Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luật Phá sản năm 2014 - Bước phát triển của pháp luật phá sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.14 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

QUÁCH THỊ THU HƢƠNG

LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014 – BƢỚC PHÁT TRIỂN
CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

QUÁCH THỊ THU HƢƠNG

LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014 – BƢỚC PHÁT TRIỂN
CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ
trợ, giúp đỡ từ Người hướng dẫn là PGS.TS Nguyễn Viết Tý. Các số liệu khoa
học trong luận văn được trích đẫn theo đúng nguồn đã công bố. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kì công trình
nào trước đây.
Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Quách Thị Thu Hương


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁ SẢN VÀ

6

PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
1.1. Khái niệm phá sản và pháp luật phá sản


6

1.1.1. Khái niệm phá sản

6

1.1.2. Khái niệm pháp luật phá sản

8

1.2. Sơ lƣợc về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật

10

phá sản Việt Nam
1.3. Vai trò của pháp luật phá sản

14

CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI MANG TÍNH PHÁT TRIỂN

18

CỦA LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014
2.1. Cơ sở ban hành Luật Phá sản (2014)

18

2.2. Sự đổi mới về kết cấu của Luật Phá sản năm 2014


20

2.2.1. Kết cấu của Luật Phá sản (2014)

20

2.2.2. Bổ sung thủ tục phá sản tổ chức tín dụng và thủ tục có yếu

25

tố nước ngoài – nét đặc thù trong kết cấu của Luật Phá sản (2014)
2.3. Nhận thức mới về lý do phá sản doanh nghiệp
2.3.1. Quan niệm về doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo

31
32

các luật phá sản trước đây
2.3.2. Quan niệm về doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo

34

Luật Phá sản (2014)
2.4. Những điểm mới trong thiết chế quản lý và thanh lý tài sản
2.4.1. Thiết chế quản lý và thanh lý tài sản theo Luật Phá sản 1993

36
36


và Luật Phá sản 2004
2.4.2. Vị trí pháp lý của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý tài
sản theo Luật Phá sản (2014)

39


2.5. Vị trí của Hội nghị chủ nợ theo Luật Phá sản (2014)

43

2.5.1. Về điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ

47

2.5.2. Về lập ban đại diện chủ nợ

48

2.6. Luật Phá sản (2014) ghi nhận quy định mới về thủ tục phục

48

hồi
2.7. Điểm mới trong thủ tục xử lý nợ

52

2.8. Một số điểm mới khác


55

2.8.1. Người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá

55

2.8.2. Thủ tục thương lượng trước khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ

57

sản

tục phá sản
2.8.3. Xác định tiền lãi đối với các khoản nợ

58

2.8.4. Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản theo thủ tục rút

58

2.8.5. Về thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án

59

2.8.6. Việc giải quyết đề nghị xem xét lại, kiến nghị quyết định

60

gọn


tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO VIỆC THỰC THI

61

QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN 2014
3.1. Giải pháp tiếp tục bổ sung và cụ thể hóa các quy định của

61

Luật phá sản (2014)
3.1.1. Tăng thêm nhiệm vụ và thẩm quyền cho Quản tài viên

62

3.1.2. Về việc phá sản đối với các tổ chức tín dụng

65

3.1.3. Về đối tượng áp dụng của Luật phá sản (2014)

66

3.1.4. Về các loại tài sản được miễn trừ

67

3.1.5. Cơ chế hoạt động của Ban đại diện chủ nợ


68


3.1.6. Về quy định tuyên bố phá sản và quy định việc thực hiện

69

phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
3.1.7. Các biện pháp đàm phán, thương lượng giữa chủ nợ với

70

doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
3.1.8. Về giá trị pháp lý của điều khoản hợp đồng trong trường

70

hợp
tạm đình chỉ, chấm dứt hợp đồng đang có hiệu lực
3.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện Luật phá sản (2014)

71

3.2.1. Tổ chức phổ biến và tuyên truyền Luật phá sản (2014)

71

3.2.2. Cần ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật phá sản
(2014)


72

3.2.3. Cần nâng cao công tác chỉ đạo điều hành

72

3.2.4. Cần nâng cao năng lực, kiến thức của các cán bộ có thẩm

72

quyền
3.2.5. Cần nâng cao ý thức của các doanh nghiệp, hợp tác xã

73

mất khả năng thanh toán và chủ nợ
3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra và xử lý vi phạm

73

KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

TCTD

Tổ chức tín dụng


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, phá sản doanh nghiệp được coi
là hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại khách quan. Dưới sự không ngừng vận
động và phát triển của nền kinh tế ấy, các doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau
để có thể duy trì được chỗ đứng và hướng tới lợi nhuận của mình trên thị
trường. Do vậy, phá sản là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Phá
sản tác động đến chủ nợ, con nợ và xã hội nói chung ở cả hai khía cạnh: tích
cực và tiêu cực. Chính vì thế, pháp luật phá sản là một chế định không thể
thiếu để duy trì môi trường kinh doanh ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong kinh doanh và tạo sự bình ổn về trật tự xã hội.
Pháp luật phá sản đã trải qua một chặng đường dài của sự hình thành và
phát triển từ những quy định ban đầu về phá sản trong Luật doanh nghiệp tư
nhân (1990), Luật công ty (1990), Luật phá sản doanh nghiệp (1993) cho đến
Luật phá sản (2004) và mới đây nhất là sự ra đời của Luật phá sản (2014).
Trước khi Luật phá sản (2014) ra đời, Luật phá sản (2004) được coi là một sự
phát triển và hoàn thiện trong quá trình xây dựng pháp luật phá sản ở nước ta.
Luật phá sản (2004) đã khắc phục được những hạn chế và quy định một cách
chi tiết hơn so với Luật phá sản (1993) giúp cho quá trình giải quyết các vụ
việc phá sản được tiến hành một cách nhanh gọn.

