cáo của Đại hội đồng Liên hợp quốc được đưa ra vào
năm 1985, đã định nghĩa về DNNN như sau: “Doanh nghiệp nhà nước là
những doanh nghiệp do Nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và Nhà
nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định của doanh
nghiệp”. Ở định nghĩa này, Liên hợp quốc đã sử dụng hai tiêu chí để định
nghĩa về DNNN đó là: (i) Tiêu chí về sở hữu của Nhà nước trong doanh
nghiệp đó là sở toàn phần hoặc một phần; (ii) Tiêu chí về sự kiểm soát hay
nói cách khác là Nhà nước có vị trí quyết định trong quá trình quản lý, điều
hành doanh nghiệp đó [5, tr. 15].
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia lại có sự khác nhau trong việc sử dụng các tiêu
chí để định nghĩa về DNNN. Có quốc gia lựa chọn tiêu chí về mục đích, hình
thức; có quốc gia lại lựa chọn tiêu chí về lý do thành lập, cơ cấu tổ chức; có quốc
gia lại lựa chọn tiêu chí quyền sở hữu của Nhà nước để định nghĩa về DNNN.
Ở nước CHDCND Lào thì định nghĩa về DNNN được quy định tại Điều
191 của Luật doanh nghiệp do Quốc hội Lào ban hành ngày 09 tháng 11 năm
2005 như sau: “Doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị kinh doanh của Nhà
nước được thành lập và đâu tư hoặc liên doanh với các thành phần kinh tế
khác, với số vốn của Nhà nước trên 50% trở lên”. Như vậy, pháp luật Lào định


7

nghĩa về DNNN bằng việc sử dụng tiêu chí về quyền sở hữu vốn trong DNNN
đó. Do vậy, định nghĩa này là chưa phản ánh được một trong những đặc trưng

cơ bản nhất của DNNN là quyền quản lý, điều hành của Nhà nước đối với
DNNN đó. Tuy nhiên, đây cũng là một sự thay đổi rất lớn và cụ thể so với định
nghĩa về DNNN trong Sắc lệnh số 92/SL năm 1954 của Chủ tịch nước. Trong
Sắc lệnh này, DNNN ở Lào được gọi tên là “Xí nghiệp quốc doanh” và được
định nghĩa: “Xí nghiệp quốc doanh là xí nghiệp thuộc quyền sở hữu của quốc
gia, do Chính phủ quản lý. Sự thay đổi ở đây là định nghĩa về DNNN trong
Luật Doanh nghiệp 2005 đã liệt kê hai hình thức tồn tại của DNNN dựa vào
tiêu chí về quyền sở hữu vốn của Nhà nước trong doanh nghiệp đó: (i) Hình
thức Nhà nước sở hữu 100% phần vốn góp trong DNNN; (ii) Hình thức Nhà
nước sở hữu từ 50% trở lên phần vốn góp trong DNNN [2, tr. 7-8].
Ở Việt Nam, định nghĩa về DNNN được quy định trong Điều 1 Luật số
14/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 về doanh nghiệp nhà nước:
“Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty
nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Tuy nhiên, đến Luật
số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 về doanh nghiệp thì định nghĩa
về DNNN được xây dựng lại một cách đơn giản hơn. Tại khoản 8 Điều 4 Luật
này quy định: “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ”. Sự thay đổi ở đây là DNNN ở Việt Nam là doanh nghiệp
do Nhà nước nắm 100% vốn điều lệ, chứ không còn là doanh nghiệp do mà
Nhà nước có cổ phần, vốn góp chi phối. Ngoài ra, trong định nghĩa mới này
cũng không liệt kê các hình thức tồn tại của DNNN như Luật Doanh nghiệp
nhà nước năm 2003.
Như vậy, so với định nghĩa về DNNN trong Luật Doanh nghiệp 2005
của nước CHDCND Lào thì định nghĩa về DNNN của pháp luật Việt Nam
cũng sử dụng tiêu chí về quyền sở hữu của Nhà nước để định nghĩa về DNNN.
Tuy nhiên, định nghĩa về DNNN theo pháp luật hiện hành của Việt Nam chỉ


