ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*****
NGUYỄN THỊ HƯỜNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ VĂN BÍNH
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
Mở đầu 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI VÀ
TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 6
1.1 Tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài 6
1.1.1 Khái niệm đầu tư nước ngoài 6
1.1.1.1 Khái quát chung 6
1.1.1.2 Quan niệm của một số nước về đầu tư có yếu tố nước
ngoài 7
1.1.1.3 Đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt
Nam 9
1.1.2 Tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài 12
1.1.2.1 Khái niệm 12
1.1.2.2 Các loại hình tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước
ngoài 15
1.1.2.3 Các bên tranh chấp và đối tượng tranh chấp 18
1.1.2.4 Nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp 20
1.2 Trọng tài 26
1.2.1 Khái niệm trọng tài 26
1.2.2 Đặc điểm của Trọng tài 30
1.3 Sự cần thiết của phương thức giải quyết tranh chấp đầu tư
nước ngoài bằng trọng tài trong điều kiện hội nhập quốc tế 32
1.3.1 Tổng quan về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 32
1.3.2 Ưu thế của trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp đầu tư nước
ngoài 34
1.3.3 Tác động của quá trình hội nhập kinh tế thế giới đến việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài 40
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI BẰNG TRỌNG TÀI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP QUỐC TẾ 44
2.1 Pháp luật về giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng
trọng tài 44
2.2 Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài 46
2.2.1 Các quy định của pháp luật trong nước 46
2.2.1.1 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp của trọng tài 46
2.2.1.2 Thoả thuận trọng tài và thẩm quyền của trọng tài 48
2.2.1.3 Cơ chế giải quyết tranh chấp 53
2.2.1.4 Luật áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp đầu tư
nước ngoài bằng trọng tài 61
2.2.2 Giải quyết tranh chấp đầu tư trong các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc tham gia 69
2.2.2.1 Quy định chung về thủ tục tố tụng 69
2.2.2.2 Chấp nhận thẩm quyền xét xử của các toà trọng tài quốc
tế trong các Hiệp định đầu tư song phương của Việt
Nam 72
2.3 Thi hành quyết định của trọng tài và việc công nhận, cho thi
hành tại Việt Nam các phán quyết của Trọng tài nước ngoài 75
2.3.1 Thi hành quyết định của trọng tài 75
2.3.2 Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các phán quyết của
trọng tài nước ngoài 77
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI BẰNG
TRỌNG TÀI 83
3.1 Thực trạng giải quyết tranh chấp về đầu tư nước ngoài bằng
trọng tài ở nước ta 83
3.1.1 Thực trạng hoạt động của các Trung tâm trọng tài ở Việt Nam 83
3.1.2 Nguyên nhân làm hạn chế việc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài 87
3.1.2.1 Tồn tại một khoảng cách giữa doanh nghiệp và trọng tài 87
3.1.2.2 Những hạn chế của pháp luật về trọng tài thương mại 89
3.2 Kinh nghiệm của một số nước về giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài bằng trọng tài 94
3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài bằng trọng tài 97
3.3.1 Sự cần thiết phải có Luật trọng tài thương mại 97
3.3.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
đầu tư bằng trọng tài 98
3.3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về đầu tư liên quan đến giải quyết
tranh chấp 98
3.3.2.2 Hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài 102
KẾT LUẬN 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của xu hƣớng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới
không chỉ đánh dấu bằng sự gia tăng mối quan hệ cũng nhƣ sự phụ thuộc
nhiều mặt giữa các quốc gia, mà đằng sau bức tranh toàn cảnh đó là sự tham
gia của quá trình di chuyển vốn đầu tƣ từ nơi này sang nơi khác ở phạm vi
quốc gia và quốc tế. Song đi cùng với sự gia tăng về đầu tƣ là những mâu
thuẫn, bất đồng về lợi ích làm phát sinh tranh chấp trong lĩnh vực đầu tƣ nƣớc
ngoài giữa các chủ thể kinh doanh.
Do đó, một câu hỏi luôn đƣợc đặt ra cùng với bài toán phát triển đất
nƣớc, là làm thế nào để giải quyết một cách tốt nhất các mâu thuẫn, bất đồng
này bởi đây luôn là một vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Điều này không chỉ ảnh
hƣởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên tham gia tranh chấp mà còn ảnh
hƣởng rất lớn đến sự phát triển, sức thu hút của nền kinh tế quốc gia nói
chung trong nền kinh tế toàn cầu. Nếu ta tạo ra đƣợc một hệ thống giải quyết
tranh chấp hiệu quả chính là tạo sự bảo đảm cho môi trƣờng đầu tƣ ổn định và
cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tƣ. Điều này đối
với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài có ý nghĩa hơn cả việc tăng cƣờng các biện
pháp ƣu đãi, khuyến khích đầu tƣ.
Đặc biệt, hiện nay trong bối cảnh Luật đầu tƣ đƣợc Quốc hội khoá XI
nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm
2005 đã có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2006 đã tạo ra sự chuyển biến cho
nền kinh tế. Luật đầu tƣ năm 2005 đƣợc áp dụng để điều chỉnh chung cho
hoạt động đầu tƣ trong nƣớc cũng nhƣ hoạt động đầu tƣ nƣớc ngoài, nên về
nguyên tắc sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa hai loại hình đầu tƣ này. Do
đó, sức thu hút của Việt Nam đối với nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tăng lên
2
nhanh, hình thức đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam ngày càng đa dạng hơn và
tranh chấp đầu tƣ cũng ngày càng phức tạp hơn.
