Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHU DIỆU HUYỀN

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐƯỢC CUNG CẤP
THÔNG TIN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH

HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của tổ bộ môn Khoa pháp luật Kinh tế, Trường Đại
học Luật Hà Nội và sự đồng ý của cô giáo hướng dẫnPGS.TS. Nguyễn Thị Vân
Anh, giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội, em đã thực hiện nghiên cứu đề tài
“Pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của NTD ở Việt Nam_Thực trạng
và giải pháp”
Để thực hiện đề tài này, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận
tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện
trong suốt thời gian hai năm vừa qua.Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo
hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thị Vân Anh - Giảng viên Trường Đại học Luật
Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo
trong tổ bộ môn Luật Kinh tế nói riêng và các thầy cô giáo của trường Đại học
Luật Hà nội cũng như các anh chị trong thư viện đã giúp đỡ em trong quá trình


thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài song do buổi đầu mới làm
quen với công tác nghiên cứu khoa học, tiếp cận với thực tiễn thực thi pháp luật
cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên em không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Em rất mong được sự góp ý của quý thầy, cô giáo để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin kính chúc quý thầy cô trong tổ bộ môn pháp luật kinh tế cũng như
các thầy cô giáo đang công tác và giảng dạy trong trường Đại học Luật luôn dồi
dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, ngày 15 tháng 5 năm 2015
Học viên

Chu Diệu Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

CHU DIỆU HUYỀN


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


NTD

Người tiêu dùng

Cục QLCT

Cục Quản lý cạnh tranh

VINASTAS

Hội tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam

Hội

Hội bảo vệ Ngườitiêudùng

Thươngnhân

Tổchức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịchvụ

LHQ

Liên Hợp Quốc

CI

Tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thế giới

VSTP


Vệ sinh thực phẩm

UB KHCNMT

Ủy ban khoa học công nghệ môi trường

TCVN

Tiêu chuẩnViệt Nam

BLHS

Bộ Luật Hình Sự

BLDS

Bộ Luật Dân sự

UBND

Ủy ban nhândân


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
1.


Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5.

Phương pháp nghiên cứu

Chương 1. TỔNG QUAN

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐƯỢC CUNG

CẤPTHÔNG TIN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG .............................................. 1
1.1. Khái quát về thông tin và quyền được cung cấp thông tin của
NTD……………………………………………………………………………..1
1.1.1. Khái niệm về người tiêu dùng và các quyền của người tiêu dùng ............ 1
1.1.2. Khái niệm thông tin và vai trò của thông tin trong quan hệ tiêu dùng
trong nền kinh tế thị trường ................................................................................ 4
1.2. Khái quát pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của NTD ......... 8
1.2.1. Sự cần thiết phải quy định quyền được cung cấp thông tin của người tiêu

dùng trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng...................................... 8
1.2.2. Khái quát về quá trình phát triển các quy định về quyền được cung cấp
thông tin của NTD ở Việt Nam ........................................................................... 8
1.2.3. Kinh nghiệm pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của một số
nước trên thế giới ........................................................................................... 13


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN ĐƯỢC
CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA NTD........................................................... 17
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền được
cung cấp thông tin của người tiêu dùng ........................................................ 17
2.1.1. Quy định quyền cơ bản của người tiêu dùng trong việc được biết các
thông tin liên quan đến hàng hoá dịch vụ mà tổ chức, cá nhân cung cấp ......... 17
2.1.2. Quy định trách nhiệm của tổ chức cá nhân kinh doanh trong việc cung
cấp thông tin về hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng ................................... 17
thế của hàng hóa. ............................................................................................. 26
2.1.3. Quy định trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về
hàng hóa, dịch vụ cho NTD .............................................................................. 30
2.1.4. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của
NTD………………….. ....................................................................................... 32
2.2. Thực trạng thực thi pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của
người tiêu dùng............................................................................................... 42
2.2.1. Những kết quả đạt được về quyền được cung cấp thông tin của người tiêu
dùng…………………………………………………………………………………….42
2.2.2.Những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện quyền được cung cấp thông tin
của người tiêu dùng......................................................................................... 51
Chương 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐƯỢC CUNG CẤP
THÔNG TIN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG .................................................... 63
3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền được cung