8


thừa nhận là DNNN khi Nhà nước năm 100% vốn điều lệ trong doanh nghiệp
đó. Trong khi đó, pháp luật hiện hành của nước CHDCND Lào coi DNNN là
doanh nghiệp mà Nhà nước năm từ trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó.
Ngoài ra, định nghĩa về DNNN của cả hai quốc gia đều không đề cập đến các
vấn đề về mục đích hoạt động, lý do thành lập, quyền quản lý và điều hành của
Nhà nước trong DNNN do hai định nghĩa này chỉ sử dụng tiêu chí về sở hữu
vốn của Nhà nước để định nghĩa về DNNN [3, tr. 11].
* Đặc điểm của DNNN
Từ định nghĩa về DNNN theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005
của nước CHDCND Lào có thể chỉ ra một số đặc điểm của DNNN ở
CHDCND Lào như sau:
- Thứ nhất, về hình thức sở hữu. DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước
sở hữu toàn bộ hoặc một phần số vốn điều lệ dưới dạng cổ phần hoặc phần
vốn chi phối tại các liên doanh với các thành phần kinh tế tư nhân khác. Đối
với DNNN do Nhà nước thành lập thì Nhà nước sẽ nắm 100% vốn điều lệ của
doanh nghiệp đó. Đối với các liên doanh thì Nhà nước sẽ góp vốn bằng cách
mua cổ phần, góp vốn chi phối trên 50% vốn điều lệ để nắm quyền quản lý,
điều hành doanh nghiệp đó. Do vậy, đây vẫn được xếp vào loại hình DNNN
theo quy định của pháp luật nước CHDCND Lào. Đây là đặc điểm nổi bật
giúp phân biệt DNNN với các doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật
doanh nghiệp hiện hành của nước CHDCND Lào hiện nay [2, tr. 9].
- Thứ hai, về quyền quyết định, quyền chi phối hoạt động quản lý, sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. DNNN theo quy định của Luật Doanh
nghiệp 2005 nước CHDCND Lào có đặc điểm là Nhà nước thông qua các đại
diện của mình, có thể là tổ chức hoặc cá nhân do Nhà nước chỉ định làm đại
diện sẽ thay mặt Nhà nước trong DNNN đó để nắm quyền quyết định, quyền
chi phối hoạt động quản lý, sản xuất, kinh doanh của DNNN đó. Đó là quyền
quyết định trong các vấn đề như: Tăng, giảm vốn điều lệ; bổ nhiệm, miễn
nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quan trọng của DNNN; quyền tổ chức quản



9

lý; quyền đưa ra các quyết định liên quan đến các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của DNNN [4, tr 10].
- Thứ ba, về tư cách pháp lý và trách nhiệm tài sản của DNNN. Theo
quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 nước CHDCND Lào thì DNNN
có tư cách pháp nhân. Tức là, DNNN có thể nhân danh mình tham gia các
quan hệ pháp luật. DNNN có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình- chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn. Ngoài ra, DNNN thực
hiện chế độ hoạch toán độc lập, lấy thu bù chi. Tất cả những nội dung trên
đều thể hiện một đặc điểm là DNNN có tư cách độc lập và độc lập về kinh tế
đối với Nhà nước.
- Thứ tư, về hình thức tồn tại của DNNN. DNNN theo quy định của
Luật Doanh nghiệp 2005 nước CHDCND Lào được tổ chức dưới nhiều hình
thức khác nhau, đó có thể là Công ty nhà nước (hiện tại đã bỏ loại hình này);
Công ty cổ phần nhà nước; Công ty TNHH nhà nước một thành viên; Công ty
TNHH nhà nước hai thành viên trở lên.
Như vậy, trên đây là bốn đặc điểm nổi bật nhất của DNNN theo quy
định của Luật Doanh nghiệp nước CHDCND Lào. Trong đó, đặc điểm về
hình thức sở hữu là đặc điểm quan trọng nhất giúp phân biệt DNNN với các
loại hình doanh nghiệp khác ở khu vực kinh tế tư nhân.
* Phân loại DNNN
Việc phân loại DNNN ở các quốc gia được thực hiện dựa trên rất nhiều
các tiêu chí khác nhau. Nếu xét ở cơ cấu thành phần sở hữu thì có: (i) DNNN
một chủ sở hữu- DNNN do Nhà nước làm chủ sở hữu duy nhất; (ii) DNNN đa
chủ sở hữu- Loại hình DNNN có nhiều chủ sở hữu, trong đó Nhà nước là chủ
sở hữu nắm quyền chi phối về quản lý, điều hành dựa trên cơ sở vốn góp của
Nhà nước vượt trội hơn các chủ sở hữu khác;…