Tuy nhiên, nền kinh tế luôn phát triển không ngừng và sau gần 10 năm
thi hành, các quy định của Luật phá sản (2004) đã không còn phù hợp, nhiều
quy định còn chưa rõ ràng, mâu thuẫn với nhau và không đáp ứng được nhu
cầu phá sản, khôi phục lại hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản. Điều đó dẫn đến hiệu quả thực thi của Luật phá sản
(2004) không cao. Xuất phát từ những bất cập và hạn chế đó, việc sửa đổi
những quy định của Luật phá sản là một điều tất yếu đối với bối cảnh nền kinh
tế hiện tại. Việc sửa đổi Luật phá sản (2004) nhằm đáp ứng yêu cầu của chiến
lược cải cách tư pháp, hướng đến xây dựng những quy định về luật phá sản cụ
thể, rõ ràng, dễ hiểu, có tính khả thi cao trong quá trình áp dụng vào thực tiễn


2
nhằm phát huy vai trò của pháp luật phá sản đối với nền kinh tế thị trường,
giúp cho các doanh nghiệp có hướng đi đúng trong quá trình hình thành và
phát triển, đề cao vai trò, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan tổ chức trong
quá trình giải quyết phá sản, bảo đảm tối đa quyền và lợi ích của người lao
động.
Ngày 19/06/2014, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật phá sản số 51/2014/QH13, Luật
này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015. Luật phá sản (2014) ra đời được đánh
giá là có những sửa đổi khá căn bản và toàn diện so với Luật phá sản (2004).
Việc ban hành Luật phá sản (2014) đã đáp ứng được nhu cầu cấp bách của nền
kinh tế chung toàn xã hội và các doanh nghiệp trên thị trường, hứa hẹn sẽ giải
quyết được những bất cập của các quy định về phá sản trước đây. Nhận diện
được những điểm mới mang tính phát triển của Luật phá sản (2014) sẽ giúp
cho việc áp dụng Luật phá sản (2014) có hiệu quả, bên cạnh đó, chủ thể áp
dụng luật phá sản (2014) cũng có một cái nhìn toàn diện và khách quan hơn
về Luật phá sản (2014) nói chung và những điểm mới mang tính phát triển nói
riêng. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Luật phá sản năm 2014 – Bước phát

triển của pháp luật phá sản Việt Nam” để nghiên cứu và trình bày trong luận
văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện tại, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của
các tác giả ở nhiều cấp độ và quy mô khác nhau về các vấn đề của Luật phá
sản, có những điểm tiệm cận với đề tài nghiên cứu trên đây. Chúng ta có thể
kể đến công trình nghiên cứu: (i) Cuốn “Pháp luật phá sản Việt Nam” của
PGS -TS Dương Đăng Huệ, xuất bản 2005; (ii) “Luật phá sản doanh nghiệp
Việt Nam dưới góc độ Luật so sánh và phương hướng hoàn thiện” - Trương
Hồng Hải, Luận án tiến sĩ luật học, 2004; (iii) “Quản lý và xử lý tài sản phá
sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam” - Vũ Thị Hồng Vân, Luận
án tiến sĩ luật học, 2008 v.v..


3
Ngoài ra, cũng có những luận văn thạc sĩ mới đây có những vấn đề
nghiên cứu khá gần với đề tài luận văn này, như: (i) “Vai trò của chủ nợ trong
quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp” - Nguyễn Thái Trường, Luận văn
thạc sĩ luật học 2014; (ii) “Luật phá sản (2004) - Những hạn chế, bất cập và
giải pháp hoàn thiện” – Hoàng Thị Kim Anh, Luận văn thạc sĩ luật học 2014;
(iii) “Hoàn thiện pháp luật phá sản Việt Nam theo các khuyến nghị của hướng
dẫn xây dựng luật phá sản của Uncitral năm 2005” – Nguyễn Văn Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học 2010; (iv) “Phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của pháp luật phá sản
Việt nam” – Trần Thị Ngọc, Luận văn thạc sĩ luật học 2014; (v) “Thủ tục
thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
theo quy định của pháp luật Việt Nam” – Nguyễn Thị Thanh Mai, Luận văn
thạc sĩ luật học, 2014…
Tuy nhiên, cũng vì Luật phá sản (2014) mới ra đời nên đến thời điểm
này cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu nào về những nét mới của Luật

này để minh chứng cho sự phát triển của pháp luật phá sản ở Việt Nam mà chỉ
có những buổi tọa đàm khoa học, hội thảo về vấn đề trên như: Tọa đàm khoa
học với nội dung: “Một số nội dung mới của Luật phá sản năm 2014” của Bộ
môn Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Hà Nội; và những bài viết có
liên quan khác trên báo chí.
3. Phạm vi và nội dung nghiên cứu của đề tài
Về phạm vi nghiên cứu, Luận văn chủ yếu nghiên cứu những quy định
của Luật phá sản (2014) và các văn bản pháp luật có liên quan. Các số liệu
được sử dụng trong luận văn được giới hạn từ khi có pháp luật phá sản đến
năm 2013 - dấu mốc thực hiện việc báo cáo tổng kết thi hành Luật phá sản
(2004).
Về nội dung nghiên cứu, Luận văn chú trọng vào việc nghiên cứu các
quy định của Luật phá sản (2014) để từ đó chỉ ra những điểm mới mang tính
phát triển của Luật này. Bên cạnh đó, Luận văn sẽ đi vào phân tích cụ thể


