Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

chứng cứ trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.78 KB, 9 trang )

Luật Tố tụng dân sự
Mục lục
Mục lục...........................................................................................................................................................1
B-PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................................................1
2.Các đặc tính của chứng cứ.................................................................................................................2
1.Cung cấp chứng cứ ............................................................................................................................2
2.Thu thập chứng cứ .............................................................................................................................3
3.Nghiên cứu chứng cứ.........................................................................................................................4
4. Đánh giá chứng cứ ............................................................................................................................6
1.Hoàn thiện pháp luật về vấn đề cung cấp chứng cứ..........................................................................6
2.Hoàn thiện pháp luật về vấn đề thu thập chứng cứ............................................................................8
3.Hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề nghiên cứu, đánh giá chứng cứ.......................................8
A- PHẦN MỞ ĐẦU
Chứng cứ là cái có thật mà căn cứ vào đó để Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Chính
vì vậy, hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ bị chi phối bởi rất
nhiều yếu tố khác nhau và được quy định trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nối tiếp
và đôi khi không thể tách rời về mặt cơ học. Mỗi giai đoạn sẽ có các chủ thể tương ứng
tham gia đóng vai trò quan trọng tùy thuộc vào quyền, nghĩa vụ của mỗi chủ thể. Pháp
luật cũng quy định mỗi giai đoạn phải đáp ứng một trình tự thủ tục khác nhau, các chủ
thể chứng minh phải tuân thủ trình tự này để xác định chính xác các tình tiết, sự kiện
được coi là chứng cứ, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án.
B- PHẦN NỘI DUNG
I- Khái quát về chứng cứ trong tố tụng dân sự
1. Khái niệm chứng cứ
Bài tập học kỳ Trang 1
Luật Tố tụng dân sự
Trong một vụ việc dân sự thường có rất nhiều tình tiết, sự kiện mà quan hệ pháp luật
giữa các bên đương sự phụ thuộc vào nó.Những tình tiết, sự kiện đó bao gồm các tin
tức, dấu vết được thể hiện dưới những hình thức nhất định do Tòa án sử dụng làm cơ sở
để giải quyết vụ việc dân sự được gọi là chứng cứ.
Chứng cứ có vai trò quyết định trong việc giải quyết vụ án dân sự nếu không có


chứng cứ thì không thể giải quyết được vụ việc dân sự. Điều 81 BLTTDS qui định: “
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan,
tổ chức, khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này qui định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối
của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cung như những tình tiết khác cần
thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
2. Các đặc tính của chứng cứ
Để xác định đâu là chứng cứ của vụ việc dân sự cần dựa vào các đặc tính của chứng
cứ như sau:
- tính khách quan: Là những gì có thật, tồn tại một cách độc lập, khách quan không
phụ thuộc vào ý chí của con người. Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng
chỉ cung cấp, thu thập, nghiên cứu chứng cứ chứ không tạo ra chứng cứ trong quá trình
giải quyết vụ án
- tính liên quan: là có mối quan hệ với vụ án. Mối quan hệ này có thể là trực tiếp
cũng có thể là gián tiếp.
- tính hợp pháp: Được thể hiện qua quá trình cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo
quản theo một trình tự của pháp luật quy định.
Những đặc tính này của chứng cứ trong tố tụng dân sự là cơ sở cho hoạt động thu
thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong các vụ án dân sự
II- Vấn đề cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ tại tòa án cấp sơ
thẩm, phúc thẩm
1. Cung cấp chứng cứ
Cung cấp chứng cứ (giao nộp chứng cứ) là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng
trong việc đưa lại cho tòa án, viện kiểm sát các chứng cứ của vụ việc dân sự.
1
- Cơ sở pháp lý: Điều 84 BLTTDS
- Nội dung:
a) Chủ thể :
a.1. Chủ thể có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ: Khoản 1 Điều 6 và Điều 79 BLTTDS
có quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về các đương sự; các cá nhân, cơ quan

tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc bảo vệ lợi ích
hợp pháp của người khác. Theo đó các chủ thể này khi muốn yêu cầu Tòa án bảo vệ hay
phản đối yêu cầu của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
hay phản đối đó là hợp pháp.
1
Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, trường đại học Luật Hà Nội, 2006, tr.162
Bài tập học kỳ Trang 2
Luật Tố tụng dân sự
+ Đương sự : BLTTDS đặc biệt chú ý tới nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của các đương sự vì
đây là các chủ thể chủ yếu tham gia vào các vụ án dân sự. Do đó, để đề cao trách nhiệm
cung cấp chứng cứ của các đương sự, BLTTDS đã quy định trách nhiệm về việc không thực
hiện nghĩa vụ chứng minh của họ (Khoản 4 Điều 79 BLTTDS).
+ Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
hoặc bảo vệ lợi ích hợp pháp của người khác
a.2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ : Theo quy định
tại Điều 94 BLTTDS : “ cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có
trách nhiệm cung cấp đầy đủ kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu...”. Đồng thời ,trong trường hợp
họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì phải chịu trách nhiệm về việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó của họ (Điều 385).
b. Thủ tục giao nộp chứng cứ
Người khởi kiện hay người kháng cáo phải gửi phải kèm theo đơn khởi kiện, đơn kháng cáo tài
liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp theo quy định tai
Điều 165, 244 BLTTDS. Đồng thời, người được thông báo phải gửi văn bản ghi ý kiến của mình
đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có theo quy định tại Điều
175 BLTTDS.
Ngoài ra cũng cần phải quan tâm đến vấn đề liên quan đến chứng cứ bằng tiếng dân
tộc thiểu số, tiếng nước ngoài, trong trường hợp này đương sự giao nộp cho Toà án
chứng cứ phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp
pháp. Cùng với đó, tại Điều 84 BLTTDS cũng quy định khi đương sự giao nộp chứng

cứ cho Toà án phải được lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ đó.
Ngoài ra vấn đề giao nhận chứng cứ còn được quy định rất cụ thể tại Phần III, V
Nghị quyết số 04/2005/NQ- HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định về “Chứng minh
và chứng cứ”.
2. Thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào trong hồ
sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự.
Do vậy, nếu như cung cấp chứng cứ là việc chủ thể tố tụng đưa cho tòa án, viện
kiểm sát chứng cứ mà mình đang có hoặc đang quản lý thì thu thập chứng cứ lại được
coi là quá trình tìm kiếm chứng cứ để đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự.
Cùng với hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ nhằm tìm ra những tình
tiết, sự kiện có liên quan đến vụ việc dân sự đang cần giải quyết, tạo cơ sở cho việc giải
quyết vụ việc dân sự.
- Cơ sở pháp lý : Điều 85 – BLTTDS
- Nội dung :
a, Chủ thể
Tương tự với giai đoạn cung cấp chứng cứ, đương sự có nghĩa vụ chứng minh chủ
yếu nên đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
Bài tập học kỳ Trang 3
Luật Tố tụng dân sự
sự là các chủ thể chủ yếu phải tiến hành thu thập chứng cứ để cung cấp cho tòa . Tuy
nhiên, đối với thu thập chứng có thể có thêm số chủ thể khác tham gia như Tòa án và
Viện kiểm sát.
Theo quy định tại các điều từ Điều 86 đến Điều 93 BLTTDS, có thể thấy Tòa án sẽ
tiến hành thu thập chứng cứ trong các trường hợp do đương sự không thể tự mình thu
thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Tòa án mới tiến hành một số biện pháp thu thập
chứng cứ; hoặc như quy định cụ thể tại Điều 87; 88; 92 - Nghị quyết số 04/2005/NQ-
HĐTP thì tòa án phải tự mình tiến hành một số các biện pháp thu thập chứng cứ.
Cùng với đó, pháp luật cũng có trao quyền cho Viện kiểm sát thu thập chứng cứ
trong những trường hợp cần thiết. Tuy nhiên các biện pháp mà viện kiểm sát sử dụng để