Với tính chất là “cơ quan tài phán tƣ”, trọng tài có những ƣu thế mà các
phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác không thể có nhƣ đề cao ý chí tự do
thoả thuận của các bên, tố tụng trọng tài không bị ràng buộc về mặt lãnh thổ
hay bị chi phối bởi quyền lực nhà nƣớc, quyết định trọng tài có hiệu lực thi
hành ngay kể từ ngày đƣợc công bố nên đáp ứng nhu cầu khôi phục nhanh
những tổn thất về tiền hàng trong đầu tƣ thƣơng mại…. Do đó, nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp cũng nhƣ uy tín của các Trung tâm trọng tài là một
vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc nghiên cứu “ Giải quyết tranh
chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế ” có nhiều ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết tranh chấp đầu tƣ bằng con đƣờng trọng tài là một vấn đề thu
hút đƣợc rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học pháp lý. Hiện nay có
khá nhiều các công trình nghiên cứu và các bài viết về vấn đề này nhƣ: „„Giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt Nam, thực trạng và
phƣơng hƣớng hoàn thiện‟‟ (Luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Ngọc, năm 2000),
“Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam”
(Luận án tiến sĩ của Đào Văn Hội, năm 2003 ); „„Vai trò của Toà án trong
hoạt động giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài ở Việt Nam‟‟
(Luận văn Thạc sĩ của Vũ Ánh Dƣơng, năm 2006); „„Hoàn thiện pháp luật
trọng tài thƣơng mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế‟‟ (Luận
án tiến sĩ của Nguyễn Đình Thơ, năm 2007)…
Ngoài ra, có những bài viết của các nhà khoa học về trọng tài thƣơng
mại hay về đầu tƣ nƣớc ngoài đăng trên các tạp chí chuyên ngành nhƣ:
3
“Những điểm tƣơng đồng pháp luật trọng tài thƣơng mại Việt Nam và các
nƣớc trên thế giới ”(Nguyễn Đình Thơ, tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9
năm 2006 ), “Về thẩm quyền của trọng tài thƣơng mại và những lƣu ý trong
hoạt động thụ lý các tranh chấp có thoả thuận trọng tài ” ( Nguyễn Thị Hằng
Nga, tạp chí Luật học, số 7 năm 2006 ), „„Pháp luật về đầu tƣ ở Việt Nam –
Quá trình hình thành và phát triển‟‟ (PGS.TS Trần Ngọc Dũng, tạp chí Luật
học, số 10/2007), „„Xu hƣớng phát triển văn hoá trọng tài thƣơng mại quốc
tế‟‟ (Dƣơng Văn Hậu, tạp chí Dân chủ và pháp luật, năm 2005 )…
Nhƣ vậy, trong khoa học pháp lý nói chung thì các vấn đề trọng tài
thƣơng mại và tranh chấp đầu tƣ nƣớc ngoài không phải là những vấn đề
nghiên cứu hoàn toàn mới, bởi nó đƣợc rất nhiều các nhà khoa học pháp lý
và các công trình nghiên cứu quan tâm. Nhƣng với thực tiễn thì nó là một vấn
đề cấp thiết và mang nhiều ý nghĩa. Hiện nay, trong thực tiễn kinh doanh và
khoa học pháp lý, ta luôn đƣợc nghe và đƣợc nhắc đến những cụm từ nhƣ
„„doanh nghiệp Việt Nam còn biết rất ít đến trọng tài‟‟, hay „„doanh nghiệp
Việt Nam còn e ngại trọng tài‟‟, tình trạng „„bùng nổ tranh chấp về đầu tƣ‟‟,
còn đối với tranh chấp đầu tƣ thƣơng mại quốc tế thì „„doanh nghiệp Việt
Nam luôn là bên chịu nhiều thua thiệt‟‟ Điều này nói lên rằng, mặc dù
trọng tài là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp có nhiều ƣu thế nhƣng vẫn
chƣa đƣợc các doanh nghiệp biết đến và sử dụng hiệu quả. Đặc biệt với bản
chất là „„cơ quan tài phán tƣ‟‟ nên trọng tài là một phƣơng thức giải quyết
tranh chấp phù hợp nhất đối với đầu tƣ nƣớc ngoài.
Ngoài ra, „„trọng tài‟‟ và „„đầu tƣ nƣớc ngoài‟‟ mặc dù là những vấn đề
đƣợc quan tâm nhiều trong khoa học pháp lý, nhƣng dƣới góc độ nghiên cứu
một cách chuyên sâu và cụ thể của việc giải quyết tranh chấp đầu tƣ nƣớc
ngoài bằng trọng tài thì cho đến nay vẫn chƣa có công trình, bài viết nào đề
cập một cách cụ thể và toàn diện. Hiệu quả của phƣơng thức giải quyết tranh
4
chấp này đối với đầu tƣ nƣớc ngoài chƣa đƣợc các nhà khoa học pháp lý dành
cho sự quan tâm ngang tầm với ý nghĩa của nó. Vì vậy, có thể nói, vấn đề mà
đề tài nghiên cứu, dƣới một góc độ nào đó vẫn có tính mới và mang tính cấp
thiết trong khoa học pháp lý Việt Nam, cần phải đƣợc quan tâm, tiếp tục giải
quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện các vấn đề về tranh
chấp trong lĩnh vực đầu tƣ nƣớc ngoài, đặc biệt là các nguyên nhân làm phát
sinh tranh chấp qua đó đƣa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật
về đầu tƣ nƣớc ngoài nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp đầu tƣ
nƣớc ngoài nói riêng.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật hiện hành về
trọng tài, vai trò, ý nghĩa của phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài; đánh giá những mặt tích cực cũng nhƣ hạn chế, bất cập của loại hình giải
quyết tranh chấp kinh tế này. Thông qua việc nghiên cứu những mặt hạn chế
để đƣa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện phƣơng pháp giải quyết tranh chấp đầu
tƣ nƣớc ngoài bằng trọng tài.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đầu tƣ có yếu tố nƣớc ngoài là một vấn đề rộng, bao gồm rất nhiều lĩnh
vực khác nhau. Tranh chấp trong lĩnh vực đầu tƣ có thể là tranh chấp giữa hai
Chính phủ về việc thực hiện các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ,
tranh chấp giữa Chính phủ nƣớc nhận đầu tƣ với tổ chức, cá nhân là nhà đầu
tƣ nƣớc ngoài hoặc tranh chấp giữa các nhà đầu tƣ với nhau Trong phạm vi
bài viết này, tác giả muốn đi sâu vào nghiên cứu tranh chấp giữa các nhà đầu
tƣ với nhau theo quy định của pháp luật Việt Nam về đầu tƣ nƣớc ngoài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5
Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật; cũng nhƣ các quan
điểm, đƣờng lối chỉ đạo của Đảng, Nhà nƣớc trong công cuộc phát triển kinh
tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn tác giả sử dụng các
phƣơng pháp nhƣ: phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng
pháp tổng hợp… để đƣa ra những kết luận, nhận định để làm sáng tỏ nội dung
luận văn của mình.