4
những điểm mới đó trong mối quan hệ so sánh với quy định của các luật phá
sản trước đây.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sự kết hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề tài
là: phân tích, tổng hợp, chứng minh, hệ thống hóa pháp luật với phương pháp
luật học so sánh.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về những nét mới của Luật phá sản (2014) nhằm
hướng đến việc tìm hiểu rõ những quy định mới của Luật phá sản (2014) để
minh chứng cho sự phát triển của pháp luật phá sản Việt Nam, đồng thời tìm
kiếm giải pháp để sớm đưa Luật phá sản (2004) vào cuộc sống.

Với mục đích trên, Luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu sau: (i) Khái
quát hóa một số vấn đề lý luận về phá sản và pháp luật phá sản; (iii) Phân tích
đánh giá những điểm mới của Luật Phá sản năm 2014 so với Luật Phá sản
(1993) Luật Phá sản (2004); (iii) Đề xuất giải pháp đảm bảo thực thi quy định
của Luật phá sản (2014).
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn đạt được những kết quả nghiên cứu: (i) Đã hệ thống hóa và giải
quyết được một số vấn đề lý luận về phá sản và pháp luật phá sản; (ii) Làm
sáng tỏ được những điểm mới của Luật Phá sản năm 2014, qua đó chứng
minh cho sự phát triển của pháp luật phá sản Việt Nam; (iii) Đề xuất được một
số giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn để sớm thực thi quy định của Luật
phá sản (2014).
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phá sản và pháp luật phá sản;


5
Chương 2: Những điểm mới mang tính phát triển của Luật phá sản
(2014);
Chương 3: Một số giải pháp đảm bảo việc thực thi quy định của Luật
phá sản (2014).


6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
1.1. Khái niệm phá sản và pháp luật phá sản
1.1.1. Khái niệm phá sản

Phá sản được coi là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường,
là kết quả của quá trình cạnh tranh và đào thải tự nhiên trong môi trường kinh
doanh ấy. Phá sản được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau:
♦ Dưới góc độ ngôn ngữ, có thể nói, khái niệm “phá sản” xuất hiện ở
châu Âu khá sớm, khi nói đến phá sản doanh nghiệp, người ta thường dùng
thuật ngữ “bankruptcy” hoặc “Banqueroute”. Hai danh từ này bắt nguồn từ
chữ “Banca Rotta” của La Mã – có nghĩa là “chiếc ghế bị gãy”. Từ khi nền
kinh tế phát triển, Nhà nước La Mã cổ đại có Luật Phá sản thì thuật ngữ phá
sản được hình thành, bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng Latin – có nghĩa là
khánh tận, mất khả năng thanh toán [19].
Một khái niệm nữa trong tiếng Anh được sử dụng với ý nghĩa như là phá
sản đó là “insolvency” . Khái niệm này thực chất có nghĩa là “mất khả năng chi
trả”, là khái niệm pháp lý thường được sử dụng trong trường hợp công ty đối
mặt với khó khăn tài chính, bao gồm các vấn đề về tính thanh toán và thành quả
hoạt động.
Ở Việt Nam, theo từ Điển tiếng Việt, “Phá sản” có nghĩa là: lâm vào
tình trạng chẳng còn gì và thường là vỡ nợ, do kinh doanh thua lỗ hoặc bị thất
bại. Khái niệm “vỡ nợ” được hiểu là lâm vào tình trạng bị thua lỗ, thất bại liên
tiếp trong kinh doanh, phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ để trả nợ [8,
tr.762].
♦ Dưới góc độ kinh tế, phá sản là một hiện tượng để chỉ tình trạng làm
ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán các khoản nợ của các doanh nghiệp hoặc
các cá nhân có hoạt động kinh doanh. Phá sản thường gây ảnh hưởng dây
chuyền đến công việc kinh doanh bình thường của các cá nhân, doanh nghiệp
bạn hàng và cũng để lại những ảnh hưởng đối với kinh tế - xã hội nói chung.


