Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự - Thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.41 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

QUÀNG HỒNG NẾT

CUNG CẤP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

QUÀNG HỒNG NẾT

CUNG CẤP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Công Bình

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Quàng Hồng Nết


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

LSĐBS BLTTDS

: Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố
tụng dân sự


HĐTPTANTC

: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

PLTTGQCVAS

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PLTTGQCVAKT

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

PLTTGQCVALĐ

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKS


: Viện kiển sát


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ

8

CUNG CẤP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự

8

1.1.1.

Khái niệm cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự

8

1.1.2.


Ý nghĩa của việc cung cấp chứng cứ trong Tố tụng dân sự

13

1.2.

Cơ sở pháp luật quy định cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự

15

1.2.1

Cơ sở lý luận pháp luật quy định cung cấp chứng cứ trong tố

15

tụng dân sự
1.2.2
1.3.

Cơ sở thực tiễn quy định cung cấp chứng cứ trong tố tụng
dân sự
Sơ lược các quy định của pháp luật Việt Nam về cung cấp

19
21

chứng cứ trong tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay
1.3.1.


Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989

21

1.3.2.

Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004

22

1.3.3.

Giai đoạn từ năm 2005 đến nay

24

Kết luận chương 1

26

Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

28

LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CUNG CẤP CHỨNG
CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ


2.1.


Nguyên tắc cung cấp chứng cứ

28

2.2.

Chủ thể cung cấp chứng cứ và chủ thể liên quan

32

2.2.1.

Nhóm chủ thể cung cấp chứng cứ

33

2.2.2.

Nhóm chủ thể có nghĩa vụ tiếp nhận chứng cứ

36

2.2..3

Nhóm chủ thể kiểm sát việc cung cấp và tiếp nhận chứng cứ

39

2.3.


Thời gian, thủ tục cung cấp chứng cứ và hậu quả của việc

39

không cung cấp hoặc cung cấp không đủ chứng cứ
2.3.1.

Thời gian cung cấp chứng cứ

39

2.3.2.

Thủ tục cung cấp chứng cứ

43

2.3.3.

Hậu quả của việc không cung cấp hoặc cung cấp không đủ

49

chứng cứ
Kết luận chương 2

51

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH


53

CỦA PHÁP LUẬT VỀ CUNG CẤP CHỨNG CỨ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN
LA VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.

Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về cung cấp chứng

53

cứ trong tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
3.1.1.

Tình hình giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân

53

tỉnh Sơn La
3.1.2

Tình hình thực hiện cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự tại Tòa
án nhân dân tỉnh Sơn La

56


3.1.2.1 Vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản


57

3.1.2.2 Vụ án kiện đòi tài sản

58

3.1.3

59

Những vướng mắc, hạn chế từ thực tiễn thực hiện các quy định
của pháp luật về cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự tại
Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La

3.1.3.1 Về thời gian cung cấp chứng cứ

59

3.1.3.2 Về tính pháp lý của chứng cứ

60

3.1.3.3 Về thủ tục cung cấp chứng cứ

60

3.1.3.4 Về quyền và nghĩa vụ trao đổi trực tiếp chứng cứ giữa các

61


đương sự
3.1.4

Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế trong thực hiện

63

các quy định của pháp luật về cung cấp chứng cứ tại Tòa án
nhân dân Tỉnh Sơn La
Các quy định của pháp luật còn chưa đầy đủ và chặt chẽ
3.1.4.1

63
Nhận thức của đương sự về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng

3.1.4.2

cứ còn hạn chế

64

Việc áp dụng pháp luật của cán bộ Tòa án chưa đúng và thống
3.1.4.3 nhất

65

3.2.

65


Một số kiến nghị hoàn thiện và thực hiện các quy địn của pháp
luật về cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự

3.2.1.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cung cấp chứng cứ

66


trong tố tụng dân sự
3.2.1.1 Sửa đổi, bổ sung quy định về thời gian cung cấp chứng cứ

66

3.2.1.2 Sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục giao nhận chứng cứ

68

3.1.1.3 Bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ trao đổi chứng cứ giữa

69

các đương sự
3.2.2.