6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI
VÀ TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
1.1 TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
1.1.1 Khái niệm đầu tƣ nƣớc ngoài
1.1.1.1 Khái quát chung
Đầu tƣ nƣớc ngoài là một trong những hoạt động kinh tế quan trọng
của nền kinh tế thế giới. Sự phát triển của mỗi một quốc gia trong nền kinh tế
toàn cầu không thể tách rời khỏi hoạt động kinh tế này. Đầu tƣ nƣớc ngoài là
một khái niệm chung đƣợc dùng để chỉ một loại hình hợp tác kinh tế quốc tế
mà trong đó có sự di chuyển của vốn đầu tƣ từ nƣớc này sang nƣớc khác. Đầu
tƣ nƣớc ngoài có hai loại hình đầu tƣ là đầu tƣ công cộng (hay viện trợ tài
chính công cộng) và đầu tƣ tƣ nhân nƣớc ngoài.
Đầu tư công cộng là những khoản cho vay, tín dụng trợ cấp hay viện
trợ hoàn lại hoặc không hoàn lại của các tổ chức quốc tế cấp cho một nƣớc
(thƣờng là những nƣớc đang phát triển) nhằm chủ yếu thúc đẩy phát triển
kinh tế, thực hiện những mục tiêu xã hội và cải thiện mức sống ở nƣớc này;
với những điều kiện tài chính dễ dàng, không thể có đƣợc trong quan hệ
thƣơng mại thông thƣờng. Hình thức phổ biến của loại hình đầu tƣ này đó là
các vốn vay ƣu đãi ODA với lãi suất rất thấp và thời gian vay lâu dài. Tuy
nhiên các khoản ODA thƣờng gắn với những ràng buộc về chính trị, kinh tế,
xã hội… điều này gây khó khăn cho nƣớc nhận viện trợ.
Đầu tư tư nhân nước ngoài là hành động của một cá nhân hay pháp
nhân mang vốn đầu tƣ sang kinh doanh trên lãnh thổ của một quốc gia khác
nhằm mục đích kiếm lợi riêng. Đầu tƣ tƣ nhân đƣợc thực hiện dƣới ba hình
7
thức là đầu tƣ trực tiếp, đầu tƣ gián tiếp và tín dụng thƣơng mại bằng nguồn
vốn của tƣ nhân nƣớc ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đƣợc hiểu là việc nhà đầu tƣ trực tiếp đƣa
vốn vào nƣớc khác để sản xuất kinh doanh, theo đó nhà đầu tƣ tự mình tham
gia hoạt động kinh doanh, quản lý và sử dụng đồng vốn của mình. Đây là
hình thức đầu tƣ quốc tế chủ yếu.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tƣ mà nhà đầu tƣ không
trực tiếp tham gia quản lý và sử dụng vốn của mình. Thông thƣờng loại hình
đầu tƣ này đƣợc thực hiện dƣới dạng mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu…
hoặc đầu tƣ thông qua các định chế tài chính trung gian mà nhà đầu tƣ không
trực tiếp tham gia quản lý.
Tín dụng thương mại là cũng một loại hình đặc trƣng của đầu tƣ nƣớc
ngoài, đây là hình thức đầu tƣ dƣới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận thông
qua lãi suất vay.
1.1.1.2 Quan niệm của một số nước về đầu tư có yếu tố nước ngoài
Trƣớc khi tìm hiểu quan niệm của một số nƣớc về đầu tƣ có yếu tố
nƣớc ngoài ta có thể nhận định rằng: “khái niệm về đầu tư không có ảnh
hưởng nhiều đến vấn đề thu hút đầu tư, nhưng nó có vai trò vô cùng quan
trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư nước ngoài
đối với tài sản và dòng tài chính của mình” [37, tr.43]. Bởi trong quan niệm
của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thì tổng thể các hình thức khuyến khích, thu
hút đầu tƣ của một nƣớc không quan trọng bằng việc tạo ra một môi trƣờng
đầu tƣ ổn định của chính nƣớc đó. Các quy định của pháp luật liên quan trực
tiếp đến việc thiết lập cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tƣ khi có
tranh chấp xảy ra.
8
Cho đến nay, khái niệm đầu tƣ nƣớc ngoài không phải là một khái
niệm thống nhất trong cách nhìn nhận của các quốc gia khác nhau. Với quan
niệm về đầu tƣ nƣớc ngoài theo phạm trù rất hẹp tổ chức Hợp tác và phát
triển (OECD) định nghĩa về đầu tƣ nƣớc ngoài đòi hỏi nhất định phải có sự
kiểm soát của nhà đầu tƣ với doanh nghiệp nhƣ một yếu tố thiết yếu của khái
niệm này [38, tr.50]. Theo đó: “Đầu tư nhằm mục đích thiết lập các quan hệ
kinh tế lâu dài với một nhiệm vụ cụ thể là các nhà đầu tư phải có khả năng
thực hiện sự ảnh hưởng hữu hiệu đối với việc quản lý các đầu tư đó.”
Tại điều 1(3) Hiệp định ASEAN về khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ
năm 1998 thì thuật ngữ „„đầu tƣ‟‟ đƣợc hiểu là bất kỳ loại tài sản nào và cụ
thể, bao gồm :
- Động sản và bất động sản, và bất kỳ các quyền về tài sản nào như
thế chấp, thế nợ và cầm cố.
- Cổ phần, vốn và các giấy tờ ghi nợ của công ty hoặc của các quyền
lợi trong tài sản của các công ty đó.
- Các quyền đòi hoặc đòi bất kỳ sự thực hiện nào theo hợp đồng có
giá trị tài chính.
- Các quyền sở hữu trí tuệ và uy tín kinh doanh.
- Các quyền tô nhượng kinh doanh có được theo luật hoặc theo hợp
đồng, bao gồm các tô nhượng để tìm kiếm, nuôi trồng, tinh chế hoặc
khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Trong khi đó pháp luật về đầu tƣ nƣớc ngoài của Trung Quốc quy định
bao gồm cả hình thức đầu tƣ trực tiếp và đầu tƣ gián tiếp, nó không chỉ bao
gồm việc nhà đầu tƣ nƣớc ngoài trực tiếp đƣa vốn của họ vào sản xuất kinh
doanh tại Trung Quốc mà còn bao gồm cả các hoạt động đầu tƣ khác nhƣ cho
vay tín dụng, mua cổ phần của các doanh nghiệp Trung Quốc Quan điểm
9
này khá tƣơng đồng với các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về đầu
tƣ nƣớc ngoài.