7
Tuy nhiên, những ảnh hưởng, tác động của phá sản không phải lúc nào cũng
là ảnh hưởng tiêu cực, bởi xét trên quy luật của thị trường thì phá sản cũng là

một điều cần thiết để tạo ra lối thoát cho các doanh nghiệp và tạo đà cho nền
kinh tế có những bước phát triển mới.
♦ Dưới góc độ pháp lý, khái niệm “phá sản” thường được dùng để nói
đến tình trạng mất cân đối giữa thu, chi trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được biểu hiện qua tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn. Đồng thời phá sản còn được nhìn nhận như là một thủ tục tố tụng đặc
biệt - thủ tục để phục hồi và xử lý nợ đối với các doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Luật phá sản Doanh nghiệp (1993) đã không đưa ra khái niệm phá sản
mà chỉ gián tiếp định nghĩa tại Điều 2 như sau: “Doanh nghiệp đang lâm vào
tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt
động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo đó, chúng ta có thể hiểu một
doanh nghiệp được coi là lâm vào tình trạng phá sản phải thỏa mãn ba điều
kiện là: (i) Doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản
xuất kinh doanh; (ii) Doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp tài chính cần
thiết để khắc phục việc mất khả năng thanh toán nhưng không khắc phục
được; (iii) Doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn;
Tuy nhiên, sau nhiều năm áp dụng, quy định trên đã bộc lộ những hạn
chế nhất định. Bởi lẽ, trên thực tế, nếu chủ nợ phải đợi doanh nghiệp đủ các
điều kiện bị coi là lâm vào tình trạng phá sản mới yêu cầu phá sản thì rất khó
lấy lại các khoản nợ. Về phía chủ doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp phải chờ
đến khi đủ các điều kiện để được coi là lâm vào tình trạng phá sản theo luật
thì khả năng phục hồi của doanh nghiệp lúc đó cũng bị hạn chế rất nhiều.
Nhằm khắc phục nhược điểm trên, Luật phá sản năm (2004) đã có sửa
đổi đáng kể. Tương tự như Luật phá sản (1993), khái niệm “phá sản” cũng
gián tiếp được định nghĩa qua quy định về doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản tại Điều 3 Luật phá sản (2004): “doanh nghiệp, hợp tác xã
được coi là lâm vào tình trạng phá sản là khi không còn khả năng thanh toán



8
các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu”. Căn cứ theo quy định mới, một
doanh nghiệp được coi là lâm vào tình trạng phá sản chỉ cần phải thỏa mãn
điều kiện không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu
cầu. Quy định này được coi là phù hợp hơn vì đối với chủ nợ, nếu yêu cầu phá
sản doanh nghiệp thì khả năng đòi nợ của họ vẫn còn, khả năng phục hồi
doanh nghiệp đối với chủ doanh nghiệp cũng vẫn còn, hơn nữa, chủ doanh
nghiệp lại có thể nhanh chóng thoát khỏi tình trạng vỡ nợ hơn so với quy định
của luật 1993.
Tuy nhiên, Luật phá sản (2014) sửa đổi đã thể hiện những tiến bộ nhất
định bằng việc đưa ra định nghĩa “phá sản” tại Khoản 2 Điều 4 như sau:
“Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”.
Tiêu chí để xác định việc doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán cũng được quy định rõ ràng tại Khoản 1 Điều 4 của luật này.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy, dưới mỗi góc độ nhìn nhận khác
nhau, chúng ta lại có thể hiểu về khái niệm “phá sản” một cách khác nhau.
Tuy nhiên, tựu trung lại, khái niệm phá sản theo quy định tại Luật phá sản nào
cũng đều được nhìn nhận qua tiêu chí để xác định một doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản. Điều này sẽ giúp cho các cá nhân, doanh
nghiệp có một cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn.
1.1.2. Khái niệm pháp luật phá sản
Pháp luật phá sản được hiểu là một tổng thể thống nhất các quy phạm
pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp.
Pháp luật phá sản là một chế định đặc thù trong luật thương mại, bao
gồm cả các quy phạm pháp luật về nội dung và quy phạm pháp luật về hình
thức, điều chỉnh 2 nhóm quan hệ: quan hệ pháp luật nội dung (quan hệ giữa
chủ nợ và con nợ) và quan hệ pháp luật hình thức (quan hệ giữa các chủ nợ,

con nợ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Bên cạnh đó, pháp luật phá sản


9
còn điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình tuyên bố phá sản,
thanh lý tài sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
hay mất khả năng thanh toán.
Luật phá sản xuất hiện trên Thế giới từ khá sớm, ngay từ thời Trung cổ,
các quốc gia châu Âu đã ban hành những văn bản Luật Phá sản đầu tiên.
Trong khoảng thời gian đó, phạm vi áp dụng của những luật này chỉ giới hạn
trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, nhưng dần dần đã được đưa vào áp
dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, và cho đến nay, pháp
luật về phá sản đã điều chỉnh cả các quan hệ kinh doanh của các cá nhân, phá
sản tiêu dùng. Pháp luật phá sản thế giới điều chỉnh những nội dung cơ bản
như: phạm vi áp dụng của Luật phá sản, lý do dẫn đến phá sản và đặc biệt là
thủ tục giải quyết phá sản. Trên thế giới, người ta còn phân biệt hai thủ tục
giải quyết phá sản, bao gồm thủ tục chính thức và thủ tục không chính thức.
Thủ tục phá sản không chính thức là thủ tục giải quyết tình trạng phá sản
không có sự can thiệp của Toà án mà dựa trên sự thoả thuận tự nguyện giữa
người mắc nợ và chủ nợ. Thủ tục này được hình thành vào những năm 80 của
thế kỷ XIX, ban đầu tại một số nước như Anh và Hoa Kỳ. Đây được coi là
giải pháp tích cực thay thế hoặc hỗ trợ cho thủ tục phá sản chính thức. Thủ tục
chính thức là những thủ tục giải quyết tình trạng phá sản được điều chỉnh
bằng pháp luật và thông qua Toà án. Các thủ tục này có những tên gọi khác
nhau, nhưng bản chất đó là hai loại thủ tục chính: Thủ tục thanh toán (phá sản,
thanh toán, thanh lý tài sản và các khoản nợ); Thủ tục phục hồi (cam kết, thoả
thuận, tổ chức lại).[15]
Pháp luật phá sản của Việt Nam cũng thể hiện sự phù hợp với pháp luật
pháp sản Thế giới và đặc thù của nền kinh tế đất nước qua những nội dung cơ
bản như: (i) xác định đối tượng áp dụng Luật phá sản; (ii) xác định lý do dẫn