cấp thông tin của NTD ..................................... 63Error! Bookmark not defined.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật quyền được cung cấp
thông tin của NTD…………………………………………………………. 69
KẾT LUẬN ................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong xã hội ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, người tiêu dùng (NTD) đã và đang trở thành một lực lượng vô cùng
đông đảo và là động lực phát triển của nền kinh tế của một quốc gia.Mối quan
hệ giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là một loại quan
hệ dân sự phổ biến và có ảnh hưởng vô cùng to lớn tới sự phát triển của nền
kinh tế. Các hoạt động khi tham gia mua bán, trao đổi, sử dụng hàng hóa dịch vụ
của NTD trên thị trường sẽ kích thích sự lưu thông, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ,
thúc đẩy các hoạt động kinh doanh của thương nhân và tạo ra nguồn thu lớn cho
ngân sách nhà nước. Đồng thời NTD cũng là lực lượng quyết định xem doanh
nghiệp hay loại hàng hóa, dịch vụ kinh doanh nào đó có thể tồn tại được trên thị
trường hay không, từ đó chọn lọc những hàng hóa, dịch vụ đáp ứng tốt và phù
hợp với thu nhập của người dân, loại bỏ những hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm
không phù hợp và những tổ chức cá nhân kinh doanh sai trái. Do đó một quốc
gia muốn có nền kinh tế phát triển một cách bền vững không những phải đảm
bảo lợi ích cho các doanh nghiệp, các thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
mà còn phải đảm bảo cân bằng lợi ích cho NTD.
Để đảm bảo hành lang pháp lý và tạo ra một môi trường kinh doanh lành
mạnh, pháp luật về vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD đang được nhà nước ta hết sức
quan tâm.Luật Bảo vệ quyền lợi NTD số 59/2010/QH12 đã được Quốc hội khóa
XII, kỳ họp thứ 8, thông qua ngày 17 tháng 11 năm 2010 và chính thức có hiệu
lực vào ngày 1 tháng 7 năm 2011.

Thực tế hiện nay,NTD thường bị hạn chế về thông tin,về kiến thức chuyên
môn đặc biệt là các kiến thức liên quan đến đặc tính kỹ thuật, tính năng sử dụng,
nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm cũng như hạn chế về khả năng đàm phán hợp
đồng và khả năng chịu rủi ro khi mua sản phẩm. Vấn nạn hàng giả, hàng nhái,
hàng kém chất lượng cùng với các chiêu thức quảng cáo, khuyến mãi và cạnh
tranh giá cả đang ngày càng diễn ra phổ biến. Sự phát triển của các sản phẩm
công nghệ kỹ thuật và sự xuất hiện của các phương thức kinh doanh mới như
bán hàng online, bán hàng qua điện thoại, các giao dịch thương mại điện tử
khiến nảy sinh nhiều vấn đề gây ảnh hưởng tới quyền lợi của NTD. Vì vậy, các
quốc gia trên thế giới cũng như tổ chức CI (tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD thế
giới) đã có quy định cụ thể về tám quyền cơ bản của NTD, trong đó Quyền được


cung cấp thông tin của NTDlà một trong những quyền được ưu tiên hàng đầu
trong việc thực thi có hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi NTD.
Ngày 13 tháng 3 năm 2015 vừa qua, tổng kết hơn 3 năm thực hiện Luật
bảo vệ quyền lợi NTD và để hưởng ứng ngày bảo vệ quyền lợi NTD của thế giới
15/5 hàng năm, Dự án hỗ trợ chính sách thương mại và đầu tư của Châu Âu
(EU-MUTRAP) phối hợp với Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công Thương) đã tổ
chức hội thảo “Quyền được thông tin của người tiêu dùng – Thực trạng và giải
pháp”. Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài nghiên cứu “Quyền được
cung cấp thông tin của NTD”, em đã lựa chọn nghiên cứu “Pháp luật về Quyền
được cung cấp thông tin của NTD ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải
pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền được cung cấp thông tin của NTD”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD là một vấn đề mới của pháp luật Việt
Nam, đặc biệt là đối với quyền được cung cấp thông tin của NTD là nội dung
chưa được quan tâm và nghiên cứu sâu sắc.Qua quá trình tìm hiểu về tình hình
nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của NTD_thực
trạng và giải pháp” em nhận thấy chưa có một luận văn thạc sĩ nào nghiên cứu