Kiến nghị thực hiện pháp luật về cung cấp chứng cứ trong tố

72


tụng dân sự
Kết luận chương 3

73

KẾT LUẬN CỦA LUẬN VĂN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chứng minh là hoạt động tố tụng cơ bản được thực hiện suốt trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự kể từ khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự cho đến
khi Tòa án ra phán quyết giải quyết vụ việc dân sự. Hoạt động chứng minh có
được thực hiện tốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự hay không phụ
thuộc một phần rất lớn vào việc cung cấp chứng cứ của các đương sự và các
cá nhân, tổ chức nắm giữ chứng cứ cũng như sự đánh giá chứng cứ của Thẩm
phán phụ trách việc giải quyết vụ việc dân sự, do vậy việc cung cấp chứng cứ
trong Tố tụng dân sự (TTDS) là hoạt động tố tụng có vai trò to lớn trong việc
giải quyết vụ việc dân sự.
Việc cung cấp chứng cứ do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện, trong đó
chủ thể chính có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ là các đương sự. Với việc Nhà
nước ban hành BLTTDS, đặc biệt là LSĐBS BLTTDS các quy định của pháp

luật về cung cấp chứng cứ trong TTDS đã ngày càng hoàn thiện góp phần bảo
đảm việc giải quyết nhanh chóng vụ việc dân sự, bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Tuy vậy, qua khảo sát thực tiễn xét xử của Tòa án
trong những năm gần đây cho thấy các tranh chấp dân sự phát sinh ngày càng
nhiều và phức tạp, trong khi đó các quy định của của BLTTDS và
LSĐBSBLTTDS về cung cấp chứng cứ và thực tiễn thực hiện vẫn còn nhiều
điểm bất cập. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho việc giải quyết
nhiều vụ việc dân sự bị kéo dài, không đúng pháp luật, hạn chế tới kết quả
bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của các đương sự. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên
cứu nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp
luật về cung cấp chứng cứ trong TTDS vẫn là cần thiết.


2

Với mong muốn được góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật TTDS
Việt Nam và nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự của các Tòa án,
Học viên đã chọn đề tài “Cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự - Thực
tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La” nghiên cứu làm Luận văn Thạc sĩ
Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đặc biệt là trong quá trình xây dựng BLTTDS và
LSĐBS BLTTDS đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã
được công bố có đề cập đến vấn đề chứng cứ và chứng minh trong TTDS.
Trong số các công trình nghiên cứu đó, có thể kể đến các công trình nghiên
cứu tiêu biểu sau đây:
- Về luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có: Chế định chứng minh trong
TTDS Việt nam, luận án tiến sĩ luật học, Học viên Nguyễn Minh Hằng, bảo vệ
tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2007; Chứng cứ và chứng minh trong
TTDS theo quy định của pháp luật Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Học

viên Lê Thị Giang Yên, bảo vệ tại Khoa Luật trường Đại học Quốc Gia Hà
Nội năm 2007; Tranh tụng trong TTDS Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học,
Học viên Phạm Việt Dũng, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011,
Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS, luận văn
thạc sĩ luật học, Học viên Đinh Quốc Trí, bảo vệ tại Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2012; Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong BLTTDS, luận
văn thạc sĩ luật học, Học viên Vũ Văn Đồng, bảo vệ tại Trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2012; Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố
tụng dân sự; luận văn thạc sĩ, Học viên Tăng Hoàng My, bảo vệ tại Trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2012; Bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng


3

minh của đương sự trong TTDS, luận văn thạc sĩ luật học, Học viên Nguyễn
Thanh Nga, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013; Nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong TTDS, luận văn
thạc sĩ luật học, Học viên Ngũ Thị Như Hoa, bảo vệ tại tại Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2014; Thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ của
Tòa án cấp sơ thẩm, luận văn thạc sĩ, Học viên Nguyễn Kim Lượng, bảo vệ tại
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015 v.v...
- Về giáo trình, sách chuyên khảo có: Giáo trình Luật TTDS, Học viện
Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007; Giáo trình Luật TTDS
Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm
2014; Luật TTDS Việt Nam - Nghiên cứu và so sánh, Học viên Nguyễn Công
Cường, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2007, Pháp luật
TTDS và thực tiễn xét xử, Học viên Tưởng Duy Lượng, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia - Sự thật xuất bản năm 2009 v.v...
- Về các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành luật có: Thời hạn cung
cấp chứng cứ của đương sự, Học viên Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật

học số 1/2002; Chế định chứng minh và chứng cứ trong BLTTDS, Học viên
Nguyễn Công Bình, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 2/2004; Một vài
suy nghĩ về vấn đề chứng cứ được quy định trong BLTTDS, Học viên Tưởng
Duy Lượng, đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 20/2004 và số 21/2004;
Những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định của BLTTDS về chứng
cứ và chứng minh, Học viên Tưởng Duy Lượng, đăng trên Tạp chí Tòa án
nhân dân số 17/2007; Thu thập chứng cứ và chứng minh theo quy định của
luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của BLTTDS, Học viên Tưởng Duy Lượng,
đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 12/2011; Pháp luật TTDS Hoa kỳ và khả năng
ứng dụng vào việc hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam, Học viên Nguyễn


4

Thị Thu Hà đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2011 v.v...
Các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nêu trên bước đầu đã đề
cập được một số vấn đề liên quan đến việc cung cấp chứng cứ trong TTDS.
Cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nào đề
cập một cách trực tiếp, đầy đủ và toàn diện các vấn đề liên quan đến việc
cung cấp chứng cứ trong TTDS. Tuy vậy, kết quả của các công trình nghiên
cứu khoa học pháp lý nêu trên vẫn là những tài liệu quan trọng để Học viên
tham khảo để hoàn thành việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về cung cấp chứng
cứ, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam; các quy định của pháp luật
TTDS về cung cấp chứng cứ và thực tiễn thực hiện chúng tại Tòa án.
Đề tài nghiên cứu làm luận văn của Học viên có phạm vi nghiên cứu
tương đối rộng. Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian việc nghiên cứu đề tài chỉ
tập trung ở những vấn đề lý luận cơ bản về cung cấp chứng cứ như khái niệm,

ý nghĩa và cơ sở của việc pháp luật quy định cung cấp chứng cứ trong Tố tụng
dân sự; đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp ở
Việt Nam trong những năm gần đây; nội dung các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về cung cấp chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện
chúng tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La trong những năm gần đây; các giải
pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật về cung cấp chứng cứ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài Luận văn được Học viên thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng


5

và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về Nhà nước và pháp luật.
Bên cạnh đó, để nghiên cứu đề tài luận văn Học viên cũng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp lịch sử,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp. Việc
sử dụng những phương pháp này giúp Học viên tiếp cận các đối tượng nghiên
cứu một cách khoa học và đảm bảo tính hiệu quả của quá trình nghiên cứu.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có mục đích làm rõ những vấn đề lý luận về
cung cấp chứng cứ, đánh giá được thực trạng các quy định của pháp luật Việt
Nam về cung cấp chứng cứ và thực tiễn thực hiện chúng ở Tòa án nhân dân từ
đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp
luật về cung cấp chứng cứ nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân
sự của Tòa án .
Để đạt được các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài luận văn có
các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về cung cấp chứng cứ

trong TTDS như khái niệm, ý nghĩa và cơ sở của việc pháp luật quy định về
cung cấp chứng cứ trong TTDS.
Thứ hai, phân tích đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về cung cấp chứng cứ trong TTDS như quy định về
nguyên tắc, chủ thể, thời gian, thủ tục v.v.. cung cấp chứng cứ trong TTDS.
Thứ ba, khảo sát thực tiễn áp dụng quy định pháp luật Việt Nam hiện