Ở nước CHDCND Lào, các nhà làm luật thường sử dụng tiêu chí về
tính chất của sở hữu, trách nhiệm pháp lý, quy mô, ngành nghề và tính chất
sản phẩm để phân loại DNNN. Cụ thể như sau:


10

- Thứ nhất, dựa theo tính chất sở hữu. Theo tính chất này thì DNNN
được chia làm hai loại là: (i) DNNN đơn chủ, tức là Nhà nước là chủ sở hữu
duy nhất, nắm 100% số vốn điều lệ của DNNN đó; (ii) DNNN đa chủ, tức là
Nhà nước sẽ liên doanh với các cá nhân, tổ chức khác để thành lập DNNN
nhưng trong đó, vốn góp của Nhà nước là chủ yếu (thường là trên 50% vốn
điều lệ) để hình thành nên DNNN đó [5, tr 17].
- Thứ hai, theo tính chất pháp lý của DNNN. Theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2005 nước CHDCND Lào thì DNNN tồn tại dưới các hình thức
sau: Công ty cổ phần nhà nước, Công ty TNHH nhà nước một thành viên,
công ty TNHH nhà nước hai thành viên trở lên [5, tr.17].
- Thứ ba, theo quy mô của DNNN. Dựa vào các tiêu chí như số vốn điều
lệ, doanh số kinh doanh, số lượng lao động, DNNN được chia thành: DNNN có
quy mô lớn, DNNN có quy vừa và DNNN có quy mô nhỏ [5, tr.17].
- Thứ tư, dựa vào ngành nghề và tính chất sản phẩm. Dựa vào tiêu chí
này, DNNN được chia thành: DNNN là doanh nghiệp sản xuất hàng hóa;
DNNN là doanh nghiệp cung ứng dịch vụ; DNNN hỗn hợp, tức là vừa sản
xuất hàng hóa vừa cung ứng dịch vụ [5, tr.17] .
* Các hình thức tổ chức DNNN
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 nước CHDCND Lào
thì DNNN tồn tại dưới các hình thức tổ chức như: Công ty cổ phần nhà nước,
Công ty TNHH nhà nước một thành viên, Công ty TNHH nhà nước hai thành
viên trở lên.
- Công ty cổ phần nhà nước. Hiện tại, pháp luật nước CHDCND Lào

hiện hành chưa có định nghĩa về Công ty cổ phần nhà nước. Do vậy, dựa theo
khái niệm về Công ty cổ phần của Luật Doanh nghiệp 2005 nước CHDCND
Lào và đặc điểm của DNNN có thể định nghĩa về Công ty cổ phần nhà nước
như sau: Công ty cổ phần nhà nước là công ty mà cổ đông bao gồm Nhà
nước, các cá nhân, tổ chức khác. Trong đó, Nhà nước nắm phần lớn cổ phần
của công ty, cũng như nắm quyền quản lý và điều hành công ty [2, tr. 16].