một cách hệ thống và đầy đủ về vấn đề này. Tuy nhiên, hiện nay có một số công
trình nghiên cứu có liên quan đến các quyền của NTD viết về các vấn đề như:
- Thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD của hệ thống các cơ quan nhà
nước tại Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học của học viên Nguyễn Hoàng Mỹ
Linh, do TS. Phan Chí Hiếu hướng dẫn năm 2014;
- Trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt
Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ luật học của học viên Nguyễn Thị Thu Hiền, do
TS. Bùi Ngọc Cường hướng dẫn năm 2011;
- Chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi vi phạm
pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học của học
viên Đặng Đình Ngọc, do TS. Nguyễn Thị Vân Anh hướng dẫn năm 2013;
- Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD, luận văn thạc sĩ
luật học của học viên Đào Tuyết Vân, do TS. Nguyễn Viết Tý hướng dẫn năm
2007;
- Vai trò của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi NTD Vĩnh Phúc trong việc
bảo vệ NTD, luận văn thạc sĩ luật học của học viên Nguyễn Thị Tâm, do TS.
Nguyễn Thị Vân Anh hướng dẫn năm 2013.
Có thể thấy, một số nội dung của quyền được cung cấp thông tin đã được
các công trình nghiên cứu trên nhắc tới, tuy nhiên, những nội dung đó chưa


thực sự cụ thể và được nghiên cứu môt cách có hệ thống về quyền được cung
cấp thông tin của NTD. Vì vậy, có thể thấy đề tài về Quyền được cung cấp
thông tin của NTD là một đề tài có tính mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật hiện hành về
quyền được cung cấp thông tin của NTD ở Việt Nam và thực trạng thực thi pháp
luật về quyền được cung cấp thông tin của NTD ở Việt Nam từ đó đưa ra những
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi quyền được cung
cấp thông tin của NTD trên thực tế.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong giới hạn một đề tài luận văn thạc sĩ luật học, đề tài không có tham
vọng nghiên cứu tất cả các khía cạnh chính trị, kinh tế ảnh hưởng đến quyền
được cung cấp thông tin của NTD mà chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng pháp
luật Việt Nam về quyền được cung cấp thông tin của NTD và việc thực thi pháp
luật về quyền được cung cấp thông tin của NTD trên trong thực tiễn. Ngoài ra,
tìm hiểu thêm một số quy định của một số quốc gia trên thế giới về quyền được
cung cấp thông tin của NTD
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận xác định quyền được
cung cấp thông tin của NTD; nghiên cứu nội dung pháp luật về quyền được
cung cấp thông tin của NTD ở Việt Nam; nghiên cứu thực tiễn thực thi pháp luật
về quyền được cung cấp thông tin ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật liên
quan đến thông tin của NTD. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu kinh nghiệm của
nước ngoài trong việc thừa nhận và bảo đảm thực hiện quyền liên quan đến
thông tin của NTD để từ đó tham khảo và áp dụng, tiếp thu những điểm tốt cho
pháp luật Việt Nam.Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở xác định quyền
được cung cấp thông tin của NTD;
- Nghiên cứu nội dung pháp luật về các quyền liên quan đến thông tin
của NTD ở Việt Nam;
- Nghiên cứu thực tiễn thực thi pháp luật về quyền được cung cấp thông
tin ở Việt Nam hiện nay;


- Nghiên cứu thêm một số quy định pháp luật của một số quốc gia trên
thế giới trong việc ghi nhận quyền được cung cấp thông tin của NTD để tham
khảo.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu, trong khi
thực hiện đề tài, em đã sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu khoa học
sau đây:
- Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu. Trong quá trình nghiên cứu
đề tài, em áp dụng các phương cụ thể bao gồm: phương pháp tổng hợp, phương
pháp này chủ yếu được sử dụng để khái quát các quy định của pháp luật về
quyền được cung cấp thông tin của NTD; Phương pháp so sánh được áp dụng
trong quá trình tìm hiểu các quy định của các văn bản pháp luật khác nhau như
Luật BVQLNTD, Luật Quảng cáo, Luật Thương mại, Bộ luật dân sự… và so
sánh giữa các quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới; Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình lập bảng
biểu, số liệu thống kê của Cục QLCT đối với các khiếu nại của NTD; phương
pháp tra cứu mạng internet nhằm tìm kiếm các thông tin liên quan, các bài báo,
sự việc được đăng tải trên mạng internet
6. Những đóng góp mới của luận văn
Việc nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề quyền được cung cấp thông
tin của NTD theo pháp luật Việt Nam mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Về phương diện lý luận, luận văn đã đánh giá một cách chi tiết và có hệ
thống các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh quyền được cung cấp
thông tin của NTD.Có liên hệ so sánh giữa các quy định của Luật BVQLNTD
năm 2010 với Pháp lệnh bảo vệ QLNTD năm 1999. Bên cạnh đó, Luận văn
cũng nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan như Luật Quảng cáo
2012, Luật Thương mại 2005, Luật Giá 2012, các văn bản hướng dẫn với Luật
bảo vệ QLNTD 2010, Luật Giá 2012, Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán
hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi NTD…
Về phương diện thực tiễn, luận văn đã nghiên cứu thực tiễn thi hành các

quy định của pháp luật Việt Nam về quyền được cung cấp thông tin của NTD và
đưa các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền
được cung cấp thông tin của NTD nói riêng và bảo vệ quyền lợi NTD nói chung.