6

hành về cung cấp chứng cứ trong TTDS tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
trong những năm gần đây.
Thứ tư, tìm ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những
hạn chế, vướng mắc trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
cung cấp chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân
tỉnh Sơn La từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục.
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống, đầy đủ và
toàn diện về vấn đề cung cấp chứng cứ trong TTDS nên có những điểm mới
sau:
- Xây dựng khái niệm cung cấp chứng cứ trong Tố tụng dân sự; chỉ rõ ý
nghĩa và cơ sở của việc pháp luật quy định cung cấp chứng cứ trong Tố tụng
dân sự;
- Làm rõ những nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam về cung
cấp chứng cứ trong Tố tụng dân sự;
- Tìm ra được những điểm bất cập của pháp luật về Việt Nam về cung
cấp chứng cứ trong TTDS từ đó đề xuất được những giải pháp nhằm hoàn
thiện và thực hiện pháp luật của Việt Nam về cung cấp chứng cứ trong TTDS
góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án, đặc
biệt là Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.

7. Cơ cấu luận văn
Luận văn gồm: Lời nói đầu, phần nội dung và kết luận. Phần nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về cung cấp chứng cứ trong


7

TTDS.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
cung cấp chứng cứ trong TTDS.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
cung cấp chứng cứ trong Tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La và
kiến nghị.


8

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CUNG CẤP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA CUNG CẤP CHỨNG CỨ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự
Chứng cứ trong TTDS là những gì có thật được cung cấp, thu thập,
nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật TTDS.
Trên thực tế có những tài liệu tuy có tồn tại thật, nhưng không phản ánh đúng
bản chất của sự việc đó thì nó không được coi là chứng cứ. Chứng cứ là căn
cứ cần thiết cho xác minh các tình tiết, sự kiện, nhận thức các tình tiết, sự kiện

của vụ việc dân sự để giải quyết vụ việc dân sự. Bản chất của chứng minh
chính là việc sử dụng chứng cứ. Hoạt động chứng minh là hoạt động thông
qua việc sử dụng chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ việc dân
sự. Theo pháp luật TTDS Nhật bản thì “chứng cứ là một tư liệu thông qua đó
một tình tiết được Tòa án công nhận và là một tư liệu cơ sở thông qua đó Tòa
án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay không” [17, tr.9] hay Điều
401 Luật chứng cứ của Mỹ quy định “ chứng cứ là những gì mà hàm chứa
trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó
ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém” [17, tr.10].
Ở Việt Nam, thuật ngữ chứng cứ được định nghĩa tại Điều 81 BLTTDS, theo
đó "Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập
được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ
để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp


9

hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn
vụ việc dân sự." Theo quy định này chứng cứ là những gì có thật có nghĩa là
những sự vật, hiện tượng đang tồn tại hoặc để lại dấu vết về sự tồn tại của nó,
đồng thời sự vật, hiện tượng đó phải tồn tại một cách khách quan không phải
do ý chí chủ quan của con người nghĩa ra, tưởng tượng ra thì mới được coi là
sự thật. Những sự vật, hiện tượng được coi là chứng cứ phải do đương sự, các
nhân, cơ quan, tổ chức giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo
trình tự, thủ tục BLTTDS quy định. Những sự vật, hiện tượng dù có giá trị
chứng minh đến đâu nhưng được giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu
thập không theo trình tự, thủ tục BLTTDS quy định thì cũng không được coi
là chứng cứ. Tại Điều 7 BLTTDS quy định: "Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho

đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang
lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không
cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu
rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ." Ngoài ra, tại Điều 79
BLTTDS còn quy định: "1. Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó
là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng
minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước hoặc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu
cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.


