Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Pháp luật về quản lý ngoại tệ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.96 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------------

LÃ HỒNG VÂN

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGOẠI TỆ Ở VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------------

LÃ HỒNG VÂN

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGOẠI TỆ Ở VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Luật kinh tế.
Mã số: 60.38.01.07



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
tài liệu tham khảo và nội dung trích dẫn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung
thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Lã Hồng Vân


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI TỆ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGOẠI TỆ

6

1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý ngoại tệ


6

1.1.1. Khái niệm ngoại tệ, vai trò của ngoại tệ và nhu cầu khách quan của việc
quản lý ngoại tệ

6

1.1.2. Khái niệm quản lý ngoại tệ và đặc trưng của quản lý ngoại tệ trong điều
kiện hội nhập quốc tế

10

1.1.3. Kinh nghiệm quản lý ngoại tệ của ngân hàng trung ương ở một số quốc
gia trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam

13

1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý ngoại tệ

18

1.2.1. Đối tượng điều chỉnh và các bộ phận cấu thành của pháp luật về quản lý
ngoại tệ

18

1.2.2. Tác động của yếu tố hội nhập quốc tế đối với pháp luật về quản lý ngoại
tệ


20

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGOẠI TỆ Ở VIỆT NAM

23

2.1. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh hoạt
động quản lý ngoại tệ ở Việt Nam

23

2.1.1. Giai đoạn trước khi có Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín
dụng (trước năm 1997)

23

2.1.2. Giai đoạn sau khi có Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín
dụng (từ năm 1997 đến nay)

26

2.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng

28

2.2.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về chủ thể tham
gia quan hệ quản lý ngoại tệ

28


2.2.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về quyền, nghĩa
vụ của chủ thể tham gia quan hệ quản lý ngoại tệ

36

2.2.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về chế tài đối

49


với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý ngoại tệ
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

53

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
NGOẠI TỆ Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

54

3.1. Những yêu cầu cơ bản đối với việc hoàn thiện pháp luật về quản ly ngoại
tệ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

54

3.1.1. Bám sát chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển
kinh tể Việt Nam nói chung và lĩnh vực tài chính – ngân hàng nói riêng trong
thời kỳ hội nhập


54

3.1.2. Đánh giá đầy đủ, chính xác những điểm hạn chế, bất cập của pháp luật
về quản lý ngoại tệ hiện nay ở Việt Nam để đề xuất các giải pháp hoàn thiện
pháp luật

55

3.1.3. Nhận thức rõ các yêu cầu của xu hướng hội nhập quốc tế và những tác
động của xu hướng đó đối với pháp luật về QLNT để đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về QLNT ở Việt Nam

57

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý ngoại tệ ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

58

3.2.1. Các kiến nghị hoàn thiện chính sách pháp luật trong quản lý ngoại tệ ở
Việt Nam

58

3.2.2. Các kiến nghị trong việc hoàn thiện hoạt động thực thi pháp luật quản lý
ngoại tệ ở Việt Nam

65

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


68

KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Tên đầy đủ bằng tiếng Anh

Tên đầy đủ bằng tiếng Việt

AFTA

Asean Free Trade Area

Khu vực mậu dịch tự do
Đông Nam Á

ASEAN

Association of Southeast Asian Hiệp hội các quốc gia Đông
Nations

Nam Á

DTNH

Dự trữ ngoại hối

EUR

EURO

Đồng Euro

FED

Federal Reserve System

Cục dự trữ liên bang Mỹ

IMF

International Monetary Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế

NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM


Ngân hàng thương mại

NHTW

Ngân hàng Trung ương

ODA

Official Development Assistance

Hỗ trợ phát triển chính thức

OECD

Organization
for
Economic Tổ chức Hợp tác và Phát
Cooperation and Development
triển Kinh tế

PLNH

Pháp lệnh ngoại hối

QLNT

Quản lý ngoại tệ

TCTD


Tổ chức tín dụng

UBND

Ủy ban nhân dân

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội

USD

US Dollar

Đồng Đô la Mỹ

VND

Vietnam dong

Đồng Việt Nam


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hoạt động tài chính, tiền tệ ở Việt Nam có nhiều
đổi mới tích cực và đã thu được một số kết quả nhất định, góp phần đẩy lùi lạm
phát, ổn định tiền tệ, khuyến khích mở rộng đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, sự đổi mới trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ cũng như hệ thống pháp
luật điều chỉnh các hoạt động này nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng và theo
kịp yêu cầu của nhịp độ cải cách của nền kinh tế. Hiện nay, nền kinh tế nước ta
đang hoà nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực cũng như trên thế giới,
nên ngoại tệ và thị trường ngoại tệ có tác động không nhỏ vào khối lượng tiền
tệ lưu thông. Thị trường ngoại tệ trong một nước luôn chứa đựng những nội
dung và tính chất của thị trường quốc tế, chính vì vậy một biến đổi nhỏ của tỷ
giá hối đoái trên thị trường quốc tế đều ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong
nước cũng như những hoạt động kinh doanh trên thị trường có liên quan đến
ngoại tệ và ngược lại.
Ở Việt Nam, mọi hoạt động liên quan đến ngoại tệ như sử dụng, đầu tư,
kinh doanh… đều được quy định bằng pháp luật và các chủ thể được phép hoạt
động trong lĩnh vực này cũng chỉ được thực hiện trong phạm vi, giới hạn đã
được pháp luật quy định. Bên cạnh đó, Việt Nam đang đứng trước những tác
động sâu rộng và mạnh mẽ của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu của hội
nhập quốc tế đòi hỏi phải thiết lập được mặt bằng pháp lý chung, tương thích
với các chuẩn mực quốc tế để tất cả các chủ thể tham gia trên thị trường có sự
bình đẳng trong kinh doanh theo quy định của luật cạnh tranh. Đặt trong các
hoạt động có liên quan đến ngoại tệ, yêu cầu đó đòi hỏi phải có sự điều chỉnh
pháp luật linh hoạt và tự do hơn nữa nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng, giúp ngân hàng có đủ sức cạnh tranh trong tình hình mới, khi mà