1.1.1.3 Đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
Trong khoa học pháp lí nói chung cũng nhƣ thực tiễn xây dựng chính
sách, pháp luật về đầu tƣ, hoạt động đầu tƣ chủ yếu đƣợc đề cập là hoạt động
đầu tƣ kinh doanh, với bản chất là “sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích
làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận ” [61, tr.12]. Ở Việt Nam,
trƣớc khi ban hành Luật đầu tƣ năm 2005, khái niệm đầu tƣ kinh doanh chƣa
đƣợc định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật [30, tr.6]. Luật
khuyến khích đầu tƣ trong nƣớc (sửa đổi) ngày 20/5/1998, Luật đầu tƣ nƣớc
ngoài tại Việt Nam (1996, 2000) không định nghĩa về đầu tƣ nói chung, mà
thay vào đó là khái niệm “đầu tư trong nước” và “đầu tư trực tiếp nước
ngoài”. Luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam thực chất chỉ điều chỉnh các
quan hệ đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào Việt Nam; trong khi đó, nhiều hoạt
động đầu tƣ nhƣ: các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài góp vốn vào doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, doanh nghiệp có nƣớc ngoài mở chi nhánh, văn phòng
đại diện tại Việt Nam… và các hoạt động đầu tƣ gián tiếp không thuộc phạm
vi điều chỉnh của Luật này.
Luật đầu tƣ năm 2005 với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tƣ
nhằm mục đích kinh doanh, đã đƣa ra định nghĩa „„đầu tư là việc nhà đầu tư
bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến
hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật‟‟ (khoản 1 điều 3).
Nhƣ vậy hoạt động đầu tƣ ở đây đƣợc hiểu là hoạt động của các nhà đầu tƣ
trong quá trình đầu tƣ, bao gồm các khâu nhƣ chuẩn bị đầu tƣ, thực hiện và
quản lý dự án đầu tƣ.
10
Bên cạnh việc đƣa ra khái niệm chung về đầu tƣ thì Luật đầu tƣ năm
2005 còn quy định: Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣa vào
Việt Nam vốn bằng tiền và các loại tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt
động đầu tƣ (khoản 12, điều 3). Trong đó:
+ Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tƣ do nhà đầu tƣ bỏ vốn đầu tƣ và
tham gia quản lý hoạt động đầu tƣ (khoản 2, điều 3).
+ Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tƣ thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tƣ chứng khoán và thông
qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tƣ không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tƣ (khoản 3, điều 3).
+ Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tƣ đƣa vốn bằng tiền và các tài
sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nƣớc ngoài để tiến hành hoạt động đầu tƣ
(khoản 14, điều 3).
Căn cứ vào các quy định trên của pháp luật thì đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam phải đƣợc hiểu là bao gồm các hoạt động: đầu tƣ trực tiếp và đầu tƣ
gián tiếp có yếu tố nƣớc ngoài. Còn hoạt động đầu tư ra nước ngoài cũng
đƣợc hiểu là đầu tƣ có yếu tố nƣớc ngoài, tuy nhiên, hoạt động đầu tƣ ra nƣớc
ngoài đƣợc thực hiện trên lãnh thổ của nƣớc tiếp nhận đầu tƣ và do pháp luật
quốc gia tiếp nhận đầu tƣ điều chỉnh. Vì lý do trên nên việc giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực đầu tƣ ra nƣớc ngoài luận văn không đề cập đến.
Định nghĩa về đầu tƣ trong các Hiệp định về đầu tƣ quốc tế nói chung
có vai trò quan trọng trong việc xác định phạm vi điều chỉnh của Hiệp định,
xác định vấn đề tự do hoá và bảo hộ đầu tƣ, cho nên định nghĩa về đầu tƣ
đƣợc đƣa ra rất cụ thể. Tại mục 2, điều 1 Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Nhật Bản về Tự do, xúc tiến và Bảo hộ đầu tƣ có quy định
11
: Thuật ngữ "đầu tư" có nghĩa tất cả các loại tài sản đƣợc sở hữu hoặc quản
lý trực tiếp hoặc gián tiếp bởi một nhà đầu tƣ ; bao gồm cả các khoản lợi tức
phát sinh từ hoạt động đầu tƣ, cụ thể là lợi nhuận, lãi suất, lãi cổ phần, cổ tức,
tiền bản quyền và các loại phí và sự thay đổi hình thức đầu tƣ tài sản không
ảnh hƣởng đến tính chất đầu tƣ. Với quan niệm về đầu tƣ nhƣ vậy ta có thể
bắt gặp trong một số các Hiệp định thƣơng mại và bảo hộ đầu tƣ giữa Việt
Nam với các nƣớc
1
.
Qua các nội dung trên ta có thể thấy rằng, so với các quy định về đầu tƣ
của các văn bản pháp luật trong nƣớc thì nội dung khái niệm về đầu tƣ trong
các Hiệp định song phƣơng của Việt Nam với nƣớc ngoài cụ thể và chi tiết
hơn rất nhiều. Trong khi các quy định của pháp luật trong nƣớc chỉ quy định
một cách chung chung, thì trong các Hiệp định song phƣơng, khái niệm đầu
tƣ còn đƣợc mở rộng sang cả những lĩnh vực mang tính chuyên ngành nhƣ
quyền sở hữu trí tuệ, gồm quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, tín
hiệu vệ tinh mang chƣơng trình đã đƣợc mã hoá Việc quy định một cách chi
tiết về khái niệm đầu tƣ nhằm mục đích bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi
cho các nhà đầu tƣ nƣớc mình ở trên lãnh thổ quốc gia sở tại, cũng nhƣ tránh
trƣờng hợp xảy ra tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Hiệp
định do sự quy định không rõ ràng.