thu thập chứng cứ được giới hạn trong phạm vi yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm được quy định cụ thể tại Khoản 4 Điều 85 BLTTDS.
c, Trình tự, thu thập thu thập chứng cứ của tòa án
Đương sự có yêu cầu Tòa án tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng
cứ phải được thể hiện bằng văn bản theo quy định tại Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP
(có thể làm bằng văn bản riêng, có thể ghi trong bản khai, có thể ghi trong biên bản ghi
lời khai, biên bản đối chất). Ngoài ra nếu đương sự trực tiếp đến Tòa án yêu cầu thì phải
lập biên bản ghi rõ yêu cầu của đương sự. Trường hợp yêu cầu Tòa án tiến hành thu
thập chứng cứ bằng biện pháp yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ
theo quy định tại Điều 94 của BLTTDS thì phải có đơn yêu cầu.
Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã nộp tiền tạm ứng chi phí
tương ứng, nếu thuộc trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng. Chính vì
vậy, khi đương sự có yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, Tòa án cần phải giải
thích cho đương sự biết về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng (chi phí giám
định, tiền tạm ứng chi phí định giá…).
Luật tố tụng dân sự đã có quy định khá cụ thể tại các điều từ Điều 86 đến Điều 94
BLTTDS và Phần IV Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP về trình tự thủ tục của từng
biện pháp thu thập chứng cứ cụ thể được thực hiện.
d. Bảo quản, bảo vệ chứng cứ
Bảo quản chứng cứ là giữ gìn giá trị chứng minh của chứng cứ. Việc bảo quản
chứng cứ trong tố tụng dân sự được thực hiện theo quy định cụ thể tại Điều 95
BLTTDS
Bảo vệ chứng cứ là chống lại các hành vi xâm phạm chứng cứ để giữ gìn giá trị
chứng minh của chứng cứ. Việc bảo vệ chứng cứ được thực hiện theo quy định tại Điều
98 BLTTDS.
3. Nghiên cứu chứng cứ
Từ khi khởi kiện, đương sự đã thực hiện việc cung cấp, thu thập chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu hay lập luận của mình nhưng đây là những chứng cứ được xuất trình riêng rẽ
mà chưa đặt vào tổng thể các chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự. Tuy nhiên nhờ các hoạt

Bài tập học kỳ Trang 4
Luật Tố tụng dân sự
động xem xét chứng cứ được thu thập trong mối liên hệ mật thiết với nhau, so sánh
chứng cứ này với chứng cứ khác, phân tích các chứng cứ trong mối liên hệ với các tình
tiết của vụ án giúp tòa án giải quyết đúng đắn, nhanh chóng vụ việc dân sự, có cơ sở để ra các
quyết định như tạm đình chỉ, đình chỉ, chuyển vụ án, hòa giải…
- Cơ sở pháp lý :
- Nội dung :
a. Chủ thể
Việc nghiên cứu chứng cứ đều do các chủ thể chứng minh thực hiện trên cơ sở
đọc, xem xét, tìm hiểu chứng cứ một cách cụ thể, toàn diện trong hồ sơ vụ việc dân sự
cũng như tại phiên tòa để khẳng định hay phản đối các tình tiết, sự kiện được xác định
là chứng cứ của vụ việc dân sự.
Đầu tiên phải kể đến sự tham gia nghiên cứu chứng cứ của đương sự, họ là người
tích cực trong hoạt động nghiên cứu chứng cứ với các quyền như được biết và ghi chép,
sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập
quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 58 BLTTDS; tham gia phiên tòa sơ thẩm hay phúc
thẩm tại Điều 199, 200, 201…
Cùng với đương sự là người đại diện, ho sẽ thay mặt đương sự thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của đương sự mà mình đại diện như trên.
Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự được quyền tham gia tố tụng từ khi
khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự, được quyền xác
minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và
được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự quy định tại Điều 64 BLTTDS; và
được trình bày ý kiến tại phiên tòa theo quy định tại Điều 221 BLTTDS.
Bên cạnh đó quy định tại Điều 262 và Điều 264 BLTTDS đã trao quyền cho Viện
kiểm sát tham gia vào phiên tòa phúc thẩm, tham gia việc xét hỏi, xem xét vật chứng,
nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Ngoài ra Hội đồng xét xử với tư cách là chủ thể mang tính chất quyết định kết

luận về giá trị chứng minh và qua đó kết luận về việc giải quyết vụ án nên việc nghiên
cứu chứng cứ được coi là bắt buộc đối với Hội đồng xét xử tại phiên phiên tòa và trong
phòng nghị án. Các chủ thể như đương sự, người đại diện, người bảo vệ có quyền tham
gia vào hoạt động đánh giá chứng cứ nhưng việc đánh giá của họ không mang tính chất
bắt buộc mà chỉ có giá trị tham khảo đối với tòa án.
b. Trình tự, thủ tục nghiên cứu chứng cứ
Việc nghiên cứu chứng cứ được diễn ra trong toàn bộ quá trình tòa án giải quyết vụ
việc dân sự. Tuy nhiên, trọng tâm của hoạt động nghiên cứu chứng cứ là giai đoạn xét
hỏi tại phiên tòa (phiên họp). Các thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm được quy
định cụ thể tại Điều 272 BLTTĐS và Mục 3 Chương XIV.
Bài tập học kỳ Trang 5

×