2

Việt Nam đã gia nhập WTO và là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế lớn trên thế
giới.
Chính vì vậy, đề tài: “Pháp luật về quản lý ngoại tệ ở Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế” có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chỉ có
trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện cơ sở pháp lý cho các hoạt động, chính sách

quản lý ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước mới có thể xác định được những bất hợp lý
về cơ chế, chính sách làm cản trở kết quả điều hành chính sách tiền tệ trên thực tế của
hệ thống ngân hàng, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý
điều chỉnh các hoạt động quản lý ngoại tệ, qua đó nâng cao năng lực hoạt động hệ
thống ngân hàng, hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ nói chung để phù hợp với
thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hội nhập toàn cầu
hóa hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu, bài viết về ngoại tệ, hoặc
nghiên cứu riêng về hoạt động kinh doanh ngoại tệ như quyền sử dụng ngoại tệ của cá
nhân, các tổ chức tín dụng, các hoạt động đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh
ngoại tệ... Mỗi đề tài, bài viết và công trình nghiên cứu ở các góc độ khác nhau mà
chưa đi sâu vào nghiên cứu vấn đề quản lý ngoại tệ ở góc độ luật học và chưa có đề tài
nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật quản lý ngoại tệ ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
- Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài: “Pháp luật về kinh doanh ngoại tệ của
ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác giả Lã Thị Hiền, bảo vệ năm 2006 tập
trung vào việc phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động
kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại;
- Khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Quyền sử dụng ngoại tệ của tổ chức, cá
nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Phan Thị Thanh Lan, bảo
vệ năm 2004, trong đó chủ yếu đề cập đến chính sách quản lý ngoại tệ của Nhà nước


3

đối với việc sử dụng ngoại tệ của tổ chức cá nhân nói riêng mà chưa bao hàm hoạt
động của hệ thống các ngân hàng cũng như thị trường tiền tệ nói chung…
- Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Minh Hoàng với đề tài: “Hợp đồng

mua bán ngoại tệ trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của các tổ chức tín dụng” đi
sâu vào vài việc phân tính bản chất của hợp đồng mua bán ngoại tệ và cũng chưa đưa
ra được những vấn đề lý luận mang tính khái quát chung về quản lý ngoại tệ mang
tính chất vĩ mô.
- Một số bài viết khác của một số tác giả như: Nguyễn Thị Hương (2000),
“Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay nợ có đối tượng là ngoại tệ”, Tạp chí Tòa
án Nhân dân, số 02/2000; Nguyễn Văn Phương (1999), “Một số bất cập về chuyển
ngoại tệ ra nước ngoài”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, số 8/1999;
Nguyễn Thị Sương (2011), “Hạn chế tiến đến xoá bỏ tình trạng giao dịch, thanh toán,
niêm yết, quảng cáo hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ”, Tạp chí Ngân hàng, số
14/2011…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để nghiên cứu về các công cụ của chính sách pháp luật quản lý ngoại tệ và các
hoạt động liên quan đến ngoại tệ theo quy định của pháp luật Việt Nam, trước hết, tác
giả đi từ việc phân tích những vấn đề lý luận chung về ngoại tệ và các công cụ của
chính sách của Nhà nước trong việc quản lý ngoại tệ, kết hợp với việc xem xét một số
kinh nghiệm của một số nước trong việc sử dụng các công cụ chính sách ngoại tệ,
đồng thời trên cơ sở phân tích thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh của Việt
Nam hiện nay, qua đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật quản
lý ngoại tệ ở Việt Nam. Để đạt được mục đích này, đề tài có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích, luận giải một cách hệ thống những vấn đề lý luận về quản lý ngoại
tệ và pháp luật về quản lý ngoại tệ.
- Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về quản lý ngoại tệ ở Việt Nam,
qua đó đánh giá và chỉ ra những tồn tại, bất cập trong các quy định pháp luật hiện hành
về quản lý ngoại tệ ở Việt Nam.


4

- Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực trạng điều chỉnh pháp luật quản lý

ngoại tệ ở Việt Nam, luận văn xác định những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các quy định của pháp luật điều
chỉnh hoạt động quản lý ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước; các quan điểm, chính sách
của Đảng, Nhà nước về quản lý ngoại tệ, mục tiêu của các chính sách pháp luật về
quản lý ngoại tệ và các công cụ thực hiện chính sách ở góc độ pháp lý; các công trình
nghiên cứu khoa học của một số tác giả trong nước và nước ngoài có liên quan đến
ngoại tệ, kinh doanh ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, quản trị rủi ro và quản lý hành chính Nhà
nước đối với lĩnh vực này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định về chủ thể, đối tượng quản lý
ngoại tệ, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động quản lý ngoại tệ, xử lý vi
phạm pháp luật trong quản lý ngoại tệ. Qua đó, đưa ra nhận định và phân tích những
hạn chế cơ bản của pháp luật về quản lý ngoại tệ và đóng góp một số kiến nghị nhằm
góp phần hoàn hiện pháp luật về quản lý ngoại tệ và tăng cường hiệu quả của công tác
quản lý nhà nước về ngoại tệ.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu và
phổ biến trong khoa học xã hội như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu khi phân tích cơ sở
lý luận, nội dung điều chỉnh chính sách quản lý ngoại tệ cũng như thực tiễn thi hành
pháp luật trong các chương 1 và chương 2 của luận văn.
- Phương pháp so sánh được sử dụng khi đánh giá, so sánh các quy định pháp
luật về quản lý ngoại tệ của Việt Nam với thông lệ quốc tế và chuẩn mực quốc tế cũng
như so sánh với pháp luật về quản lý ngoại tệ của một số quốc gia khác trong các
chương của luận văn.


5


- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát các vấn đề lý luận ở
chương 1, cũng như các nhận định và bình luận về thực trạng thực thi pháp luật ở
chương 2, trên cơ sở đó đưa ra các đề xuất các khuyến nghị hoàn thiện lĩnh vực pháp
luật về quản lý ngoại tệ.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Tham khảo một số công trình nghiên cứu, bài viết khác cũng nhận thấy chưa có
công trình, bài viết chuyên sâu nào nghiên cứu, bàn luận chi tiết, toàn diện về quản lý
ngoại tệ dưới góc độ luật học. Vì vậy, sự lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật quản lý
ngoại tệ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế” là không trùng lặp, thể hiện ở
những điểm mới sau:
Thứ nhất, luận văn là công trình đầu tiên đi sâu vào phân tích các khái niệm về
ngoại tệ, khái niệm hoạt động quản lý ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước trong điều kiện
hội nhập hiện nay.
Thứ hai, luận văn là công trình đầu tiên đưa ra những đánh giá, kết luận một
cách có hệ thống thực trạng các quy định pháp luật trong việc quản lý và điều hành các
hoạt động quản lý ngoại tệ ở Việt Nam.
Thứ ba, luận văn là công trình đầu tiên đưa ra những giải pháp góp phần hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước để nâng
cao hơn nữa khả năng hội nhập của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế Việt
Nam nói chung trong thời kỳ hội nhập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, bản danh mục từ viết tắt, kết luận chung, danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu gồm các chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý ngoại tệ và pháp luật về quản lý ngoại tệ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý ngoại tệ ở
Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý ngoại tệ ở Việt Nam hiện nay
trong điều kiện hội nhập quốc tế.