đến phá sản – mất khả năng thanh toán nợ đến hạn; (iii) quy định về cơ quan
có thẩm quyền tuyên bố phá sản; (iv) quy định thủ tục giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp. [15]
Hệ thống các quy phạm pháp luật phá sản Việt Nam gồm có các luật
phá sản, các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định, Quyết định, Nghị Quyết,


10
Thông tư) và cả những văn bản pháp luật có liên quan trong quá trình giải
quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp (Luật Thương mại, Luật Doanh
nghiệp, Luật Thi hành án dân sự…) Trong đó, luật phá sản đóng vai trò
trung tâm, vì nó quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về lý do phá
sản, cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản và đặc biệt là về thủ
tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
1.2. Sơ lƣợc về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật
phá sản Việt Nam
Có thể nói, pháp luật phá sản ở Việt Nam đã trải qua một giai đoạn
hình thành và phát triển dài gắn liền với nhiều những thay đổi và biến
chuyển của kinh tế - xã hội.
Trước giải phóng miền Nam, ở Việt Nam đã xuất hiện hai đạo luật
điều chỉnh về phá sản đó là Luật phá sản trong Luật thương mại Trung
phần (1942) và Luật phá sản trong Luật thương mại miền Nam Việt Nam
(1973). Thời kỳ này, ở miền Nam Việt Nam, phá sản doanh nghiệp (khánh
tận thương nhân) được điều chỉnh chủ yếu bởi 2 văn bản trên, ở miền bắc
Việt Nam, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, không tồn tại hiện tượng
phá sản trong nền kinh tế nên cũng không có pháp luật về phá sản.
Giải phóng miền Nam đã mở ra một thời kỳ mới, với sự xuất hiện
của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong phạm vi cả nước, không
khuyến khích cạnh tranh. Lúc này, Nhà nước như một xí nghiệp lớn, các
đơn vị kinh doanh đều chịu sự kiểm soát và định đoạt của Nhà nước, nếu

kinh doanh thua lỗ thì Nhà nước sẽ bù lỗ. Hoạt động của các xí nghiệp, hợp
tác xã lúc bấy giờ rất kém hiệu quả, không có tính cạnh tranh, không có sự
phát triển. Nhà nước đã luôn phải đứng ra để “cứu” các doanh nghiệp thua
lỗ, nợ nần bằng cách khoanh nợ, xóa nợ, hoãn nợ…hoặc sáp nhập, giải thể
để chấm dứt hoạt động của chúng.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã bộc lộ rất nhiều những yếu
điểm và nguy cơ thụt lùi so với nền kinh tế chung của toàn thế giới. Do vậy,
Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ VI năm 1986 đã khởi xướng công cuộc đổi


11
mới ở nước ta. Công cuộc đổi mới này đã thể hiện trọng tâm ở việc đổi mới
nền kinh tế. Điều 15 của Hiến pháp 1992 đã thể hiện đường lối phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như một điều tất yếu của
sự phát triển, yếu tố cạnh tranh trong nền kinh tế ở giai đoạn này đã xuất
hiện và ngày càng tăng mạnh, lợi nhuận là mục đích mà các doanh nghiệp
đều hướng đến, do vậy tất cả các doanh nghiệp đều phải cạnh tranh để đạt tối
đa lợi nhuận cho mình. Chịu ảnh hưởng của quy luật cạnh tranh, một số
doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh mạnh đã vươn lên để chiếm lĩnh thị
trường, còn những doanh nghiệp yếu kém sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng
nợ nần, thua lỗ, kiệt quệ về tài sản, mất khả năng chi trả các khoản nợ của
mình. Lúc này, những quy định của pháp luật về phá sản ra đời như một sự
tất yếu của quá trình đổi mới trong nền kinh tế, nhằm đáp ứng nhu cầu được
“khai tử” của các doanh nghiệp không còn khả năng tồn tại trên thị trường.
Bắt đầu từ đây, pháp luật phá sản đã có những sự phát triển rõ rệt từ
những quy định đầu tiên về phá sản doanh nghiệp trong Luật Công ty và
Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990). Hai luật này cùng đưa ra tiêu chí giống
nhau về việc lâm vào tình trạng phá sản của doanh nghiệp đó là doanh
nghiệp tư nhân, công ty gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh

doanh đến mức tại một thời điểm tổng số giá trị các tài sản còn lại của
doanh nghiệp tư nhân, công ty không đủ thanh toán tổng số các khoản nợ
đến hạn. Đồng thời, Luật doanh nghiệp tư nhân và Điều 24 Luật Công ty
(1990) cũng quy định thẩm quyền tuyên bố phá sản của Trọng tài kinh tế
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương,
nơi công ty đặt trụ sở chính quyền tuyên bố phá sản theo đơn xin phá sản
của công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc đơn yêu cầu của chủ nợ, hay
kiến nghị của cơ quan có thẩm quyền. Vì là những quy định mới, còn sơ
khai và chưa chi tiết, cụ thể nên những điều luật trên chưa thể đi vào áp
dụng trong thực tế kinh doanh của các công ty, doanh nghiệp.
Tháng 12 năm 1993, Quốc Hội đã thông qua Luật phá sản doanh
nghiệp (1993) với 52 Điều quy định khá đầy đủ, chi tiết nhằm đáp ứng cơ