10

4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không
đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả
của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó."
Như vậy, cung cấp chứng cứ là một yêu cầu, một hoạt động TTDS cơ
bản của quá trình giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Tuy vậy, thế nào là
"cung cấp chứng cứ", thuật ngữ "cung cấp chứng cứ" có tương đồng với thuật
ngữ "giao nộp chứng cứ" hay thuật ngữ "đưa ra chứng cứ" hay không thì đến
nay pháp luật chưa quy định cụ thể. Trong những năm gần đây, trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam thuật ngữ này cũng
đã bắt đầu được các nhà luật học quan tâm nghiên cứu và định nghĩa. Qua đó
cho thấy đây là những thuật ngữ có sự tương đồng cùng ý nghĩa nên được quy
định trong BLTTDS như là một. Tuy nhiên, thuật ngữ “đưa ra chứng cứ” mới
đề cập đến hoạt động xuất trình chứng cứ nói chung chưa đề cập đến chủ thể

tiếp nhận chứng cứ; thuật ngữ “cung cấp chứng cứ” đề cập cả đến cả chủ thể
cung cấp cũng như chủ thể tiếp nhận; còn thuật ngữ “giao nộp chứng cứ”
cũng bao hàm cung cấp chứng cứ nhưng nội dung chủ yếu là thiên về thủ tục
giao nhận chứng cứ. Ở một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã
được công bố cũng đã có đưa ra định nghĩa về thuật ngữ "cung cấp chứng cứ"
như Từ điển giải thích Thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội
do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 1999, Giáo trình Luật TTDS
Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Tư pháp xuất
bản năm 2012 v.v...Trong đó, phải kể đến định nghĩa trong Giáo trình Luật
TTDS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội: “Cung cấp chứng cứ là
hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng trong việc đưa lại cho Tòa án, VKS
các chứng cứ của vụ việc dân sự” [2, tr.158]. Theo định nghĩa này thì cung
cấp chứng cứ trước hết là hoạt động tố tụng trong việc đưa ra, đem lại cho


11

Tòa án, VKS các chứng cứ. Vì vậy, cung cấp chứng cứ có mục đích là đem lại
cho Tòa án, VKS các chứng cứ. Các chủ thể cung cấp chứng cứ ngoài đương
sự còn bao hàm cả các chủ thể khác có đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết
vụ việc dân sự và những chủ thể đang lưu giữ, quản lý chứng cứ được Tòa án,
VKS yêu cầu. Các chủ thể tiếp nhận việc cung cấp chứng cứ là Tòa án và VKS,
trong đó chủ yếu là Tòa án.
Qua nghiên cứu, Học viên cơ bản đồng tình với định nghĩa nêu trên
trong Giáo trình Luật TTDS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Định nghĩa này có tính khái quát cao vì đưa đến cho ta cái nhìn đúng đắn về
một trong những hoạt động tố tụng cơ bản, từ việc chỉ ra được các chủ thể
TTDS có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, mục đích của việc cung cấp
chứng cứ đến chủ thể có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Theo đó, cung cấp
chứng cứ là một trong số các hoạt động chứng minh rất quan trọng bên cạnh

hoạt động thu thập chứng cứ, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ của
Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Các hoạt động cung
cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ
được hình thành thành một chuỗi, có liên quan chặt chẽ với nhau và kết hợp
với nhau trong quá trình Tòa án giải quyết một vụ việc dân sự. Trong đó, hoạt
động cung cấp chứng cứ là khởi đầu cho hoạt động nghiên cứu chứng cứ,
đánh giá chứng cứ và sử dụng chứng cứ, là tiền đề cho các hoạt động tố tụng
khác trong giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Việc cung cấp chứng cứ
được tiến hành ngay từ khi khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Khi
khởi kiện, người khởi kiện phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
của mình là hợp pháp và có căn cứ. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc
dân sự, các đương sự vẫn có quyền cung cấp chứng cứ cho Tòa án, kể cả tại
phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm. "Tuy nhiên, việc