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luậnvà Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1:Tổng quan pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của
NTD;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền được cung cấp
thông tin của NTD;
- Chương 3:Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của NTD.


Chương 1
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐƯỢC CUNG CẤP
THÔNG TIN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái quát về thông tin và quyền được cung cấp thông tin của
người tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm về người tiêu dùng và các quyền của người tiêu dùng
1.1.1.1. Khái niệm về người tiêu dùng
Dưới giác độ kinh tế,NTD là mọi chủ thể (cá nhân, tổ chức) tiêu thụ hàng
hóa cho mục đích tiêu dùng không phải cho mục đích kinh doanh kiếm
lời.Người tiêu dùng là một khái niệm chỉ những chủ thể tiêu thụ của cải được
tạo ra bởi nền kinh tế.Người tiêu dùng là người mua nhưng khác với việc mua
nguyên liệu hoặc mua hàng để bán lại, họ là những người sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cuối cùng và làm chúng tiêu hao hoặc biến mất qua việc sử dụng
đó.Dưới giác độ này, khái niệm NTD khác xa so với khái niệm người mua hàng

là bất cứ ai mua hàng hóa, dịch vụ nhằm bất cứ mục đích gì.
Dưới giác độ pháp lý, khái niệm NTD chỉ xuất hiện với tư cách là chủ thể
pháp luật từ khi lĩnh vực pháp luật về bảo vệ NTD ra đời. Việc xác định chủ thể
nào là NTD rất quan trọng vì đó là đối tượng được bảo vệ theo pháp luật bảo vệ
NTD.1[15, tr 8]
Theo pháp luật bảo vệ NTD, NTD được hưởng sự ưu tiên hơn so với chủ
thể luật dân sự khác trong các giao dịch với thương nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ. Sở dĩ, NTD được ưu tiên hơn so với thương nhân trong quan hệ tiêu
dùng bởi họ có nhiều yếu thế hơn như thiếu thông tin về hàng hóa, dịch vụ, yếu
về khả năng đàm phán khi giao kết hợp đồng, yếu về khả năng chịu rủi ro phát
sinh trong quá trình tiêu dùng. Bởi vậy, dưới giác độ pháp lý việc xác định chủ
thể nào là NTD và là đối tượng được bảo vệ của pháp luật bảo vệ NTD có vai
trò vô cùng quan trọng.
Luật pháp của đa số các nước trên thế giới quy định, NTD chỉ là các cá
nhân và không coi tổ chức là NTD. Các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ mà
tổ chức tham gia mặc dù đối tượng của giao dịch là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng

1

Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi NTD, Trường Đại học Luật Hà Nội, Chủ biên: Nguyễn Thị Vân Anh,
Nguyễn Văn Cương…, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2012, Trang 8.

1


sẽ được bảo vệ theo pháp luật hợp đồng chứ không được bảo vệ theo pháp luật
bảo vệ NTD. 2 [15, tr.11]
Trong hệ thống pháp luật Hoa kỳ, tuy các đạo luật cụ thể không quy định
khái niệm NTD nhưng theo các chuyên gia pháp luật Hoa kỳ thì: “NTD là cá
nhân tham gia giao dịch với mục đích chủ yếu vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh

hoạt gia đình”3 [32, page 2]. Còn Chỉ thị số 1999/44/EC của EU về việc mua
bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm liên quan quy định: “NTD là bất cứ tự
nhiên (tức cá nhân) tham gia vào các hợp đồng trong chỉ thị này vì mục đích
không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình”. Thêm
vào đó, Điều 2 Luật Hợp đồng tiêu dùng của Nhật Bản năm 2000 giải thích:
“NTD là cá nhân không bao gồm trường hợp cá nhân trở thành một bên của
hợp đồng như một thương nhân hoặc vì mục đích thương mại”.
Ở Việt Nam, khái niệm NTD được thừa nhận trong Pháp lệnh bảo vệ
quyền lợi NTD năm 1999 và tiếp tục ghi nhận trong Luật Bảo vệ quyền lợi NTD
năm 2010. Hai văn bản pháp luật này đều quy định: “NTD là người mua, sử
dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình,
tổ chức”.
Có thể thấy, so với pháp luật của nhiều nước trên thế giới, đối tượng là
NTD được bảo vệ theo pháp luật bảo vệ NTD của Việt Nam có sự mở rộng hơn.
Ngoài đối tượng là các cá nhân được pháp luật bảo vệ như thông lệ quốc tế,
pháp luật Việt Nam còn coi các tổ chức cũng là NTD khi tổ chức đó mua, sử
dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng. Trong thực tế, nhiều
giao dịch thực hiện khi thương nhân mua hàng hóa của thương nhân khác không
phải để trực tiếp phục vụ kinh doanh mà để thưởng cho nhân viên hay để phục
vụ nhu cầu ăn uống, giải trí, nghỉ ngơi của nhân viên, theo tinh thần của Luật
bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010, trong những trường hợp đó, thương nhân cũng
được coi là NTD. Ví dụ, Công Ty xây dựng 1 mua 2000 chai nước tinh khiết và
1000 gói bánh trung thu để tổ chức lễ trung thu cho con của các công nhân xây
dựng trong công ty. Trong trường hợp này, theo Luật bảo vệ quyền lợi NTD tổ
chức này được bảo vệ với tư cách NTD.
Ở Việt Nam hiện nay, việc xác định tổ chức hay thương nhân có được coi
là NTD hay không là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau.Một số ý kiến cho rằng
khi thương nhân mua hàng hóa không nhằm mục đích bán lại hoặc kinh doanh
thì vẫn được coi là NTD. Tuy nhiên, một số ý kiến khác cho rằng trong mọi
2


Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi NTD, Trường Đại học Luật Hà Nội, Chủ biên: Nguyễn Thị Vân Anh,
Nguyễn Văn Cương…, nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2012, Trang 11.
3
Theo Everyday Law for Consumers, Paradign Publishers, 2007, page 2, Michael L.Rustad.

2


trường hợp thương nhân mua hàng hóa, dịch vụ đều là những hành vi thương
mại phụ thuộc, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của thương nhân nên đều phải
được điều chỉnh theo pháp luật hợp đồng thương mại chứ không được bảo vệ
theo pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD4 [15, tr. 14].
1.1.1.2. Các quyền của người tiêu dùng
Trên thế giới, vấn đề bảo vệ NTD bắt đầu được quan tâm sau chiến tranh
thế giới thứ hai. Khi đó xuất hiện ý tưởng cần thiết phải bảo vệ NTD chống lại
các hành vi lừa dối, gây nhầm lẫn, lạm dụng NTD đảm bảo sự an toàn cho người
NTD khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Điều này được chứng minh bằng sự ra đời
và phát triển của Tổ chức Quốc tế NTD (CI). Năm 1960, tiền thân của CI là Liên
hiệp các tổ chức Quốc tế NTD (IOCU – International Union of consumers
association) được thành lập với 5 thành viên ở 123 nước và vùng lãnh thổ. Ngay
từ những ngày đầu thành lập CI đã đưa vào trong hoạt động tuyên truyền, vận
động chính sách của mình về việc đấu tranh bảo vệ 8 quyền cơ bản của NTD.
Các quyền của NTD là phạm trù pháp lý xuất phát từ các quyền con người. Đây
là vấn đề quan trọng nhất của pháp luật bảo vệ NTD vì việc xác định các quyền
của NTD là cơ sở pháp lý cốt lõi để định hướng cho quá trình xây dựng các văn
bản pháp luật, các đạo luật chuyên ngành, các chính sách liên quan đến NTD
nhằm bảo đảm cho các quyền của NTD được thực hiện trên thực tế. Đồng thời
việc xác định các quyền của NTD có ảnh hưởng trực tiếp đến các quy định về
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với NTD cũng như trách nhiệm

của các thiết chế bảo vệ NTD. Sau đó, với sự nỗ lực của CI, năm 1985, Liên
hiệp quốc ban hành “Bản hướng dẫn về bảo vệ NTD” kèm theo nghị quyết của
Đại hội đồng Liên hiệp quốc số A/RES/39/248 ngày 16/4/1985 trong đó đã ghi
nhận 8 quyền của NTD.
Điều 8 của Luật bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 đã quy định tương đối
rõ ràng các quyền cơ bản của NTD căn cứ vào hướng dẫn của liên hiệp quốc.
Theo đó, NTD có các 8 quyền cơ bản sau:
Một là, được an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
Hai là, được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc,

4

Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi NTD, Trường Đại học Luật Hà Nội, Chủ biên: Nguyễn Thị Vân Anh,
Nguyễn Văn Cương…, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2012, Trang 14.