Từ những vấn đề trên, theo tác giả khái niệm về đầu tƣ có yếu tố nƣớc
ngoài có thể đƣợc hiểu nhƣ sau :
Đầu tư có yếu tố nước ngoài là hoạt động đầu tư mà các nguồn lực đầu
tư được huy động từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc người của nước
1
Một số Hiệp định thƣơng mại và bảo hộ đầu tƣ có quan niệm tƣơng tự nhƣ : Hiệp định thƣơng mại Việt
Nam với Hoa Kỳ tại mục 1, điều 1, chƣơng 4 về Phát triển quan hệ đầu tƣ ; Hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tƣ giữa Việt Nam với Singapore tại khoản 1, điều 1; Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ giữa
Việt Nam với Malaysia tại mục (a) điều 1.
12
tiếp nhận đầu tư định cư ở nước ngoài đầu tư về nước để tiến hành các hoạt
động đầu tư kinh doanh kiếm lợi nhuận.
1.1.2 Tranh chấp trong lĩnh vực đầu tƣ nƣớc ngoài
1.1.2.1 Khái niệm tranh chấp đầu tư
Tranh chấp là một hiện tƣợng khách quan trong xã hội. Khi mà nền
kinh tế càng phát triển thì giao lƣu thƣơng mại quốc tế ngày càng đƣợc mở
rộng, tranh chấp ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Trong nền kinh tế thị
trƣờng, có rất nhiều loại tranh chấp diễn ra, chúng có nhiều điểm tƣơng đồng
với nhau nên rất khó để có thể phân biệt chúng một cách chính xác, rõ ràng.
Thực tiễn áp dụng pháp luật đòi hỏi ta cần phải phân biệt khái niệm đầu tư
(nhằm mục đích lợi nhuận) với khái niệm kinh doanh (thương mại), cũng nhƣ
các khái niệm tranh chấp về chúng, bởi về bản chất đầu tư cũng là một quá
trình kinh doanh đặc thù.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, kinh doanh đƣợc hiểu là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tƣ, từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng nhằm
mục đích sinh lợi. Bên cạnh khái niệm kinh doanh, pháp luật hiện hành còn
đƣa ra khái niệm pháp lý về hoạt động thƣơng mại. Theo nghĩa kinh điển thì
hoạt động thƣơng mại là hoạt động mua bán, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu
dùng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, khái niệm
thƣơng mại đã đƣợc mở rộng đến cả lĩnh vực sản xuất, phân phối, dịch vụ
với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, việc xác định ranh giới giữa hoạt
động kinh doanh và thƣơng mại ngày càng khó khăn và ít có ý nghĩa. Có thể
đồng nhất khái niệm kinh doanh và khái niệm thƣơng mại ở chỗ, chúng đều là
hoạt động của các chủ thể trong xã hội nhằm mục đích lợi nhuận. Luật thƣơng
13
mại năm 2005 đã hợp lý khi định nghĩa hoạt động thƣơng mại thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật này là mọi hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm
cả hoạt động đầu tƣ (khoản 1, điều 3 Luật thƣơng mại 2005). Với cách hiểu
nhƣ vậy, hoạt động đầu tƣ kinh doanh đƣợc coi là một bộ phận của hoạt động
thƣơng mại và theo đó tranh chấp về đầu tƣ cũng đƣợc coi là một dạng của
tranh chấp thƣơng mại.
Nhƣ vậy, tranh chấp về đầu tƣ có những đặc điểm của tranh chấp
thƣơng mại nói chung và có mối liên hệ với những loại hình tranh chấp
thƣơng mại khác. Bản thân hoạt động đầu tƣ cũng có mối quan hệ không tách
rời với các bộ phận khác của hoạt động thƣơng mại nhƣ mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ thƣơng mại, là một quá trình trong một chuỗi các quá trình
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong xã hội Sự khác biệt cơ bản của hoạt
động đầu tƣ so với hoạt động thƣơng mại khác thể hiện ở chỗ đầu tƣ là hoạt
động mang tính tạo lập (bỏ vốn, tài sản) nhằm hình thành cơ sở vật chất, kỹ
thuật cũng nhƣ các điều kiện khác để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận.
Tranh chấp trong lĩnh vực đầu tƣ nƣớc ngoài không đơn thuần là một
dạng tranh chấp thƣơng mại mà nó còn gắn liền với yếu tố nƣớc ngoài. Mặc
dù Luật đầu tƣ không quy định thế nào là yếu tố nƣớc ngoài nhƣng theo quy
định chung của Bộ luật dân sự (tại điều 758) „„yếu tố nước ngoài‟‟ đƣợc hiểu
là: quan hệ có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân
nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài; hoặc là các quan hệ giữa
các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhƣng căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nƣớc ngoài, phát sinh tại nƣớc
ngoài; hoặc tài sản liên quan hệ đó ở nƣớc ngoài.
Tranh chấp trong lĩnh vực đầu tƣ nƣớc ngoài xét theo nghĩa rộng không
còn là quan hệ thuần tuý mang tính chất inter partes mà đã trở thành hiện
14
tƣợng erga omnes. (Thuật ngữ Latinh inter partes – giữa các bên liên quan,
và erga omnes – lợi ích cộng đồng, là các khái niệm hiện đang được dùng
phổ biến trong Luật quốc tế hiện đại. Quá trình toàn cầu hoá và sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia dẫn đến hiện tượng một vấn đề phát sinh giữa hai
quốc gia hoặc thậm chí giữa một tổ chức của quốc gia này với quốc gia khác
cũng có thể ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng quốc tế) [60, tr.8].
Lợi ích kinh tế chỉ là một phần trong một loạt các lợi ích liên quan trong các
mối quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng và tế nhị. Việc nhận thức đúng đắn và
thoả đáng các tranh chấp đầu tƣ vì lẽ đó có tầm quan trọng đặc biệt.
Trên thực tế khái niệm tranh chấp đầu tƣ gần nhƣ đƣợc mặc nhiên sử
dụng trong các văn bản pháp lý và thiết chế quốc tế liên quan đến vấn đề đầu
tƣ. Ngƣời ta dƣờng nhƣ chỉ chú ý đến vấn đề hoàn thiện cơ chế giải quyết
tranh chấp này hơn là việc hiểu khái niệm về nó. Cho đến nay, chƣa thấy một
văn bản pháp lý quốc tế và công trình nghiên cứu nào đƣa ra định nghĩa chi
tiết và hoàn thiện về tranh chấp đầu tƣ nƣớc ngoài. Chỉ biết rằng đầu tƣ nƣớc
ngoài là cả một quá trình chuyển vốn (bao gồm cả công nghệ và yếu tố khác
của sở hữu trí tuệ) và/hoặc nguyên vật liệu từ một nƣớc (nƣớc xuất khẩu vốn)
sang một nƣớc khác (nƣớc chủ nhà) nhằm mục đích sản xuất kinh doanh sinh
lợi nhuận.