12

giao nộp sớm chứng cứ cho Tòa án vẫn tốt hơn cả vì Tòa án có Điều kiện thời
gian thuận lợi để kiểm tra, đánh giá chúng." [26, tr.25]. Trong TTDS, việc
cung cấp chứng cứ vừa là quyền và nghĩa vụ của đương sự: "Các đương sự có
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp" (Điều 6 BLTTDS). Trong trường hợp
đương sự không cung cấp được chứng cứ hoặc cung cấp không đủ chứng cứ
thì phải chịu hậu quả về việc không cung cấp được chứng cứ hoặc cung cấp
không đầy đủ chứng cứ. Nói cách khác để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi và
lợi ích hợp pháp cho mình thì đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho
Toà án để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp; đương
sự phải tự chịu hậu quả về việc không cung cấp được chứng cứ hoặc không
cung cấp đầy đủ chứng cứ. Ngoài ra, khi tham gia tố tụng, tùy theo địa vị tố
tụng của mình các chủ thể TTDS khác như cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi

kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước, VKS kháng nghị bản án, quyết định của Tòa
án và các chủ thể đang lữu giữ, quản lý chứng cứ liên quan đến đến vụ việc
dân sự cũng có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án. Trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu thấy chưa đủ chứng cứ để giải quyết vụ
việc dân sự thì Tòa án yêu cầu đương sự cung cấp bổ sung. Tòa án chỉ tiến
hành thu thập chứng cứ trong những trường hợp pháp luật quy định. Về mục
đích của việc cung cấp chứng cứ, định nghĩa nêu trên chỉ rõ là đưa lại cho Tòa
án, VKS các chứng cứ. Về chủ thể có nghĩa vụ tiếp nhận chứng cứ, định
nghĩa nêu trên đã chỉ rõ là Tòa án và VKS, trong đó nghĩa vụ tiếp nhận chứng
cứ chủ yếu là thuộc về Tòa án. Tuy vậy, định nghĩa trên chưa chỉ rõ được bản
chất pháp lý của hoạt động cung cấp chứng cứ. Hoạt động cung cấp chứng cứ
có mục đích là đem lại cho Tòa án các chứng cứ để làm rõ các tình tiết, sự
kiện của vụ việc dân sự được Tòa án giải quyết nên có ý nghĩa rất quan trọng


13

đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Tuy nhiên, để hoạt động
này thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả thì không phải ai cũng có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, không phải Tòa án hay VKS có quyền tùy tiện
trong việc tiếp nhận hay từ chối việc cung cấp chứng cứ của các chủ thể. Vì
vậy, hoạt động cung cấp chứng cứ cũng như các hoạt động chứng minh khác
đều phải được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật TTDS, trong đó
có cả các quy định về thời hạn, thủ tục cung cấp, tiếp nhận chứng cứ. Do đó,
sẽ là toàn diện hơn nếu định nghĩa chỉ rõ được bản chất pháp lý của hoạt động
này như phải được tiến hành theo thủ tục, thời hạn do pháp luật TTDS quy
định.
Từ những phân tích trên, có thể đi đến kết luận: "Cung cấp chứng cứ
trong TTDS là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng trong việc đưa lại

cho Tòa án, VKS các chứng cứ của vụ việc dân sự theo trình tự, thủ tục do
pháp luật TTDS quy định."
1.1.2. Ý nghĩa của cung cấp chứng cứ trong Tố tụng dân sự
Cung cấp chứng cứ là hoạt động chứng minh cơ bản trong TTDS nhằm
đem lại cho Tòa án các chứng cứ. Hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có được tốt hay không
phụ thuộc một phần rất lớn vào việc các chứng cứ có được cung cấp đầy đủ
hay không. Vì vậy, xét trên các mặt cung cấp chứng cứ trong TTDS có các ý
nghĩa sau đây:
Thứ nhất, cung cấp chứng cứ bảo đảm cho Tòa án giải quyết nhanh
chóng và đúng đắn vụ việc dân sự.
Có thể thấy rằng phải có chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên


14

cứu, đánh giá chứng cứ. Chứng cứ có vai trò làm rõ các tình tiết, sự kiện của
vụ việc dân sự. "Chứng cứ được dùng làm căn cứ để Tòa án xác định yêu cầu
hay phản đối yêu cầu của đương sự có đúng không" [26, tr.174]. Kết quả của
họat động nghiên cứu và đánh giá chứng cứ sẽ là nhận thức về vụ việc dân sự.
Nhận thức này có đúng đắn, khách quan và toàn diện hay không hoàn toàn
phụ thuộc vào các chứng cứ của vụ việc dân sự có đầy đủ hay không. Trong
TTDS, nghĩa vụ chứng minh chủ yếu thuộc về đương sự nên đương sự có
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Tòa án chỉ có vai trò hỗ trợ đương sự chứng
minh nên trường trường hợp pháp luật quy định thì Tòa án mới trực tiếp thu
thập chứng cứ. Vì vậy, cung cấp chứng cứ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với việc giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ việc dân sự của Tòa án. Nhờ
hoạt động cung cấp chứng cứ của các đương sự và các chủ thể khác trong
TTDS mà Tòa án có trong tay các chứng cứ, không phải tiến hành các hoạt
động thu thập chứng cứ và xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện

vụ việc dân sự để giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân sự.
Thứ hai, cung cấp chứng cứ có ý nghĩa đối với việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự cũng như các hoạt động chứng minh khác.
Các hoạt động chứng minh bao gồm: Hoạt động cung cấp, thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Trong đó, cung cấp chứng cứ là hoạt động
tố tụng có tính chất mở đầu hay tiền đề cho hoạt động nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ. Theo các nhà nghiên cứu luật học, thì "xét cả dưới góc độ lý luận
và thực tiễn thì chứng minh vẫn là biện pháp duy nhất để xác định các sự
kiện, tình tiết của vụ việc dân sự." [26, tr.140]. Các tình tiết, sự kiện liên quan
đến vụ việc dân sự đều xảy ra trước khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc. Vì
vậy, chỉ qua các hoạt động chứng minh thì Tòa án mới biết rõ được các tình
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết. Đối với các đương sự, chứng


15

minh còn là biện pháp rất quan trọng để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trước Tòa án "Trước Toà án, nếu đương sự không chứng minh
được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp pháp
của họ có thể sẽ không được Toà án bảo vệ. Vì trên thực tế, các Toà án cũng
có thể có sai lầm trong việc xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự,
không làm sáng tỏ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự [26, tr.140].
Điều này, một mặt dẫn đến việc giải quyết vụ việc dân sự không đúng với sự
thật, mặt khác không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Do
vậy, chứng minh không chỉ có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự
của Toà án được đúng đắn mà còn có ý nghĩa bảo đảm cho đương sự bảo vệ
được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án. Cung cấp chứng cứ là
hoạt động chứng minh có tính chất mở đầu hay tiền đề cho các hoạt động
chứng minh khác như hoạt động nghiên cứu và hoạt động đánh giá chứng cứ.
Vì vậy, bên cạnh ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án

nêu trên thì cung cấp chứng cứ còn có ý nghĩa đối với việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự như các hoạt động chứng minh khác.
1.2. CƠ SỞ PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH CUNG CẤP CHỨNG CỨ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ

1.2.1. Cơ sở lý luận pháp luật quy định cung cấp chứng cứ trong Tố
tụng dân sự
Trên thế giới có hai mô hình tố tụng điển hình. Thứ nhất là mô hình tố
tụng tranh tụng của các nước theo hệ thống pháp luật Anh Mỹ (common law).
Theo mô hình này, các phán quyết của Tòa án dựa trên cơ sở thỏa mãn với sự
thật pháp lý mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Bên nào đưa ra các chứng
cứ có tính thuyết phục cao hơn sẽ thắng kiện. Thứ hai là mô hình tố tụng xét
hỏi của các nước theo hệ thống luật Châu âu lục địa (continential law). Theo