11

- Công ty TNHH nhà nước một thành viên. Cũng như Công ty cổ phần
nhà nước thì Công ty TNHH nhà nước một thành viên chưa được định nghĩa.
Dựa vào quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 về Công ty TNHH một thành
viên có thể định nghĩa về Công ty ty TNHH nhà nước một thành viên như
sau: Công ty TNHH do Nhà nước nắm toàn bộ vốn điều lệ, tổ chức và hoạt
động theo quy định của Luật doanh nghiệp [2, tr. 17].
- Công ty TNHH nhà nước hai thành viên trở lên. Hiện tại vẫn chưa có
định nghĩa về Công ty TNHH nhà nước hai thành viên trong các văn bản pháp
luật hiện hành của CHDCND Lào. Do vậy, dựa vào quy định của Luật Doanh
nghiệp 2005 của nước CHDCND Lào về Công ty TNHH hai thành viên trở
lên có thể định nghĩa về Công ty TNHH nhà nước hai thành viên như sau:
Công ty TNHH có số lượng từ hai đến không quá năm mươi thành viên do
Nhà nước làm chủ sở hữu. Ngoài Nhà nước, thành viên của công ty là các tổ
chức, cá nhân. Công ty TNHH nhà nước hai thành viên được tổ chức và hoạt
động theo quy định của Luật Doanh nghiệp [2, tr.17].
1.1.1.2. Quá trình hình thành và vai trò của doanh nghiệp nhà nước
* Quá trình hình thành và vai trò DNNN
Mặc dù, khu vực kinh tế Nhà nước được hầu hết các quốc gia trên thế
giới thừa nhận nhưng DNNN là loại hình doanh nghiệp đặc trưng của nền
kinh tế các nước XHCN. Tuy nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của

DNNN không xuất phát từ nền kinh tế của các nước XHCN mà nó là sản
phẩm của nền kinh tế các nước TBCN. Do vậy, DNNN là loại hình doanh
nghiệp tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế của hầu hết các quốc gia
trên thế giới.
Tuy nhiên, việc nhìn nhận về vị trí, vai trò của loại hình DNNN ở các
quốc gia là hoàn toàn khác nhau. Điều đó dẫn đến tỷ trọng của DNNN trong
nền kinh tế các quốc gia là hoàn toàn không giống nhau. Trong năm 2010, tỷ
trọng của DNNN trong tổng sản phẩm quốc nội của các quốc gia như sau:
Hoa Kỳ là 1,1%, Trung Quốc là 46%, Vương quốc Anh là 9,3%, Pháp là


12

12,1%, Nhật Bản là 10,7%, Thái Lan là 20,3%.... Khác với những loại hình
doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân, việc phát triển DNNN gần như
không phụ thuộc vào các quy luật kinh tế khách quan mà nó phụ thuộc rất lớn
vào đường lối chính trị, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia
trong từng giai đoạn cụ thể. Do đó, không thể lấy tiêu chí về lợi ích kinh tế để
làm thước đo cho hiệu quả hoạt động của DNNN [9, tr. 21-22].
Trong quá trình phát triển của khu vực kinh tế nhà nước ở các quốc gia
trên thế giới trong thời gian gần đây, thì vị trí và vai trò của DNNN đang dần
dần được củng cố. Sự củng cố này không đến từ việc gia tăng số lượng
DNNN trong nền kinh tế quốc gia mà từ hiệu quả hoạt động của DNNN sau
quá trình cổ phần hóa DNNN. Do vậy, có thể chia quá trình hình thành và
phát triển của DNNN trên bình diện thế giới thành hai giai đoạn như sau: (i)
Giai đoạn các DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân về cả số
lượng và hiệu quả hoạt động; (ii) Giai đoạn các DNNN hoạt động hiệu quả
sau quá trình cổ phần hóa DNNN.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc là một sự kiện đánh dấu một bước
chuyển mới trong quá trình hình thành và phát triển của DNNN ở nhiều quốc

gia trên thế giới. Một trong những sự thay đổi đó là các DNNN từ hoạt động
không hiệu quả, phục vụ chủ yếu cho Nhà nước chuyển sang hoạt động hiệu
quả, đáp ứng các nhu cầu của xã hội dân sự, bên cạnh đó DNNN vẫn thực
hiện các mục tiêu chính trị- xã hội của Nhà nước.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, xu hướng cổ phần hóa, tư
nhân hóa DNNN ở các quốc gia diễn ra ngày càng mạnh mẽ, với nội dung
chính là tăng cường cơ chế thị trường vào quản lý, điều hành và hoạt động
của các DNNN. Tuy đây là một xu hướng mang tính khách quan nhưng nó
không loại bỏ DNNN ra khỏi đời sống kinh tế- xã hội của quốc gia. Ở các
nước tư bản phát triển hiện nay, mặc dù tỉ trọng và số lượng các DNNN
không còn nhiều nhưng DNNN vẫn tồn tại một cách khách quan trong các
loại hình doanh nghiệp, cũng như đóng góp một phần đáng kể cho GDP cũng