6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NGOẠI TỆ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGOẠI TỆ
1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý ngoại tệ
1.1.1. Khái niệm ngoại tệ, vai trò của ngoại tệ và nhu cầu khách quan
của việc quản lý ngoại tệ
1.1.1.1. Khái niệm ngoại tệ
Trên thị trường, khi thực hiện các giao dịch tài chính quốc tế, cần thiết
phải sử dụng những công cụ tài chính, những công cụ chứa đựng giá trị nhất
định. Tất nhiên, khi được sử dụng để chuyển dịch các luồng tài chính được chấp
nhận ở phạm vi quốc tế thì các công cụ tài chính cũng phải được chấp nhận ở
phạm vi quốc tế và gần như toàn cầu. Hiện nay, các công cụ tài chính tồn tại
dưới các dạng như ngoại tệ, vàng, séc, hối phiếu, các giấy tờ có giá... và mỗi
quốc gia trong nền kinh tế thế giới đều có một đồng tiền riêng lưu hành theo
luật pháp riêng của nó, các đồng tiền không phải do ngân hàng trung ương của
quốc gia đó phát hành thì được xem là ngoại tệ.
Theo quan điểm chung, ngoại tệ (foreign currency) được hiểu là đồng
tiền nước ngoài (hay nói cách khác, đây là thuật ngữ dùng để chỉ đồng tiền của
nước này đối với nước khác, được chi trả trực tiếp hoặc thông qua đồng tiền thứ
ba trong thanh toán quốc tế). Tuy nhiên, cần phải thấy rằng trong giao dịch
thanh toán và đầu tư quốc tế không phải tất cả các đồng ngoại tệ đều được chấp
nhận, mà chỉ có những ngoại tệ mạnh, tức là đồng tiền dễ dàng chuyển đổi ra
nội tệ của các nước khác mới được chấp nhận rộng rãi. Một đồng tiền được xem
xét là mạnh thường căn cứ vào các tiêu chuẩn: (1) khả năng chấp nhận của quốc
tế đối với đồng tiền đó, (2) nhu cầu thương mại của quốc gia phát hành ra đồng
tiền đó và (3) tiềm năng cung ứng hàng hoá trên thị trường thế giới của quốc gia
đó.
Dựa trên đánh giá của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Tổ chức hợp tác và

phát triển kinh tế (OECD) thì đồng đôla Mỹ (USD) và đồng tiền của các nước
công nghiệp phát triển là những đồng tiền mạnh.
Theo pháp luật Việt Nam, tại Điểm a Khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại
hối (PLNH) số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2005 của Ủy ban Thường


7

vụ Quốc hội về hoạt động ngoại hối giải thích: “Ngoại tệ là đồng tiền của quốc
gia khác hoặc đồng tiền chung Châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng
trong thanh toán quốc tế và khu vực”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, ngoại tệ không chỉ là
đồng tiền của quốc gia khác mà còn là những đồng tiền chung của nhiều quốc
gia, ví dụ như EUR của Cộng đồng chung Châu Âu (EU) hoặc đồng tiền chung
của liên minh khác thỏa mãn điều kiện là phải được sử dụng làm công cụ thanh
toán trong khu vực và trong thanh toán quốc tế.
Căn cứ vào quy định của PLNH 2005 thì ngoại tệ là một trong năm loại
ngoại hối, bên cạnh phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, các loại giấy tờ có
giá bằng ngoại tệ, vàng (thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước
ngoài cư trú…) và đồng tiền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc dùng
làm công cụ trong thanh toán quốc tế.
Như vậy, ta có thể hiểu ngoại tệ là một loại ngoại hối nhưng thông
thường nó chiếm tỷ trọng lớn nên hiện nay ở nước ta một số người đồng nhất
giữa khái niệm ngoại tệ và ngoại hối. Điều này về bản chất không có gì sai
nhưng đó là cách hiểu chưa đầy đủ, bởi lẽ ngoại tệ luôn là ngoại hối nhưng
không phải mọi loại ngoại hối đều là ngoại tệ.
1.1.1.2. Vai trò của ngoại tệ
Ngoại tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
của các quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Nói đến vai trò của

ngoại tệ chủ yếu là nói đến vai trò tác động của những ngoại tệ mạnh được các
nước chấp nhận rộng rãi mà ở đó ngoại tệ đóng vai trò là phương tiện mua bán,
phương tiện dự trữ và là phương tiện thanh toán và hạch toán. Cụ thể là:
Thứ nhất, ngoại tệ là phương tiện thanh toán.
Thực tế đã chứng minh, trong xu hướng toàn cầu hóa, không một quốc
gia nào trên thế giới có thể độc lập về kinh tế, thực hiện chính sách đóng cửa và
xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính chất tự cung tự cấp để tránh sự
lệ thuộc vào bên ngoài [22, tr.45]. Khi tham gia vào xu hướng hợp tác kinh tế
đa phương hóa, đa dạng hóa, mỗi một nước sẽ có những lợi thế so sánh riêng và
đây chính là lý do thúc đẩy và tạp điều kiện để trao đổi hàng hóa, dịch vụ quốc
tế phát triển. Khi các hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia, tổ
chức kinh tế đa quốc gia nảy sinh thì hoạt động thanh toán cũng bắt đầu quá
trình vận hành của mình. Tuy nhiên, các chủ thể tham gia vào nền kinh tế thế
giới là khác nhau và đồng tiền riêng của các quốc gia cũng khác nhau, do đó
không phải đồng tiền trong nước luôn được sử dụng (thông thường chỉ có một