16

mô hình này, Tòa án cố gắng xác định sự thật khách quan của vụ việc trên cơ
sở các chứng cứ mà các đương sự cung cấp hoặc Tòa án thu thập. Phán quyết
của Tòa án sẽ dựa trên niềm tin nội tâm của Thẩm phán về sự thật khách quan
của vụ việc. Tuy vậy, dù trong mô hình tố tụng nào thì nghĩa vụ chứng minh,
trong đó có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ vẫn thuộc về các đương sự và phán
quyết của Tòa án một phần vẫn phải dựa trên những chứng cứ mà các đương
sự cung cấp.
Theo pháp luật TTDS Việt Nam, chứng cứ được đương sự, cá nhân, cơ
quan tổ chức giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định. Tòa án dùng các chứng cứ làm căn cứ để xác
định yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự là có căn cứ và hợp pháp
hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ việc dân sự. Mô hình TTDS Việt Nam dường như được xây dựng dựa

theo mô hình xét hỏi của hệ thống luật Châu âu lục địa. Tuy nhiên, gần đây có
sự thay đổi, tiếp thu nhất định nguyên tắc tranh tụng của mô hình tố tụng
tranh tụng của các nước theo hệ thống pháp luật Anh Mỹ (common law).
Sở dĩ pháp luật các nước và Việt Nam quy định về cung cấp chứng cứ
của đương sự trong TTDS trước hết là xuất phát từ cơ sở của lý luận nhận
thức. Quá trình nhận thức vụ việc dân sự thông qua quá trình chứng minh vụ
việc dân sự. "Quá trình chứng minh vụ việc dân sự sẽ và phải đạt tới chân lý
đích thực của vụ việc dân sự. Việc vận dụng khái niệm chân lý khách quan
của chủ nghĩa duy vật biện chứng để nhận thức các sự vật, hiện tượng trong
lĩnh vực giải quyết vụ việc dân sự là cơ sở hình thành quan niệm về chứng
minh trong TTDS Việt Nam. Theo đó, chân lý khách quan được hiểu là chân
lý của sự kiện, được xác định thông qua việc áp dụng các quy định của pháp
luật TTDS về cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đặc biệt là đánh giá chứng cứ


17

nhằm xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự " [26, tr.15]. Ngoài ra,
để thực hiện quá trình chứng minh, đánh giá đúng bản chất của vụ việc dân sự
thì đòi hỏi Tòa án còn phải khách quan, toàn diện trong việc nghiên cứu, xem
xét các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự trong sự vận động, phát triển và
trong mối liên hệ hữu cơ với nhau và các sự kiện, tính tiết khác đồng thời phải
có các chứng cứ để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. "Đối với
việc tìm hiểu sự thật của vụ án, đây không chỉ là nghĩa vụ của đương sự mà
còn của cả Tòa án. Đương sự luôn cố gắng cung cấp chứng cứ để chứng
minh những luận điểm mà họ đưa ra là đúng sự thật. Ngược lại, Tòa án ngoài
việc dựa trên những luận điểm của các bên đương sự thì phải tự tìm hiểu,
đánh giá chứng cứ để tìm sự thật của vụ án. Chỉ khi đạt đến sự thật của vụ án
thì phán quyết của Tòa án mới được chính xác" [3]. Cung cấp chứng cứ là
một yêu cầu tất yếu của hoạt động chứng minh nhằm đem lại cho Tòa án các

chứng cứ để xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
Pháp luật quy định về hoạt động cung cấp chứng cứ của đương sự trong
TTDS còn dựa trên các quyền cơ bản của con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân. Trong các quyền cơ bản của con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân có quyền được bảo đảm quyền bảo vệ trước Tòa án. Ở
Việt Nam các quyền này trước đây cũng đã được quy định ngay trong Hiến
pháp đầu tiên do Nhà nước ta ban hành và hiện nay được quy định tại Chương
II của Hiến pháp năm 2013, bao gồm các Điều từ Điều 14 đến Điều 49. Thể
chế hóa các quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật TTDS đã quy định
trong TTDS các đương sự có quyền và nghĩa vụ chứng minh, trong đó có việc
cung cấp chứng cứ cho Tòa án và Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho các
đương sự được thực hiện quyền này. Như vậy, quyền cơ bản của con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp là một


×