13

như thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế- xã hội của Nhà nước. Đối với
các quốc gia đang phát triển, thì DNNN lại có một vị trí hết sức quan trọng,
bởi lẽ các DNNN vẫn nắm trong tay hầu hết các lĩnh vực kinh tế then chốt
trong nền kinh tế quốc dân như: Khai thác khoáng sản, năng lượng, nhiên
liệu, cơ khí chế tạo… Hoạt động của DNNN trong các lĩnh vực then chốt này
không chỉ đóng góp lớn cho GDP quốc gia mà còn là công cụ để Nhà nước
quản lý các lĩnh vực kinh tế then chốt này.
Đối với các nước XHCN, vai trò của DNNN càng đặc biệt quan trọng
khi mà ở các quốc gia này, khu vực kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, vai trò của DNNN rất quan trọng, nó vừa
là trụ cột của nền kinh tế, quyết định sức mạnh chính trị, kinh tế- xã hội, quốc
phòng- an ninh của các quốc gia này, giải quyết các vấn đề xã hội như: an
sinh xã hội, giáo dục, y tế, văn hóa… Chính vì vậy, khi mà các Nhà nước
CHDCND Lào được thành lập cũng là thời điểm các DNNN được thành lập ở

nước CHDCND Lào, để đưa khu vực kinh tế nhà nước lên vị trí chủ đạo trong
nền kinh tế của nước CHDCND Lào. Các DNNN được thành lập và hoạt
động ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế then chốt trong nền kinh tế của nước
CHDCND Lào [6, tr. 20].
Vậy thì sự hình thành của DNNN trong nền kinh tế quốc dân ở các quốc
gia trên thế giới đến từ những lý do nào? Một điểm chung cho sự ra đời và phát
triển của DNNN ở các quốc gia là đều đến từ những đòi hỏi khách quan trong
quá trình thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Tuy
nhiên, sự ra đời và phát triển của DNNN còn xuất phát từ các lý do sau đây:
- Một là, sau chiến tranh nền kinh tế- xã hội của hầu hết các quốc gia
đều bị tàn phá, nguồn lực tư nhân trong xã hội không đủ sức để khôi phục nền
kinh tế- xã hội, chỉ có Nhà nước với tiềm lực vốn lớn, chỉ có Nhà nước mới
có chức năng để khôi phục nền kinh tế- xã hội. Do vậy, Nhà nước thành lập
các DNNN để thực hiện chức năng đó.


14

- Hai là, xuất phát từ tư tưởng chính trị của một số quốc gia trên thế
giới. Ở các quốc gia đa Đảng, khi một Đảng nào đó lên nắm quyền điều hành
đất nước thì luôn có tư tưởng tăng cường vai trò của Nhà nước trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Chính điều này đã làm
cho DNNN tồn tại và phát triển nhanh.
- Ba là, một số các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia sau khi giành
được độc lập đã được thừa hưởng một cơ sở vật chất của chủ nghĩa thực dân,
chủ nghĩa đế quốc để lại và các quốc gia này tiến hành quốc hữu hóa để bảo
vệ lợi ích đó cho Nhà nước. Hơn nữa, các nước theo mô hình XHCN luôn có
xu hướng tăng cường vai trò của Nhà nước vào nền kinh tế nên các DNNN ở
các quốc gia này phát triển rất nhanh.
- Bốn là, với tiềm năng vốn lớn được hỗ trợ từ Nhà nước, DNNN có