8

số ít những đồng tiền có giá trị mạnh được sử dụng). Vì vậy, ngoại tệ được
dùng để thực hiện việc thanh toán hàng hóa dịch vụ giữa các quốc gia được
nhanh chóng, thuận tiện mà vẫn đảm bảo giá trị của hàng hóa dịch vụ đó. Đặc
biệt, đối với Việt Nam, do tiền đồng của Việt Nam (VND) có giá trị và ảnh
hưởng không lớn đối với thế giới nên đa phần, các hoạt động thanh toán được
tiến hành thông qua ngoại tệ tự do chuyển đổi như đôla Mỹ (USD), đồng tiền
chung Châu Âu (EUR)…
Thứ hai, ngoại tệ là phương tiện dự trữ.
Dự trữ ngoại tệ là một bộ phận đặc biệt quan trọng của dự trữ ngoại hối
quốc gia. Dự trữ ngoại hối là một mục tiêu quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối
với nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Dự trữ ngoại

hối là biểu hiện của sức mạnh và tiềm lực kinh tế của một quốc gia, bởi lẽ dự
trữ ngoại hối có liên quan mật thiết đến nhiều nội dung kinh tế khác của quốc
gia như cán cân thanh toán, tình hình ổn định tỷ giá… Quốc gia nào có được
một nguồn dự trữ ngoại hối ổn định đồng nghĩa với việc Chính phủ nước đó đã
nắm được trong tay một công cụ quan trọng để phục vụ cho công việc quản lý
vĩ mô nền kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc
nguồn vốn nước ngoài cũng như sức ép tỷ giá của những đồng ngoại tệ mạnh
như đồng đôla Mỹ USD, đồng tiền chung EUR… góp phần cân đối trong cán
cân thanh toán thương mại quốc tế [39,tr.50].
Thứ ba, ngoại tệ có tác dụng hỗ trợ cán cân thanh toán quốc gia, là
phương tiện thanh toán, hạch toán.
Trong quá trình tiến hành các hoạt động đối ngoại, luôn phát sinh các
hoạt động thu, chi ngoại tệ của các chủ thể (ví dụ, doanh nghiệp, các nhà kinh
doanh) và các quốc gia với nhau. Vì vậy, để theo dõi được tình hình thực hiện
và có thể quản lý hữu hiệu các hoạt động thu chi này, cần phải lựa chọn một
đồng tiền có giá trị chung để thanh toán, hạch toán. Cán cân thanh toán quốc tế
thể hiện quan hệ thu, chi quốc tế của một nước với nước ngoài. Cán cân thanh
toán phải phản ánh đầy đủ những xu hướng cung, cầu về ngoại tệ trong các giao
dịch quốc tế nên nó tác động lớn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền. Khi cán cân
thanh toán bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước nhiều dẫn đến khả năng
cung về ngoại tệ cao hơn nhu cầu. Trường hợp này tỷ giá vận động theo xu
hướng giảm. Ngược lại, khi cán cân thanh toán quốc tế của một nước ở tình
trạng bội chi, đồng nghĩa với việc tăng lượng ngoại tệ chảy ra nước ngoài dẫn
đến nhu cầu về ngoại tệ cao hơn khả năng cung ứng. Trường hợp này tỷ giá vận
động theo xu hướng tăng.


9

Như vậy, trong cả hai trường hợp trên, nếu không có sự can thiệp của

Ngân hàng Trung ương (NHTW), tỷ giá sẽ tăng hoặc giảm theo cung cầu ngoại
hối trên thị trường một cách tự phát, dẫn đến những hệ quả tích cực hoặc tiêu
cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội [24, tr.42]. Tuy nhiên, ở nhiều nước,
NHTW đóng vai trò điều tiết tỷ giá để thực hiện mục tiêu của chính sách kinh
tế. Nếu NHTW muốn xác lập một tỷ giá ổn định nghĩa là giữ cho tỷ giá không
tăng, không giảm, thì NHTW sẽ mua vào số ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào
trong nước làm cho quỹ dự trữ ngoại hối tăng lên tương ứng hoặc NHTW sẽ
bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu thị trường khi có luồng ngoại tệ chảy ra
nước ngoài, quỹ dự trữ ngoại hối giảm đi tương ứng.
1.1.1.3. Nhu cầu khách quan của việc quản lý ngoại tệ
Việc quản lý ngoại tệ (QLNT) nói riêng cũng như quản lý nguồn dự trữ
ngoại hối nói chung, suy cho cùng là nhằm mục đích điều tiết các nhóm lợi ích
cơ bản trong xã hội, bao gồm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nền kinh tế, lợi
ích của quốc gia và các cộng đồng xã hội như doanh nghiệp, các hộ gia đình và
cá nhân…[33, tr.4]. Một chính sách quản lý luôn đảm bảo kết hợp hài hòa lợi
ích giữa tất cả các chủ thể có liên quan tham gia vào hoạt động QLNT sẽ là một
chính sách mang lại hiệu quả cao nhất.
Thông qua việc ban hành pháp luật, Nhà nước quy định cụ thể phạm vi
và nội dung của QLNT, thể hiện rõ định hướng, mục tiêu đối với hoạt động
QLNT, phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong từng thời kỳ. Khi cần quy hoạch
hóa tập trung, Nhà nước độc quyền về ngoại thương, ngoại hối, nghiêm cấm
toàn bộ mọi hành vi mua, bán, kinh doanh, tàng trữ ngoại tệ. Khi bước vào thời
kỳ mở cửa, nền kinh tế thị trường, Nhà nước sẽ thực hiện chính sách cởi mở,
khuyến khích kiều hối, xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ, thúc đẩy các luồng
tiền vận động để cân bằng cung – cầu trên thị trường. Đồng thời, nhằm tạo ra
một hành lang pháp lý bền vững, nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của xã hội, các
chủ thể tham gia quan hệ QLNT và phù hợp với quy luật thị trường, Nhà nước
đã ban hành nhiều loại văn bản như các đạo luật về Ngân hàng, về doanh
nghiệp, đầu tư, các tổ chức tín dụng (TCTD)… Sự đồng bộ về phương diện
chính sách, các quy định của pháp luật cũng như phương diện thể chế, thực thi

các chính sách cũng là một trong những yếu tố góp phần thúc đẩy hiệu quả hoạt
động QLNT, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức thực hiện các
quan hệ QLNT.
Bên cạnh đó, yếu tố hội nhập quốc tế, sự tham gia tích cực vào các tổ
chức kinh tế toàn cầu xuyên quốc gia của các nước trên thế giới, biến động tỷ