Tranh chấp đầu tƣ theo Điều 25, khoản 1, Công ƣớc Washington 1965
(Công ƣớc về giải quyết tranh chấp đầu tƣ giữa các quốc gia và công dân các
quốc gia khác có hiệu lực pháp luật từ 14/10/1966) đƣợc hiểu „„là tranh chấp
pháp lý phát sinh trực tiếp từ đầu tư‟‟. Nhƣ vậy ngay cả Công ƣớc thành lập
Trung tâm quốc tế về giải quyết các tranh chấp đầu tƣ nƣớc ngoài ICSID
cũng để ngỏ cả khái niệm đầu tƣ lẫn tranh chấp đầu tƣ. Theo nhà nghiên cứu
pháp lý thì lý do của việc này là ở chỗ những ngƣời soạn thảo Công ƣớc
muốn về lâu dài ICSID có thẩm quyền rộng trong việc xét xử các tranh chấp.
15
Ở Việt Nam, Luật đầu tƣ 2005 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành
không quy định thế nào là tranh chấp trong lĩnh vực đầu tƣ có yếu tố nƣớc
ngoài, mà chỉ quy định các trƣờng hợp xảy ra tranh chấp và việc lựa chọn
hình thức giải quyết tranh chấp. Ngay cả trong các Hiệp định khuyến khích và
bảo hộ đầu tƣ giữa Việt Nam và các nƣớc cũng chỉ quy định về cơ chế giải
quyết tranh chấp mà không đƣa ra định nghĩa cụ thể về tranh chấp này. Nhƣ
vậy, việc không đƣa ra một khái niệm cụ thể về đầu tƣ là nhằm mục đích
tránh trƣờng hợp do sự quy định thiếu đầy đủ của pháp luật mà các chủ thể
của tranh chấp gặp khó khăn trong lựa chọn phƣơng thức giải quyết.
Qua các phân tích trên, ta có thể tạm thời quan niệm rằng:
Tranh chấp trong lĩnh vực nước ngoài là những mâu thuẫn, bất đồng
phản ánh sự xung đột về lợi ích giữa các bên chủ thể trong quá trình thực
hiện hoạt động đầu tư nước ngoài.
1.1.2.2 Các loại hình tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
Khái quát chung về các loại hình tranh chấp
Tranh chấp về đầu tƣ có yếu tố nƣớc ngoài nhìn chung khá phức tạp,
việc phân loại chúng là rất cần thiết và quan trọng trong việc giải quyết tranh
chấp về đầu tƣ, đặc biệt trong vấn đề lựa chọn phƣơng thức giải quyết tranh
chấp đầu tƣ phù hợp. Xét theo nghĩa rộng có 3 loại tranh chấp về đầu tƣ nƣớc
ngoài, đó là:
- Tranh chấp phát sinh giữa nƣớc chủ nhà và nƣớc có nhà đầu tƣ (gọi
tắt là nƣớc đầu tƣ).
- Tranh chấp giữa nƣớc chủ nhà và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài.
- Tranh chấp giữa nhà đầu tƣ nƣớc ngoài và cá nhân, tổ chức của
nƣớc chủ nhà; hoặc giữa các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài với nhau.
16
Tranh chấp giữa nƣớc chủ nhà và nƣớc đầu tƣ là tranh chấp thuộc đối
tƣợng điều chỉnh của Luật Công pháp quốc tế, trong đó các bên tranh chấp
(ratione personae) là quốc gia có chủ quyền. Đối tƣợng điều chỉnh của loại
này, ngoài các vấn đề xuất phát từ quan hệ giữa hai nƣớc đƣợc quy định trong
Hiệp định bảo hộ đầu tƣ song phƣơng, còn có cả vấn đề phát sinh từ đầu tƣ tƣ
nhân. Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu cho rằng không nên coi loại
tranh chấp này là một hình thức tranh chấp đầu tƣ [60, tr.10]. Thực ra, quan
điểm trên đã thể hiện một quan niệm hẹp về tranh chấp đầu tƣ nƣớc ngoài, chỉ
nhìn nhận tranh chấp dƣới góc độ của các nhà đầu tƣ tƣ nhân. Trong khi đó
hiện nay việc các nƣớc tranh chấp với nhau về những vấn đề liên quan đến
đầu tƣ không phải là hiếm.
Tranh chấp giữa nhà đầu tƣ nƣớc ngoài và Chính phủ nƣớc chủ nhà
(trực tiếp hoặc thông qua các Cơ quan chính phủ), là loại tranh chấp chủ yếu
và tƣơng đối phức tạp, còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về mặt pháp lý
chƣa đƣợc giải quyết một cách thoả đáng. Nguyên nhân chính là do các bên
tranh chấp không phải là chủ thể của một hệ thống pháp luật. Nƣớc chủ nhà
với tƣ cách là một quốc gia độc lập có chủ quyền, thuộc đối tƣợng điều chỉnh
của Công pháp quốc tế, trong khi đó nhà đầu tƣ nƣớc ngoài là chủ thể của Tƣ
pháp quốc tế. Các quốc gia thƣờng thoả thuận tại Hiệp định bảo hộ đầu tƣ
song phƣơng đƣa loại tranh chấp này ra giải quyết tại Trung tâm quốc tế về
giải quyết tranh chấp đầu tƣ ICSID.