nhiều lợi thế trong các lĩnh vực, đặc biệt là ứng dụng khoa học- kỹ thuật, công
nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Ở các nước đang phát triển thì việc thành lập
các DNNN đôi khi vì mục đích để ứng dụng khoa học- kỹ thuật, công nghệ,
điều mà các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân không đủ tiềm
lực để thực hiện. Đây cũng chính là một trong những lý do khiến DNNN gia
tăng một cách nhanh chóng.
Như vậy, dù ở bất cứ thời điểm nào thì khu vực kinh tế nhà nước,
DNNN vẫn tồn tại và phát triển một cách khách quan trong nền kinh tế của
các quốc gia trên thế giới. Bên cạnh việc thực hiện chức năng kinh doanh vì
mục đích lợi nhuận, các DNNN đã và đang đóng góp rất nhiều cho việc hoàn
thành các mục tiêu chính trị, kinh tế- xã hội của Nhà nước.
* Quá trình hình thành và vai trò của DNNN ở nước CHDCND Lào
Như đã biết, DNNN là loại hình doanh nghiệp xuất hiện rất sớm trong
các loại hình doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào. Sở dĩ DNNN xuất hiện
sớm như vậy một phần là do chế độ chính trị, điều kiện kinh tế- xã hội của
nước CHDCND Lào chi phối. Những năm 1950-1954 có rất nhiều các DNNN
được thành lập ở Lào. Các DNNN này chủ yếu tập trung hoạt động trong lĩnh


15

vực khai khoáng, lương thực- thực phẩm, cung ứng nguyên liệu- nhiên liệu…
Tuy nhiên, trong thời điểm đó, các DNNN của Lào hoạt động theo cơ chế
quản lý tập trung, bao cấp, nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế trong lĩnh vực mà DNNN đó hoạt động. Cũng như thực hiện các chức
năng của Nhà nước về kinh tế- xã hội. Do vậy, hiệu quả hoạt động của các
DNNN ở nước CHDCND Lào trong suốt một thời gian dài không được thể
hiện một cách rõ nét. Bên cạnh đó, còn làm thất thoát một nguồn lực rất lớn từ
NSNN [14, tr. 22-23].
Việc phát triển nhanh của các DNNN ở nước CHDCND Lào thời điểm

đó là do đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước Lào khi coi trọng nền
kinh tế quốc doanh, ưu tiên nguồn lực cho việc phát triển các DNNN.
Khi Đảng, Nhà nước Lào đưa ra và thực hiện chủ trương chuyển nền
kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Đây là cơ hội để cho các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Nhưng xuất phát từ vai trò
của DNNN đối với nền kinh tế còn đang được coi là kém phát triển nên Đảng,
Nhà nước Lào vẫn xác định kinh tế nhà nước, DNNN giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế Lào. Tuy nhiên, nhận thức về kinh tế nhà nước, DNNN của
Đảng, Nhà nước Lào đã có sự thay đổi mạnh mẽ về chất. Đó là quản lý chặt
chẽ và hiệu quả đối với khu vực kinh tế nhà nước, DNNN theo hướng cổ phần
hóa, giảm số lượng DNNN, để các DNNN hoạt động hiệu quả hơn. DNNN
bên cạnh việc thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế- xã hội của Nhà nước
thì DNNN cũng hoạt động vì mục đích lợi nhuận như các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh khác.
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN thì Đảng và Nhà nước Lào đã
thừa nhận sự tồn tại và phát triển công bằng giữa các thành phần kinh tế, đặc
biệt là giữa khu vực kinh tế nhà nước với khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên,
trong quá trình đó, khu vực kinh tế nhà nước cần phải được củng cố và phát


16

triển trong những lĩnh vực then chốt, cần có sự can thiệp sâu của Nhà nước.
Có như vậy, khu vực kinh tế nhà nước, DNNN ở nước CHDCND Lào mới tạo
điều kiện và cơ hội cho khu vực kinh tế tư nhân ở nước CHDCND Lào phát
triển nhanh và bền vững.
Trong khu vực kinh tế nhà nước ở Lào như hiện nay, DNNN vẫn được
Đảng và Nhà nước Lào xác định là loại hình doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo

của nền kinh tế quốc dân. Do vậy, để tiếp tục phát triển DNNN, chủ trương
của Đảng và Nhà nước Lào là: “Doanh nghiệp nhà nước phải được củng cố,
đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế”.
Như vậy, DNNN vẫn giữ vai trò là thiết chế cần thiết để Nhà nước Lào
điều tiết nền kinh tế vĩ mô, khẳng định vì trí, vai trò và chức năng của Nhà
nước Lào trong quản lý trong nền kinh tế thị trường. Đây vừa là vai trò, vừa là
yêu cầu cho sự phát triển chính trị, kinh tế- xã hội ở nước CHDCND Lào hiện
nay. Bởi lẽ, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
CHDCND Lào sẽ có những hạn chế, khó khăn của nền kinh tế thị trường, mà
muốn khắc phục thì phải có sự tham gia mạnh mẽ và tích cực của Nhà nước.
Do đó, DNNN bên cạnh các hoạt động kinh doanh vì mục đích lợi
nhuận còn phục vụ cho các mục tiêu của Nhà nước trong các lĩnh vực chính
trị, kinh tế- xã hội. Thực tế, trong quá trình tồn tại và phát triển các DNNN ở
nước CHDCND Lào đã tạo ra một nền tảng cơ sở hạ tầng quan trọng cho các
lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nước CHDCND Lào. Các DNNN còn tạo
ra một nguồn vốn lớn giúp Nhà nước bổ sung cho NSNN phục vụ cho các
mục tiêu kinh tế- xã hội của Nhà nước Lào. Như đã biết, trong giai đoạn đầu
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh chưa vươn lên để chiếm được vai trò nhất định trong nền kinh tế.
Chính vì thế, đã tạo cho DNNN một sứ mệnh hết sức quan trọng là phát triển
để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo đúng định hướng của Nhà nước cũng


17

như tạo chỗ dựa, tiền để cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, dựa trên cơ sở
hạ tầng mà các DNNN xây dựng trong quá trình hoạt động của nó.
Vậy thì sứ mệnh đó của DNNN ở nước CHDCND Lào là do những yếu
tố nào chi phối? Trong quá trình tồn tại và phát triển DNNN ở nước

CHDCND Lào có thể thấy sứ mệnh đó của DNNN được chi phối bởi các yếu
tố sau đây:
- Một là, sau thời gian dài là thuộc địa, kinh tế Lào không phát triển; cơ
sở hạ tầng không những không phát triển mà còn bị tàn phá nặng nề. Việc đầu
tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng (đầu tư xây dựng cơ bản) tạo tiền đề cho kinh
tế- xã hội phát triển ở nước CHDCND Lào cần một nguồn lực rất lớn mà chỉ
Nhà nước mới có thể thực hiện được. Chính vì vậy, các DNNN ra đời để thực
hiện sứ mệnh xây dựng cơ sở vật chất trong các lĩnh vực kinh tế như: Giao
thông vận tải; thông tin- liên lạc; công nghiệp khai khoáng; cung ứng nguyên,
nhiên liệu….
- Hai là, để Nhà nước có thể tồn tại và phát triển, Nhà nước luôn luôn
phải tiến hành dựa trữ quốc gia. Việc dự trữ quốc gia, đặc biệt về lương thựcthực phẩm; nguyên, nhiên liệu được Nhà nước thực hiện thông qua các
DNNN mà không thể chuyển giao nhiệm vụ đó cho các thành phần kinh tế tư
nhân vì các thành phần đó không đủ tiềm lực.
- Ba là, một trong những nhiệm vụ quan trọng của DNNN ở gần như tất
cả các quốc gia đều phải thực hiện đó là giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội,
nhiệm vụ này không phát sinh lợi nhuận nên các thành phần kinh tế tư nhân
không muốn tham gia vào. Do vậy, các DNNN ở nước CHDCND Lào ra đời
để thực hiện nhiệm vụ đó và thể hiện sứ mệnh trong lĩnh vực này.
- Bốn là, các DNNN với tiềm vực vốn lớn, nắm giữ những lĩnh vực
kinh tế then chốt cộng với đi đầu trong việc phát triển kinh tế- xã hội ở nước
CHDCND Lào và bước đầu thu được những hiệu quả trong kinh doanh là
điều kiện để thu hút đầu tư vào phát triển kinh tế- xã hội ở Lào.