10

giá khi có những biến động về chính trị, kinh tế cũng là những yếu tố có ảnh
hưởng nhất định tới hoạt động QLNT. Để tránh rủi ro và có được một chính
sách tỷ giá linh hoạt, bình ổn được thị trường, bất cứ một nhà nước nào cũng
cần phải ban hành những quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ nhưng hết sức linh
hoạt để đảm bảo không chỉ duy trì nền kinh tế ổn định trong nước mà vẫn có
khả năng cạnh tranh trong thương mại quốc tế [23, tr.10].
1.1.2. Khái niệm quản lý ngoại tệ và đặc trưng của quản lý ngoại tệ
trong điều kiện hội nhập quốc tế
1.1.2.1. Khái niệm quản lý ngoại tệ
Dựa trên những quan điểm chung và khái niệm quản lý nhà nước về
ngoại hối mà các nhà làm luật đã đưa ra, ta có thể hiểu một cách đơn giản: quản
lý nhà nước về ngoại tệ là một hệ thống bao gồm các biện pháp mà Nhà nước
sử dụng để kiểm soát các giao dịch bằng ngoại tệ. Nói cách khác, QLNT là hệ
thống kiểm soát luồng ngoại tệ nhập vào hoặc chuyển ra khỏi một đất nước.
Quản lý nhà nước về ngoại tệ thể hiện các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động
ngoại tệ để đạt tới mục tiêu cuối cùng là tạo lập thế cân bằng ổn định cho cán
cân thanh toán quốc tế. Trong quản lý kinh tế, các Chính phủ thường ban hành
các chính sách nhằm khơi thông hoặc hạn chế luồng tiền nhằm thực hiện chính
sách phát triển kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ. Tóm lại, QLNT là việc
nhà nước áp dụng các chính sách, các biện pháp tác động vào quá trình nhập,
xuất ngoại tệ và việc sử dụng ngoại tệ theo những mục tiêu nhất định.

Để thực hiện QLNT, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ quản lý
khác nhau như công cụ pháp luật, công cụ hành chính và công cụ kinh tế…[26,
tr.13]. Thông qua các công cụ quản lý, Nhà nước tác động vào các đối tượng
quản lý để định hướng và điều chỉnh các hoạt động ngoại hối nhằm đạt tới mục
đích quản lý đã đặt ra. Thêm vào đó, dù áp dụng chính sách QLNT nới lỏng hay
siết chặt ở các quốc gia khác nhau thì mục tiêu chung của các quốc gia cũng là
nhằm mang lại được hiệu quả quản lý là tốt nhất, tạo điều kiện phát triển một
cách đồng bộ và hài hòa giữa nội tệ và ngoại tệ nói riêng cũng như nền kinh tế
đối nội và đối ngoại nói chung, mang lại lợi ích cao nhất cho các chủ thể tham
gia quản lý và sử dụng các công cụ kinh tế.
1.1.2.2. Đặc trưng của quản lý ngoại tệ trong điều kiện hội nhập quốc tế
Hoạt động QLNT mang những đặc trưng rõ nét và khác biệt so với các
hoạt động quản lý nhà nước khác, cụ thể là:
Thứ nhất, chủ thể QLNT là những cơ quan nhà nước có chuyên môn và
nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý kinh tế, đặc biệt là quản lý đối với ngoại tệ.


11

Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa ngày một đa dạng và
phức tạp, không chỉ gói gọn trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ mà còn có
sự hợp tác đa phương hóa, liên thông với nhiều thị trường trên thế giới [22, tr.
162]. Vì vậy, hoạt động quản lý ngoại tệ đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước về
ngoại tệ phải là cơ quan chuyên trách, có hệ thống quản lý chặt chẽ, đội ngũ
nhân sự đầy đủ năng lực và trình độ nghiệp vụ, kiến thức chuyên sâu về hoạt
động liên quan đến ngoại tệ, thị trường ngoại tệ, QLNT. Ở Việt Nam, pháp luật
quy định cơ quan này là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).
Thứ hai, đối tượng của QLNT là các chủ thể có hoạt động ngoại tệ trong
nền kinh tế. Nói một cách chính xác hơn, đối tượng của quản lý ngoại tệ thực
chất là hành vi của các chủ thể có tham gia vào hoạt động ngoại tệ, chứ không

phải là bản thân ngoại tệ. Thông qua việc điều tiết bằng pháp luật và bằng các
công cụ khác đối với hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động ngoại tệ, nhà
nước sẽ kiểm soát được nguồn ngoại tệ trong nước cũng như hoạt động chuyển
ngoại tệ vào, ra khỏi lãnh thổ quốc gia, từ đó đạt được các mục tiêu cơ bản của
quản lý ngoại tệ.
Thông thường, quản lý Nhà nước về ngoại tệ được quy định theo hai
nhóm đối tượng là người cư trú và người không cư trú.
Thứ ba, phương thức QLNT là sự phối kết hợp của nhiều biện pháp và
công cụ như: Biện pháp hành chính, biện pháp kinh tế, các công cụ tài chính
tiền tệ… trong đó, biện pháp chủ yếu là biện pháp kinh tế. Hoạt động ngoại tệ là
một trong những hoạt động kinh tế có mối liên hệ với nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô
như tỷ giá hối đoái, thị trường ngoại hối, trạng thái ngoại tệ, tỷ lệ lạm phát… và
chịu tác động của các quy luật kinh tế như quy luật cung – cầu, quy luật cạnh
tranh. Vì vậy, các biện pháp kinh tế thường được sử dụng phổ biến trong quá
trình QLNT của cơ quan quản lý để điều chỉnh và tác động đến hoạt động ngoại
tệ của các chủ thể trong nền kinh tế hội nhập.
1.1.2.3. Các yếu tố cấu thành cơ bản của hoạt động quản lý ngoại tệ