12
bản nhu cầu của các doanh nghiệp hơn so với những quy định về
phá sản của Luật Doanh nghiệp và Luật Công ty (1990). Bên cạnh
đó, Chính phủ còn ban hành Nghị định số 189/NĐ-CP ngày 23 tháng
12 năm 1994 để hướng dẫn thi hành luật này. Tuy nhiên, Luật Phá
sản doanh nghiệp (1993) được thiết kế với trọng tâm đặt vào việc tái
cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời thể hiện những tư tưởng
và chính sách kinh tế từ những nước có nền kinh tế chuyển đổi chứ
chưa phải từ những nước có nền kinh tế thị trường lâu đời. Hơn nữa,
trong những thời gian này, yếu tố chính trị vẫn can thiệp mạnh mẽ
hơn pháp luật, các cơ quan quản lý doanh nghiệp đều né tránh việc
phá sản các doanh nghiệp để che lấp sự quản lý yếu kém về kinh tế
nên pháp luật về phá sản và đặc biệt là Luật phá sản doanh nghiệp
(1993) chưa được sử dụng nhiều. Xét về việc thực thi Luật Phá sản
doanh nghiệp (1993), toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý được 151 đơn
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong đó chỉ tuyên bố được

46 doanh nghiệp bị phá sản. Nguyên nhân một phần là do yếu tố
chính trị như đã nêu trên, một phần là do những quy định của Luật
còn nhiều hạn chế, thiết sót trong buổi đầu xây dựng, chưa phù hợp
với nền kinh tế thị trường [22].
Khắc phục những hạn chế, thiếu sót đó, Luật phá sản (2004)
được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ năm vào ngày
15/6/2004. Cùng với sự ra đời của Luật Phá sản (2004), Chính phủ
cũng ban hành Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 hướng
dẫn việc áp dụng Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ
chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Ngoài ra, hệ thống
các văn bản hướng dẫn còn có Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005
hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản; Quyết định
của Chánh án Tòa án tối cao số 01/2005/QĐ- TANDTC ngày
27/4/2005 về Quy chế làm việc của Tổ thẩm phán phụ trách tiến
hành thủ tục phá sản v.v.. Có thể nói, pháp luật phá sản đến thời


13
điểm này đã có những sự hoàn thiện đáng kể trong các quy định của
luật cho đến những hướng dẫn chi tiết trong các Nghị định, Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán v.v.. Tuy nhiên, một thực tế vẫn
không thể tránh khỏi và đây có lẽ là điểm mà Luật Phá sản (2004)
vẫn chưa cải thiện được, đó là hiệu quả thực thi trên thực tế chưa
cao, số lượng các doanh nghiệp được tuyên bố phá sản vẫn chỉ là
phần nhỏ so với số đơn yêu cầu tuyên bố, ra quyết định mở thủ tục
phá sản. Theo báo cáo tổng kết thi hành Luật phá sản năm 2004,
trong tổng số 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, Tòa án đã ra 236
Quyết định mở thủ tục phá sản và trong đó chỉ ra được 83 Quyết
định tuyên bố phá sản. Trong 83 Quyết định tuyên bố phá sản có 07

trường hợp Tòa án ra Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
bị phá sản trong trường hợp đặc biệt (Điều 87 Luật Phá sản năm
2004). Có 153 vụ việc chưa ra Quyết định tuyên bố phá sản trong đó
có 49 vụ việc có lý do chưa thu hồi được các khoản nợ của doanh
nghiệp, hợp tác xã, chưa bán được các tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã [7, tr.4]. Bản chất của vấn đề nằm ở việc quy định của pháp
luật phá sản và Luật Phá sản (2004) chưa phù hợp với tình hình kinh
tế xã hội, không tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên bố
phá sản.
Nhận thức được những bất cập, hạn chế thiếu sót của Luật phá
sản (2004), Dự thảo Luật phá sản (sửa đổi) đã được đưa vào Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (2011 2016). Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Phá sản số 51/2014/QH13
thay thế cho Luật Phá sản (2004). Luật Phá sản (2014) có hiệu thực
thi hành kể từ ngày 01/01/2015, tính đến thời điểm hiện tại, Luật
Phá sản (2014) được đánh giá cao về sự thay đổi cơ bản và toàn diện
so với Luật phá sản (2004), hứa hẹn sẽ đem lại hiệu quả thực thi cao
trên thực tế, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển.