18

Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường, nhưng
trong nền kinh tế thị trường đó, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều

tiết nền kinh tế quốc dân và DNNN là thiết chế quan trọng để Nhà nước quản
lý nền kinh tế quốc dân. Đây là một trong những vai trò xuyên suốt trong quá
trình tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế nhà nước và DNNN ở Lào.
Để phát huy được vai trò của mình, DNNN ở nước CHDCND Lào phải
thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Thứ nhất, DNNN có nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm
tài nguyên, nguyên, nhiên liệu, giảm chi phí sản xuất. Đóng góp của DNNN là
cơ sở để Nhà nước tích lũy và tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội
trong nền kinh tế đóng [13, tr 15].
- Thứ hai, DNNN phải sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn nhà
nước, thu hút vốn và các nguồn lực khác bên ngoài nhằm tạo các ra nguồn lực
để phát triển nền kinh tế- xã hội ở nước CHDCND Lào.
- Thứ ba, DNNN phải bảo đảm đời sống cho người lao động, lực lượng
chủ yếu tạo ra của cải vật chất, đóng góp cho sự phát triển của DNNN và
NSNN của nước CHDCND Lào .
- Thứ tư, DNNN trong quản lý, sản xuất và kinh doanh phải vừa hợp
tác, bổ sung, hỗ trợ nhau, vừa cạnh tranh bình đẳng trên cơ sở pháp luật.
- Thứ năm, DNNN trong quá trình sản xuất, kinh doanh phải quan tâm
đến vấn đề bảo vệ môi trường và tích cực đầu tư trang thiết bị để sản xuất
giảm thiểu tác động xấu lên môi trường.
- Thứ sáu, DNNN phải coi trọng chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Đây
vừa là cơ sở để bảo đảm sự phát triển của chính DNNN, vừa là cơ sở để tạo
dựng uy tín của Nhà nước đối với xã hội.
- Thứ bảy, trong quá trình hoạt động DNNN phải chấp hành nghiêm
đường lối, chủ trương, chính và pháp luật của Đảng và Nhà nước.


19

Như vậy, cũng như nhiều quốc gia khác, đặc biệt là các nước XHCN,

DNNN ở Lào có vai trò rất lớn trong nền kinh tế đóng. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN mà Lào đang xây dựng thì DNNN vẫn giữ được
những vai trò đó nhưng phải tiến hành tổ chức, sắp xếp lại DNNN, đặc biệt là
cổ phần hóa thì DNNN ở Lào mới giữ vững và phát huy những vai trò đó.
1.1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
* Khái niệm cổ phần hóa DNNN
Có rất nhiều cách gọi khác nhau về cổ phần hóa DNNN như: Cổ phần
hóa DNNN; chuyển đổi DNNN sang Công ty cổ phần; tư nhân hóa
DNNN…Tuy nhiên, về mặt bản chất thì đây là việc chuyển DNNN dưới hình
thức Công ty cổ phần nhà nước, Công ty TNHH nhà nước một thành viên,
Công ty TNHH nhà nước hai thành viên sang hình thức công ty công ty nhiều
chủ sở hữu thông qua việc chuyển một phần hoặc toàn bộ quyền sở hữu của
Nhà nước trong DNNN đó cho nhiều tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức
bán cổ phần [9, tr. 20].
Ở Việt Nam, khái niệm cổ phần hóa DNNN được gọi với một cái tên
pháp lý đầy đủ là chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành Công ty cổ
phần được quy định trong Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm
2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công
ty cổ phần. Theo đó, cổ phần hóa DNNN được hiểu là một quá trình chuyển
một phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nước cho cá nhân, tổ chức, đồng
thời chia nhỏ phần vốn của công ty thành nhiều phần bằng nhau nhằm thay
đổi hình thức sở hữu của công ty từ một chủ sở hữu thành nhiều chủ sở hữu.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng XHCN nước CHDCND Lào thì một trong những yêu cầu là phải
bảo đảm sự công bằng trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Việc
dành quá nhiều lợi thế, ưu tiên cho DNNN là không công bằng với các thành



×