12

Như đã đề cập ở trên, hoạt động QLNT cũng cũng là một trong những
hoạt động quản lý nhà nước nên sẽ có ba yếu tố cơ bản cấu thành, đó là: (i) chủ
thể quản lý; (ii) đối tượng quản lý; và (iii) nội dung quản lý.
- Chủ thể quản lý ngoại tệ: QLNT là hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh
vực ngoại tệ. Vì vậy, chủ thể QLNT chính là Nhà nước, hay nói chính xác hơn
là các cơ quan quản lý được Nhà nước trao quyền và bằng các quy định pháp
luật, chủ thể này thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng QLNT - chức năng
thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp.
Theo thông lệ quốc tế, thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về ngoại

tệ thuộc về Chính phủ và Ngân hàng Trung ương của mỗi quốc gia. Tùy thuộc
thể chế chính trị của mỗi nước và mức độ độc lập của Ngân hàng trung ương
đối với Chính phủ, nhiệm vụ của hai cơ quan này trong việc quản lý ngoại hối
có thể không hoàn toàn giống nhau ở các quốc gia. Có nước thì chính phủ thực
hiện vai trò quản lý chung và giao nhiệm vụ quản lý trực tiếp về lĩnh vực ngoại
hối nói chung cho Ngân hàng Trung ương, có nước thì Ngân hàng Trung ương
chỉ thực hiện các hoạt động liên quan đến QLNT của chính mình với tư cách là
ngân hàng của các ngân hàng, còn hoạt động quản lý, cấp giấy phép cho các
TCTD được phép QLNT, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về QLNT lại thuộc
chức năng của cơ quan khác của Chính phủ [26, tr.18].
- Đối tượng quản lý ngoại tệ: Như đã phân tích ở trên, Nhà nước thực
hiện vai trò quản lý về ngoại tệ thông qua việc sử dụng các phương thức khác
nhau nhằm tác động đến hành vi xử sự của những chủ thể có tài sản là ngoại tệ
hay có hoạt động liên quan đến ngoại tệ, giao dịch ngoại tệ. Như vậy, đối tượng
quản lý nhà nước về ngoại tệ không phải là bản thân ngoại tệ mà là các tổ chức,
cá nhân có ngoại tệ hay có hoạt động liên quan đến ngoại tệ, cụ thể là hai nhóm
đối tượng: người cư trú và người không cư trú.
- Nội dung quản lý ngoại tệ: Theo cách hiểu chung, nội dung quản lý nhà
nước về ngoại tệ bao gồm việc ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh


13

vực ngoại tệ; việc tổ chức thực thi các quy định của pháp luật về ngoại tệ; thanh
tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về
QLNT. Một trong những phương thức hoạt động của Nhà nước khi thực hiện
việc quản lý nhà nước về ngoại tệ là việc ban hành pháp luật. Theo đó, nhà
nước quy định rõ thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc QLNT;
những hành vi pháp lý cụ thể mà các chủ thể QLNT phải thực hiện; quy định
các chế tài áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về QLNT. Đây

cũng là các vấn đề cơ bản khi nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước về ngoại
tệ.
1.1.3. Kinh nghiệm quản lý ngoại tệ của ngân hàng trung ương ở một
số quốc gia trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam
1.1.3.1. Kinh nghiệm quản lý ngoại tệ của ngân hàng trung ương một số
quốc gia trên thế giới
Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản hiện nay vẫn là một cường quốc kinh tế lớn trên thế giới và là
bạn hàng lâu đời của Việt Nam trên thị trường kinh tế song phương. Nhật Bản
có mối quan hệ thương mại quốc tế rất đa dạng và chính sách QLNT của quốc
gia này cũng đạt được nhiều thành công.
Với đường lối và chính sách quản lý ngoại thương, ngoại hối nói chung
của mình, Nhật Bản đã có những bước tiến dài trong lịch sử phát triển kinh tế,
trở thành một trong những quốc gia có kim ngạch xuất khẩu hàng đầu thế giới.
Văn bản pháp luật chính điều chỉnh hoạt động quản lý ngoại hối là Luật Ngoại
hối, ngoại thương [33, tr.7]. Mục đích của Luật này là quản lý các hoạt động
ngoại thương, ngoại hối nhằm tạo sự cân bằng trong cán cân thương mại quốc
tế, ổn định tiền tệ, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản. Theo
quy định của luật này, các đối tượng chịu sự QLNT là những người cư trú và
không cư trú. Việc thực hiện thanh toán, giao dịch ngoại hối giữa người cư trú
và người không cư trú được quy định chặt chẽ. Luật quy định cụ thể các trường
hợp thanh toán bằng ngoại hối phải có sự cho phép của cơ quan quản lý, các
phương tiện thuộc phạm vi quản lý ngoại hối, các phương thức thực hiện thanh
toán, các hạn chế trong lĩnh vực thanh toán cũng như nghĩa vụ của các ngân
hàng và khách hàng khi thực hiện giao dịch ngoại hối. Các giao dịch vốn vào và
ra khỏi lãnh thổ Nhật Bản cũng được văn bản luật này quy định rất cụ thể, chặt


14


chẽ. Việc chuyển đổi ngoại tệ ra đồng Yên Nhật phải thông qua tỷ giá hối đoái
tính chéo dựa trên tỷ giá cơ sở của đồng Yên Nhật do Bộ trưởng Bộ Tài chính
xác định, có sự chấp thuận của nội các. Bộ trưởng Bộ tài chính chịu trách nhiệm
ổn định tỷ giá đồng Yên Nhật thông qua các biện pháp cần thiết như thực hiện
mua, bán các phương tiện thanh toán bằng ngoại hối. Nhìn chung Luật ngoại
hối, ngoại thương của Nhật Bản đã chỉ rõ việc kinh doanh xuất – nhập khẩu
hàng hóa, dịch vụ, ngoại tệ… đều được tự do nhưng trong khuôn khổ kiểm tra,
kiểm soát của Chính phủ.
Kinh nghiệm của Mỹ
Cục dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve System – FED) là ngân hàng
trung ương của Hoa Kỳ. Bắt đầu hoạt động từ năm 1915 theo “Đạo luật Dự trữ
Liên bang” của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1913, Cục dự trữ liên
bang bề ngoài là ngân hàng của Chính phủ, bao gồm Hội đồng thống đốc đóng
tại thủ đô Washington được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ, Ủy ban thị
trường, 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và các ngân hàng thành viên có
sở hữu một phần ở các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
Các bộ phận của FED có tư cách pháp lý khác nhau. Hội đồng Thống
đốc của FED là cơ quan độc lập của chính phủ liên bang. Hội đồng không nhận
tài trợ của Quốc hội và bảy thành viên của Hội đồng theo cơ chế dân chủ.
Thành viên của Hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ
thống lập pháp cũng như hành pháp. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi báo cáo tới
Quốc hội theo định kỳ. Theo luật, thành viên của Hội đồng chỉ rời chức vụ khi
mãn hạn. Hội đồng Thống đốc chịu trách nhiệm việc hình thành và cụ thể hóa
chính sách tiền tệ. Nó cũng giám sát và quy định hoạt động của 12 Ngân hàng
dự trữ liên bang khu vực và hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ nói chung. Các Ngân
hàng dự trữ liên bang (Federal Reserve Banks) về danh nghĩa sở hữu bởi các
ngân hàng thành viên (mỗi ngân hàng thành viên giữ cổ phần không có khả
năng chuyển nhượng). Theo Tòa án tối cao Mỹ, các Ngân hàng dự trữ liên bang
khu vực là các ngân hàng độc lập, sở hữu tư nhân và hoạt động theo luật pháp ở
địa phương. Phán quyết trên cho rằng, các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực



15

có thể được coi là công cụ của chính quyền liên bang theo một số mục đích nhất
định. Trong một phán quyết khác ở tòa án cấp bang, sự khác biệt giữa Hội đồng
thống đốc và các Ngân hàng được quy định rõ ràng. Các ngân hàng sở hữu
Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực là của tư nhân và rất nhiều trong số đó có
cổ phiếu phát hành trên thị trường. Giấy bạc do FED phát hành là nguồn cung
tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang
khu vực.
Theo Hội đồng thống đốc, FED có các nhiệm vụ sau:
a) Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia bằng cách tác động các điều kiện
tiền tệ và tín dụng với mục đích tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều hòa lãi
suất dài hạn.
b) Giám sát và quy định các tổ chức ngân hàng đảm bảo hệ thống tài
chính và ngân hàng quốc gia an toàn và bảo đảm quyền tín dụng của người tiêu
dùng.
c) Duy trì sự ổn định của nền kinh tế và kiềm chế các rủi ro hệ thống có
thể phát sinh trên thị trường tài chính.
d) Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản có giá
trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò chủ
chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia.
Cục dự trữ liên bang ấn định tỷ lệ dự trữ – phần trăm số tiền ký gửi tại
ngân hàng mà ngân hàng phải giữ lại hoặc gửi tại FED để sẵn sàng chi trả các
nhu cầu rút tiền. Quy định này trực tiếp giới hạn khả năng cho vay của các ngân
hàng vì khoản dự trữ này phải luôn được duy trì. Trong trường hợp khoản dự
trữ này tụt xuống, ngân hàng phải tiến hành vay lẫn nhau hoặc vay của FED để
đảm bảo tỷ lệ dự trữ.
FED cùng với các cơ quan giám sát liên bang, thực hiện nhiệm vụ giám

sát các ngân hàng và tổ chức tài chính khác để bảo đảm sự ổn định trong hệ
thống. FED khuyến khích công bố thông tin về tài chính và kinh tế, thúc đẩy sự


16

tiếp cận bình đẳng với tín dụng và phát triển kinh tế địa phương thông qua các
hoạt động như làm việc với cộng đồng, các tổ chức phi lợi nhuận, và những tổ
chức, cá nhân khác trên khắp đất nước. FED cũng cung cấp một số dịch vụ cơ
bản cho khu vực tài chính, ví dụ như: cung cấp dịch vụ thanh toán trên lãnh thổ
và phân phối tiền mặt (tiền giấy và tiền xu) cho các ngân hàng.
Những quy định về nhiệm vụ và chức năng của Cục Dự trữ liên bang Mỹ
(FED) cho thấy sự độc lập trong hoạt động và điều hành tiền tệ của ngân hàng
này. Chính điều này đã thúc đẩy nền kinh tế Mỹ phát triển một cách lành mạnh,
điều đó đồng nghĩa với một nền kinh tế có tỷ lệ thất nghiệp thấp, lạm phát thấp
và ổn định, hệ thống tài chính đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế và các
dịch vụ khác mà không gây ra sự bất ổn trong hệ thống tài chính.
1.1.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam
Từ kết quả khảo sát kinh nghiệm trên đây của một số quốc gia phát triển
trên thế giới, có thể thấy rằng chính sách quản lý ngoại hối nói chung và QLNT
nói riêng của các quốc gia luôn được thay đổi một cách linh hoạt phù hợp với
từng giai đoạn phát triển kinh tế. Đồng thời, những chính sách này luôn là sự
kết hợp đồng bộ, chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài
chính tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách thương mại xuất -nhập khẩu, chính
sách thương mại quốc tế… Khi nền kinh tế phát triển theo xu hướng mở cửa,
hội nhập quốc tế, cần huy động nguồn vốn lớn, ổn định dự trữ quốc gia thì cần
thực hiện chính sách nới lỏng trong việc QLNT, tạo thuận lợi cho việc chuyển
vốn đầu tư, nhận luồng tiền từ kiều hối, hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa được khuyến khích phát triển để tăng nguồn thu ngoại tệ.
Khi luồng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, công nợ nước ngoài tăng, nguồn
ngoại tệ dôi dư, sản xuất kinh doanh trong nước ngày càng phát triển và cần

được bảo hộ, Chính phủ sẽ thắt chặt lại và đồng thời quản lý chặt chẽ đối với
đầu tư từ nước ngoài, vay, nợ nước ngoài cũng như những nguồn thu khác có
phát sinh ngoại tệ.


17

Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước, có thể rút ra một số bài
học cho Việt Nam trong điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động QLNT
như:
- Cần phân định cụ thể đối tượng và phương tiện trong chính sách
QLNT. Chính sách pháp luật về quản lý nguồn ngoại tệ của các nước đều phân
định rõ đối tượng thuộc diện quản lý là người cư trú và người không cư trú.
Theo thông lệ quốc tế, phương tiện chính và quan trọng trong chính sách QLNT
là đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung Châu Âu và đồng tiền
chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực, đặc biệt là đồng
đôla Mỹ.
- Thay đổi linh hoạt chính sách quản lý ngoại hối nói chung và pháp luật
về QLNT nói riêng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, quá
trình tự do hóa các giao dịch vốn cần thực hiện một cách thận trọng, điều tiết thị
trường ngoại tệ có lộ trình khi Nhà nước đã có khả năng quản lý. Xác định tỷ
giá hết sức linh hoạt, tiến sát dần tới quy luật cung cầu của thị trường có sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước.
- Quản lý, sử dụng dự trữ ngoại hối và nguồn thu ngoại tệ từ kiều hối,
xuất - nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) một cách chặt chẽ, hiệu quả, đảm bảo mục tiêu can thiệp thị trường,
phục vụ chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế và
bảo toàn dự trữ ngoại hối.
Do có nhiều nét tương đồng về thể chế văn hóa, xã hội nên về cơ bản các
chính sách cải cách, phát triển kinh tế của Việt Nam và các nước Châu Á như

Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… có nhiều nét tương đồng với nhau. Thêm
vào đó, sự khác xa về mặt địa lý, lãnh thổ cũng như quá trình phát triển nền
pháp chế và kinh tế tiên tiến lâu đời của Mỹ, Pháp… cũng tạo ra những điểm kế
thừa tiến bộ trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của Việt Nam.
Điều đó có ý nghĩa quan trọng giúp cho Việt Nam có thể tham khảo kinh


18

nghiệm thực hiện chính sách QLNT của các quốc gia này để nghiên cứu, vận
dụng trong quá trình xây dựng khuôn khổ pháp lý cũng như thực hiện chính
sách pháp luật. Tuy nhiên, cũng cần phải căn cứ vào đặc thù thể chế, đặc điểm
của nền kinh tế và cơ chế quản lý của mỗi nước để cân nhắc những nội dung
phù hợp có thể áp dụng vào thực tiễn tại Việt Nam.

1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý ngoại tệ
1.2.1. Đối tượng điều chỉnh và các bộ phận cấu thành của pháp luật về
quản lý ngoại tệ
Pháp luật về quản lý ngoại tệ không chỉ bao gồm các quy định trên
phương diện quản lý nhà nước về ngoại tệ mà còn bao gồm cả những quy định
trên phương diện các quan hệ giao dịch giữa các chủ thể tham gia hoạt động
ngoại tệ. Pháp luật là công cụ có vai trò đặc biệt điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực QLNT, giúp Nhà nước quản lý, điều tiết và kiểm soát
các hoạt động có liên quan đến ngoại tệ của các chủ thể, thiết lập những chuẩn
mực cho các quan hệ QLNT của các tổ chức, cá nhân [27, tr.25].
Vì vậy, phát luật về QLNT có nội dung cơ bản là tập trung quy định về
các vấn đề như chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể trong hoạt động QLNT và chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
trong QLNT. Cụ thể là:
- Các quy định về chủ thể tham gia quan hệ quản lý ngoại tệ: Chủ thể

quản lý ngoại tệ là các cơ quan quản lý được Nhà nước trao quyền, sử dụng có
hiệu quả các quy định của pháp luật để thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng
QLNT. Pháp luật quy định cụ thể về hệ thống các cơ quan tham gia QLNT;
phân định rõ ràng phạm vi, thẩm quyền, chức năng của mỗi cơ quan trong hệ
thống quản lý; các thẩm quyền cụ thể khi thực hiện quản lý đối với từng hoạt
động ngoại tệ của các đối tượng quản lý; các công cụ, phương tiện thực hiện
quản lý của các chủ thể. Tùy thuộc vào hệ thống pháp luật và thể chế chính trị
của mỗi quốc gia, hệ thống cơ quan QLNT cũng như thẩm quyền, chức năng
của mỗi cơ quan cũng được quy định khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết pháp luật
các nước đều có quy định cụ thể về vai trò, thẩm quyền của Chính phủ và
NHTW đối với hoạt động QLNT. Đặc biệt, NHTW là chủ thể trực tiếp thực
hiện việc quản lý, điều chỉnh tỷ giá, cân đối cán cân thanh toán, hạch toán… và


19

có vai trò mang tính chất quyết định đối với hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước về ngoại tệ.
- Các quy định về đối tượng quản lý ngoại tệ: Đối tượng quản lý nhà
nước về ngoại tệ là các tổ chức, cá nhân có tài sản là ngoại tệ hay có hoạt động
liên quan đến ngoại tệ. Pháp luật QLNT của các nước đều quy định rõ đối
tượng thuộc diện quản lý là người cư trú và người không cư trú. Theo khuyến
nghị của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), cách phân loại người cư trú và người không
cư trú cơ bản dựa trên ba tiêu chí là thời hạn cư trú, nơi phát sinh nguồn thu
nhập và nơi ở. “Người cư trú” được thống nhất hiểu là toàn bộ tổ chức, doanh
nghiệp được thành lập theo quy định pháp luật hiện hành của mỗi quốc gia, hoạt
động, kinh doanh trên phạm vi lãnh thổ nước đó, hoặc đặt đại diện tại nước
ngoài, các tổ chức, doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật của nước ngoài
được phép hoạt động, kinh doanh tại nước đó. “Người cư trú” còn bao gồm
những người thuộc quốc tịch nước đó (kể cả người làm việc ở các cơ quan đại

diện nước ngoài hoặc được phép ra nước ngoài không phải vì mục đích định cư)
và người nước ngoài được phép cư trú có thời hạn tại nước đó. Ngược lại,
“người không cư trú” được hiểu là những tổ chức, doanh nghiệp được thành lập
theo pháp luật hiện hành của một nước. Những tổ chức, doanh nghiệp này
không hoạt động kinh doanh trong nước mà hoạt động kinh doanh tại nước
ngoài cũng như các tổ chức, doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật của
nước ngoài không hoạt động kinh doanh trong nước đó, hay các cơ quan đại
diện của các tổ chức quốc tế, của các Chính phủ khác đặt tại nước đó. “Người
không cư trú” còn là những người mang quốc tịch đến nước đó không phải vì
mục đích định cư.
Như vậy, việc phân chia người cư trú và người không cư trú không phụ
thuộc vào việc tổ chức đó được thành lập theo pháp luật nước nào hay cá nhân
đó mang quốc tịch nước nào, mà căn cứ chính để phân chia là dấu hiệu thu nhập
của cá nhân, tổ chức đó ở trong nước hay nước ngoài. Việc phân chia này giúp
cho việc ghi nhận chính xác cán cân thanh toán quốc tế, từ đó Chính phủ có
chính sách quản lý phù hợp với hoạt động ngoại tệ của từng loại đối tượng khác
nhau, nhằm khuyến khích hoạt động kinh tế đối ngoại và tăng cường hiệu quả
hoạt động quản lý của nhà nước bằng pháp luật.
- Các quy định về quyền, nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ QLNT:
Tùy theo định hướng, mục tiêu QLNT trong từng giai đoạn, mỗi quốc gia đều
ban hành quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động QLNT của “người cư trú” và
“người không cư trú”. Đó chính là các quy định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ QLNT. Nội dung của hoạt động


×