14
1.3. Vai trò của pháp luật phá sản
Như chúng ta đã biết, phá sản là một quy luật tất yếu của nền kinh tế
thị trường, nó là quá trình chọn lọc và đào thải tự nhiên, tạo nên những
bước phát triển mới đối với nền kinh tế của một quốc gia. Do vậy, có thể
nói phá sản là hiện tượng kinh tế xã hội vừa có mặt tích cực lại vừa có mặt
tiêu cực.
Yếu tố tiêu cực thể hiện ở việc khi một doanh nghiệp phá sản sẽ kéo
theo những ảnh hưởng không hề nhỏ đến hoạt động kinh doanh bình

thường của các doanh nghiệp là bạn hàng hay những doanh nghiệp trong cùng
một chuỗi cung ứng. Sự ảnh hưởng đó cũng là một trong những vấn đề nhỏ
góp phần khiến cho nền kinh tế của toàn xã hội nói chung bị rối loạn, sự phát
triển bị đình trệ. Hơn nữa, một doanh nghiệp phá sản, phải chấm dứt hoạt
động sẽ làm chính uy tín kinh doanh của doanh nghiệp bị mất đi, người lao
động lâm vào cảnh thất nghiệp, đói nghèo, ảnh hưởng đến cả sự phát triển
chung của toàn xã hội.
Tuy nhiên, không phải lúc nào phá sản cũng đem lại những tác động
tiêu cực, theo lối tư duy về luật phá sản văn minh và hiện đại thì phá sản còn
mang lại những tác động tích cực, tạo đà phát triển cho nền kinh tế. Như đã
nói ở trên, phá sản sẽ chọn lọc và giữ lại trên thị trường những doanh nghiệp
đủ lớn mạnh và loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém. Vì vậy, điều này đã
khuyến khích các doanh nghiệp phải nỗ lực để vươn lên không ngừng, nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình để tồn tại và phát triển.
Xuất phát từ tác động tích cực của phá sản và quan điểm tiến bộ về phá
sản, chúng ta có thể nhìn nhận rằng pháp luật phá sản còn có những vai trò
quan trọng đối với các doanh nghiệp và nền kinh tế chung của mỗi đất nước.
Trước hết, pháp luật phá sản bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ
nợ.
Chủ nợ của các doanh nghiệp có thể hiểu đơn giản là các nhà đầu tư
hoặc những chủ thể cho doanh nghiệp vay tiền mặt, tài sản hoặc những thứ có
giá trị khác để duy trì và mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, khi


15
một doanh nghiệp phá sản, quyền và lợi ích của các chủ nợ đều có thể có nguy
cơ không được bảo toàn. Nguyên nhân có thể do các doanh nghiệp chây ỳ,
không muốn trả nợ hoặc phá sản gian trá để trốn nghĩa vụ trả nợ… Điều này
đã gây ra những tác động xấu và khiến cho các nhà đầu tư không muốn, không
mạnh dạn đầu tư vào việc kinh doanh nữa. Để có thể bảo vệ lợi ích của chủ

nợ, khuyến khích, thúc đẩy hoạt động đầu tư của các nhà kinh doanh, pháp
luật phá sản đã thiết kế một thủ tục đòi nợ đặc biệt – thủ tục đòi nợ mang tính
tập thể để các chủ nợ có thể nộp đơn lên tòa án yêu cầu tuyên bố phá sản đối
với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và khi có quyết định tuyên bố
phá sản thì doanh nghiệp đó phải dùng hoặc bán toàn bộ tài sản của mình để
thanh toán cho chủ nợ. Ngoài ra, thủ tục này còn giúp kiểm soát được tài sản
của các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính trước khi doanh nghiệp có ý
định tẩu tán tài sản để trốn nợ.
Bên cạnh đó, pháp luật phá sản còn bảo vệ lợi ích của chủ nợ bằng việc
quy định chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền có đại
diện trong việc quản lý và thanh lý tài sản của con nợ. Hơn nữa, ngay cả khi
có quyết định mở thủ tục phá sản thì con nợ phải tiến hành các hoạt động kinh
doanh dưới sự giám sát kiểm tra của thẩm phán, quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý thanh lý tài sản và ban đại diện chủ nợ.
Thứ hai, pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ
Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì bản thân doanh nghiệp đó sẽ là
chủ thể đầu tiên phải chịu những khó khăn, hậu quả như việc bị ngừng trệ,
mất uy tín trong hoạt động kinh doanh. Không chỉ doanh nghiệp phá sản mà
các doanh nghiệp bạn hàng, những doanh nghiệp cùng hoạt động trong chuỗi
cung ứng cũng sẽ bị liên lụy. Chính vì thế mà pháp luật phá sản đã đặt ra
những quy định nhằm giúp doanh nghiệp có thể phục hồi những hoạt động
kinh doanh, điều này cũng góp phần ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực đến
các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, pháp luật phá sản Việt Nam cũng quy
định những quyền của các doanh nghiệp con nợ trong quá trình giải quyết phá
sản. Những quy định này đã thể hiện được quan điểm xây dựng luật phá sản
theo hướng tiến bộ như pháp luật phá sản của các nước trên Thế giới.