Tranh chấp giữa nhà đầu tƣ nƣớc ngoài với cá nhân, tổ chức (gọi chung
là công dân) nƣớc chủ nhà là loại hình tranh chấp thuần tuý mang tính chất
thƣơng mại và thƣờng đƣợc giải quyết tại các cơ quan giải quyết tranh chấp
của nƣớc chủ nhà hoặc tại tổ chức trọng tài quốc tế
1
nếu các bên không có thoả
1
Ở đây khái niệm trọng tài quốc tế dùng để chỉ tổ chức trọng tài (bao gồm trọng tài quy chế và trọng tài ad-
hoc) có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đầu tƣ có yếu tố nƣớc ngoài. Chẳng hạn ở Việt Nam, Trung tâm
17
thuận khác. Loại tranh chấp này tƣơng đối đa dạng về quy mô và tính chất, dễ
dẫn đến ngừng hoạt động đầu tƣ. Nguyên nhân tranh chấp có thể do một trong
các bên không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng. Loại tranh chấp này
cũng có thể phát sinh trên cơ sở bất đồng ngôn ngữ, quan điểm, phong
tục…của mỗi nƣớc khác nhau.
Các loại hình tranh chấp theo quy định của pháp luật Việt Nam
Hiện nay, pháp luật về giải quyết tranh chấp đầu tƣ nƣớc ngoài của
Việt Nam chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật trong nƣớc và các văn
bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Tuỳ từng văn bản
pháp luật mà có sự quy định khác nhau về các loại hình tranh chấp đầu tƣ
nƣớc ngoài.
Theo quy định của văn bản pháp luật trong nước mà chủ yếu được quy
định tại điều 12 Luật đầu tư năm 2005 về giải quyết tranh chấp thì có các
hình thức tranh chấp sau:
(i) Tranh chấp giữa nhà đầu tƣ nƣớc ngoài với cơ quan quản lý nhà
nƣớc Việt Nam.
(ii) Tranh chấp mà một bên là nhà đầu tƣ nƣớc ngoài hoặc doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài với nhà đầu tƣ trong nƣớc; hoặc tranh
chấp giữa nhà đầu tƣ nƣớc ngoài với nhau. Hình thức tranh chấp này
bao gồm các loại tranh chấp sau :
- Tranh chấp liên quan đến đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài nhƣ: đầu tƣ vào
các tổ chức kinh tế, đầu tƣ theo hợp đồng, đầu tƣ phát triển kinh doanh,
trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) vào thời điểm đƣợc thành lập chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
phát sinh từ quan hệ kinh tế quốc tế. Chỉ đến khi có Quyết định 114/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ năm
1996 cho phép mở rộng thẩm quyền của VIAC đƣợc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong nƣớc. Đến
trƣớc khi có Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 thì Việt Nam vẫn tồn tại sự phân biệt thẩm quyền giải
quyết tranh chấp về đầu tƣ trong nƣớc và đầu tƣ có yếu tố nƣớc ngoài.
18
đầu tƣ thực hiện việc sáp nhập và mua lại các doanh nghiệp, chi nhánh
doanh nghiệp.
- Tranh chấp liên quan đến đầu tƣ gián tiếp nhƣ : đầu tƣ thông qua
chứng khoán (cổ phần, cổ phiếu và các giấy tờ có giá trị khác) ; đầu tƣ
thông qua quỹ chứng khoán ; đầu tƣ thông qua ngân hàng, doanh
nghiệp bảo hiểm
Theo quy định của Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt
Nam và các nước có các loại tranh chấp cơ bản sau :
(i) Tranh chấp về đầu tƣ giữa một bên ký kết với nhà đầu tƣ của bên ký
kết kia về nghĩa vụ của bên ký kết đó đối với những đầu tƣ của nhà đầu
tƣ bên ký kết kia; hoặc sự vi phạm bất kỳ quyền nào trong Hiệp định
liên quan đến đầu tƣ của nhà đầu tƣ đó.
(ii) Tranh chấp giữa các bên ký kết Hiệp định liên quan đến việc giải
thích hoặc áp dụng Hiệp định.
(Điều 7, điều 8 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ giữa Việt
Nam và Malaysia ; điều 6, điều 8 Hiệp định về bảo hộ đầu tƣ giữa Việt
Nam và Liên bang Nga ).
Nhƣ vậy, các hình thức tranh chấp theo quy định của các Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ đƣợc quy định ở tầm khái quát cao hơn so với
đầu tƣ trong nƣớc. Các quy định về tranh chấp đầu tƣ ở trong các văn bản
pháp luật trong nƣớc mang tính cụ thể và chi tiết hơn, phù hợp với thực tiễn
sản xuất kinh doanh thƣơng mại trên thực tế.
1.1.2.3 Các bên tranh chấp và đối tượng tranh chấp
Trong cả lý luận và thực tiễn, vấn đề xác định đối tƣợng tranh chấp và
các bên tranh chấp không phải là vấn đề gây tranh cãi lớn. Việc xác định các
19
bên tranh chấp suy cho cùng chính là xác định trách nhiệm, quyền và nghĩa
vụ cụ thể của các chủ thể có liên quan. Tuy nhiên sẽ khó khăn và phức tạp khi
mà trong quan hệ đầu tƣ có nhiều chủ thể tham gia, đặc biệt là sự tham gia của
yếu tố „„quản lý nhà nước‟‟. Điều này dễ xảy ra ở nƣớc có nền kinh tế thị
trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa nhƣ Việt Nam.
Hiện nay ở nƣớc ta, khoảng 70% dự án có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc
thực hiện dƣới hình thức liên doanh, trong đó bên Việt Nam thƣờng là các
doanh nghiệp nhà nƣớc (chiếm 98% trong các dự án liên doanh) [33, tr.194].
Việc lựa chọn hình thức liên doanh, các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài sẽ có đƣợc
những thuận lợi nhƣ: tiếp cận thị trƣờng nội địa nhờ góp sức của bên Việt
Nam, tiếp cận nguồn đất đai đang do doanh nghiệp nhà nƣớc nắm giữ mà
không đƣợc sử dụng hiệu quả, chia sẻ đƣợc rủi ro Nhƣng bên cạnh đó lại
gặp phải những hạn chế cũng không nhỏ, thể hiện ở việc yếu tố „„doanh
nghiệp‟‟ là một yếu tố song hành, không thể tách rời với yếu tố „„nhà nước”.
Sự tham gia quản lý của nhà nƣớc đối với các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế trọng điểm nhằm mục đích đảm bảo đƣợc vai trò chủ đạo của
nhà nƣớc trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Song sự can thiệp của nhà
nƣớc vì nhiều nguyên nhân vào hoạt động của doanh nghiệp đã dẫn đến nhiều
khó khăn và mâu thuẫn, làm cho doanh nghiệp không tự chủ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, đến khi tranh chấp xảy ra rất khó có thể xác định đƣợc
trách nhiệm của các bên tranh chấp. Sự không rõ ràng về quyền và nghĩa vụ
của các bên trong liên doanh, nhất là trong hợp đồng hợp tác kinh doanh (với
ví dụ điển hình về „„Trƣờng đua ngựa Thiên Mã‟‟
1
) là một trong những
nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp.
1
Vấn đề về Trƣờng đua ngựa Thiên Mã sẽ đƣợc trình bày cụ thể tại mục 1.1.2.4 về các nguyên nhân làm
phát sinh tranh chấp, đƣợc phân tích dƣới góc độ những khó khăn do việc lựa chọn không đúng hình thức
đầu tƣ dẫn đến phải đi “mƣợn” tƣ cách pháp nhân. Trong phạm vi nội dung đƣợc đề cập ở đây đó là sự thiếu
các quy định rõ ràng về các bên tham gia liên doanh cũng nhƣ trong quy định của pháp luật, dẫn đến sự khó
20
Trong trƣờng hợp phát sinh tranh chấp thì vấn đề cần xác định là liệu
các cơ quan nhà nƣớc có phải chịu trách nhiệm quốc tế do vi phạm hợp đồng
hay không. Nhìn chung, các nƣớc phát triển có xu hƣớng coi vi phạm hợp
đồng kiểu này phải chịu trách nhiệm quốc tế. Ngƣợc lại, các nƣớc đang phát
triển coi đây không phải là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế và vì vậy không
phải chịu trách nhiệm quốc tế [60, tr.12]. Mỗi một quan điểm có căn cứ và lý
lẽ riêng của mình, tuy nhiên, để nhận định đâu là quan điểm đúng thì phải căn
cứ trƣớc hết vào các văn bản pháp lý quốc tế quy định thế nào là „„trách
nhiệm pháp lý quốc tế‟‟ và các trƣờng hợp coi là phải chịu trách nhiệm pháp
lý quốc tế. Trong phạm vi bài viết này, ngƣời viết xin phép không đề cập sâu
vào vấn đề trên.
Tranh chấp giữa các Chính phủ với nhau thƣờng xuyên liên quan đến
việc thực hiện Hiệp định. Đối tƣợng của tranh chấp giữa Chính phủ và nhà
đầu tƣ nƣớc ngoài thƣờng liên quan đến vấn đề thể thức và mức độ bồi
thƣờng trong trƣờng hợp nƣớc nhận đầu tƣ áp dụng các biện pháp cƣỡng chế
hành chính đối với đầu tƣ nƣớc ngoài. Trong một số Hiệp định về đầu tƣ
thƣờng quy định cụ thể đối tƣợng tranh chấp là việc tìm hiểu và giải thích
Hiệp định nhƣ trong Hiệp định giữa Việt Nam với Thụy Điển hay Hiệp định
giữa Việt Nam với Phần Lan.
Qua các phân tích trên chúng ta có thể thấy rằng vấn đề xác định đối
tƣợng của tranh chấp cũng nhƣ các bên của tranh chấp là một vấn đề có ý
nghĩa quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp về đầu tƣ. Trong các hợp
đồng đầu tƣ càng quy định rõ đối tƣợng tranh chấp và các bên tranh chấp thì
việc lựa chọn phƣơng thức giải quyết càng dễ dàng bấy nhiêu. Điều này có
khăn trong hoạt động, nên khi xảy ra tranh chấp khó có thể xác định chính xác quyền và nghĩa vụ của các
bên.
21
vai trò quan trọng đối với các quan hệ đầu tƣ có sự tham gia của cơ quan quản
lý nhà nƣớc, nhằm mục đích đảm bảo sự công bằng cho các bên tham gia.
1.1.2.4 Nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp
Thứ nhất, năng lực quản lý đầu tƣ của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền của Việt Nam chƣa cao.
Năng lực quản lý của một cơ quan Nhà nƣớc phụ thuộc vào nhiều yếu
tố nhƣ con ngƣời, hệ thống các quy định của pháp luật Ta không thể chỉ đổ
lỗi sự yếu kém của cả một hệ thống cơ quan hành chính chỉ vì một yếu tố nào
đó, nhƣng bất kể vì lý do gì thì trách nhiệm của các cơ quan quản lý cần phải
đặt lên hàng đầu. Do sự yếu kém về năng lực nên các cơ quan này đã cấp giấp
phép đầu tƣ (hiện nay đƣợc gọi là giấy chứng nhận đầu tƣ) cho những dự án
không đủ điều kiện, gây tổn hại cho nhà nƣớc và những ngƣời dân có liên
quan. Điều này thể hiện rõ trong trƣờng hợp của Dự án nàng tiên cá Rusalka
[33, tr.192].
Nguyễn Đức Chi đã khiến cho nhiều công ty tại Việt Nam chi nhiều
triệu USD cho ông ta "vẽ " nhiều dự án rồi „„ẵm‟‟ 165 tỷ đồng. Cho đến nay
mọi ngƣời mới ngã ngũ rằng ông chủ dự án Rusalka chẳng có một xu để thực
hiện dự án mang tầm vóc quốc tế ấy. Thực chất, đây chỉ là „„bệ‟‟ để Chi đi
lừa đảo khắp nơi. Dự án này là của Công ty Đầu tƣ và phát triển du lịch Rus-
invest- Tur. Công ty Rus-invest –Tur có 100% vốn nƣớc ngoài, với vốn đầu
tƣ là 15.000.000 USD, vốn pháp định là 4.500.000 USD, do 3 nhà đầu tƣ Nga
góp vốn là: Công ty cổ phần Elaitrox, công ty TNHH Luzhniky DHL, công ty
TNHH DHL Cargo. Các công ty này uỷ quyền cho Chi làm chủ tịch Hội đồng
quản trị và điều hành toàn bộ dự án ở Việt Nam. Cả 3 công ty này có tiền hay
không thì chƣa rõ, nhƣng trên thực tế chƣa chuyển một đồng nào vào Việt
Nam, ngƣời ta mới chỉ nhìn thấy mỗi công ty có một tờ giấy góp vốn, nghĩa