16
Thứ ba, pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của người lao động.

Có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn có ảnh hưởng
đối với người lao động, quyền và lợi ích của họ phụ thuộc phần lớn vào sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Vì vậy, khi doanh nghiệp bị phá sản,
người lao động sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp, sẽ mất đi nguồn thu nhập thường
xuyên và cuộc sống của họ cũng bị ảnh hưởng rất nhiều. Hơn nữa, pháp luật
luôn đề cao việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động nên sẽ là hợp lý
khi pháp luật phá sản đề ra những quy định nhằm bảo vệ cho họ. Pháp luật
phá sản bảo vệ người lao động bằng cách đưa ra những quy định về việc giúp
doanh nghiệp phục hồi hoạt động kinh doanh, như vậy, nếu doanh nghiệp
phục hồi được thì người lao động sẽ vẫn duy trì được việc làm.
Không chỉ là những quy định giúp doanh nghiệp phục hồi hoạt động
kinh doanh mà pháp luật phá sản còn cho phép người lao động có quyền nộp
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp trong trường hợp doanh
nghiệp đó không trả được lương cho họ trong một thời gian dài và cũng không
đủ khả năng khôi phục hoạt động kinh doanh để đảm bảo quyền đòi nợ của
mình. Ngoài ra, khoản tiền lương mà doanh nghiệp phá sản không thanh toán
được cho người lao động sẽ là khoản nợ được ưu tiên thanh toán so với các
khoản nợ thông thường khác của doanh nghiệp.
Thứ tư, pháp luật phá sản góp phần tổ chức lại doanh nghiệp và cơ
cấu lại nền kinh tế.
Phá sản không phải lúc nào cũng là một hiện tượng hoàn toàn chỉ mang
lại những tác động tiêu cực. Phá sản tạo ra một lối thoát cho những doanh
nghiệp làm ăn yếu kém và khuyến khích các doanh nghiệp khác không ngừng
đổi mới hoạt động kinh doanh, khẳng định vị thế của mình trên thị trường.
Phá sản được coi là một giải pháp hữu hiệu trong việc tổ chức lại doanh
nghiệp và ngăn chặn những bất ổn trong nền kinh tế. Vai trò này được thể
hiện khá rõ nét trong luật phá sản, với những quy định của thủ tục phục hồi
pháp luật phá sản tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
có thể trở lại với thương trường.



17
Thứ năm, pháp luật phá sản góp phần bảo vệ trật tự, kỷ cương trong xã
hội.
Để bảo vệ mình trước tình trạng doanh nghiệp bị phá sản, các chủ nợ
đều mong muốn tìm cách để thu lại tối đa lợi ích đối với tài sản còn lại của
doanh nghiệp đó. Do vậy, họ sẽ là người gây ra sự mất trật tự, lộn xộn và mâu
thuẫn giữa chủ nợ với con nợ và các chủ nợ với nhau. Để tránh tình trạng bất
ổn đó, pháp luật phá sản đã thiết kế thủ tục đòi nợ đặc biệt để tất cả các chủ nợ
có thể gửi đơn yêu cầu thanh toán khoản nợ của mình một cách văn minh và
có trật tự. Đồng thời những quy định về thứ tự phân chia tài sản, thanh toán nợ
cho các chủ nợ cũng tạo ra sự công bằng, thỏa đáng đối với tất cả các chủ nợ,
giúp các doanh nghiệp rút khỏi thị trường một cách có trật tự, từ đó đảm bảo
sự ổn định và kỷ cương của xã hội.
Cần phải khẳng định rằng, pháp luật phá sản đã tạo ra những quy định
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ kinh doanh. Vì
thế, có thể nói pháp luật phá sản là một công cụ pháp lý có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế nhất là khi chúng ta đang ở trong thời kỳ
hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.


18
CHƢƠNG 2
NHỮNG ĐIỂM MỚI MANG TÍNH PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT
PHÁ SẢN NĂM 2014
2.1. Cơ sở ban hành Luật Phá sản (2014)
Luật Phá sản (2014) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 15/06/2004. Từ khi ra đời,
Luật Phá sản (2004) được đánh giá là có tiến bộ hơn so với Luật Phá sản
(1993) trước đó. Luật Phá sản (2004) đã khắc phục được những bất cập, thiếu

sót của Luật phá sản (1993), tạo lối thoát cho các doanh nghiệp, hợp tác xã
gặp khó khăn, bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, giúp cho các doanh
nghiệp này có thể rút khỏi thị trường một cách có trật tự. Từ đó, Luật phá sản
(2004) cũng bảo vệ quyền lợi cho người lao động, các nhà đầu tư, góp phần
ổn định nền kinh tế và khuyến khích sự phát triển, năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp khác trên thị trường.
Tuy nhiên, dựa theo số liệu và kết luận tổng kết Luật phá sản
(2004) sau 9 năm thi hành, có thể nhận thấy, Luật phá sản (2004) đã
không còn phù hợp với thực tiễn áp dụng, tồn tại nhiều bất cập, hạn chế
trong các quy định khiến cho việc giải quyết thủ tục phá sản không hiệu
quả, không phát huy được vai trò của luật phá sản như nó vốn có. Luật
phá sản (2004) đã thể hiện rõ những bất cập trong các quy định về: căn cứ
xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; hoạt động
của tổ quản lý, thanh lý tài sản; quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản của chủ nợ; và hoạt động của hội nghị chủ nợ cùng nhiều những bất
cập trong các quy định khác nữa… Chính vì thế mà đã có đến 57 điều luật
trong tổng số 95 điều luật không có hiệu quả thực thi trên thực tế. Do vậy,
theo số liệu thống kê về việc thi hành Luật phá sản (2004) của các Tòa án
nhân dân tỉnh thì chỉ có 49 Tòa án trong tổng số 63 Tòa án nhận được đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, tức là, có tới 14 Tòa án không nhận được
đơn, điều này chứng tỏ đã có 14 tỉnh thành trên cả nước hầu như không
diễn ra việc giải quyết vụ phá sản nào. Hơn nữa, cũng trong khoảng thời


×