3


xuất xứ hàng hóa, được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao
dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà NTD đã mua, sử dụng.
Ba là, lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc
không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Bốn là, góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo
nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham gia
giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân

kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ,
phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa NTD và tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Năm là, tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ
quyền lợi NTD.
Sáu là, yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá
cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã
công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
Bảy là, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện
để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.
Tám là, được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ.
Như vậy có thể thấy, Luật bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 của Việt Nam
đã ghi nhận khá đầy đủ các quyền của NTD theo bản hướng dẫn bảo vệ NTD
của Liên hiệp quốc. Đây là những quy định vô cùng quan trọng, là cơ sở pháp lý
vững chắc để các thương nhân, những người cung cấp dịch vụ, hàng hóa cụ thể
được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia và các hoạt động kinh tế và
trong mối quan hệ đối với NTD.
1.1.2. Khái niệm thông tin và vai trò của thông tin trong quan hệ tiêu
dùng trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1. Khái niệm thông tin

4


1.1.2.2. Theo triết học phương Tây, “Thông tin theo được hiểu là thông
báo những tin tức, cung cấp kiến thức về một khía cạnh, lĩnh vực nào đó, nhằm

đưa ra những hiểu biết nhất định cho người được cung cấp”.5 [26]
Trong quan hệ tiêu dung, thương nhân là chủ thể cung cấp những tin tức
cho NTD, để NTD nắm bắt và có những hiểu biết về hàng hóa, dịch vụ mà mình
có nhu cầu từ đó đưa ra quyết định thực hiện giao dịch với Thương nhân. Những
tin tức mà thương nhân cung cấp cho NTD bao gồm: những thông tin về tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; những thông tin về nội dung giao
dịch hàng hóa, dịch vụ (ví dụ giá cả, thời điểm giao hàng, địa điểm giao hàng, số
lượng hàng, chất lượng hàng theo tiêu chuẩn…); những thông tin về nguồn gốc,
xuất xứ của hàng hóa (hàng nhập khẩu hay hàng sản xuất trong nước…); những
hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch chính là những hình thức
cung cấp thông tin cho NTD và những thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch
vụ mà NTD đã mua, sử dụng (ví dụ thông tin về bảo hành sản phẩm, thông tin
về đổi trả sản phẩm trong thời gian bao lâu nếu sản phẩm có lỗi, thông tin về
việc bảo dưỡng sản phẩm…).
Đây là cách hiểu chung nhất về khái niệm thông tin mà người tiêu dùng
được pháp luật quy định cho quyền được cung cấp thông tin để đảm bảo quyền
lợi và lợi ích hợp pháp của mình.
1.1.2.3. Vai trò của thông tin trong quan hệ tiêu dùng trong nền kinh tế
thị trường
* Thông tin là yếu tố quyết định trong các giao dịch mua bán, trao đổi
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
Trong các phân tích về kinh tế thị trường và quan hệ thị trường truyền
thống (trước những năm 1970) người ta thường chỉ chú ý tới định nghĩa thị
trường là sự tương tác giữa người mua với người bán để xác định hàng hóa, dịch
vụ cần mua bán (đối tượng của giao dịch) và giá cả của hàng hóa, dịch vụ đó.
Khía cạnh thông tin trong tương tác thị trường ít được nhắc đến. Tuy nhiên,
trong vài thập niên trở lại đây, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng thông tin
và truyền thông, các nhà kinh tế ngày càng ý thức rõ hơn tầm quan trọng của
thông tin đối với sự vận hành của thị trường, của tương tác cung cầu.
Thực chất tương tác cung cầu trong nền kinh tế thị trường chính là chuỗi

các quyết định của nhà sản xuất, phân phối và của NTD thông qua các hành vi
chọn lựa loại hàng hóa, dịch vụ để sản xuất, cung ứng, hành vi định giá hàng
5

Theo />
5


hóa, dịch vụ, hành vi tiếp thị, khuyến mại… Có thể nói, mọi tương tác (giao
dịch mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường) đều liên quan tới
thông tin và đều dựa trên nền tảng thông tin mà các chủ thể tham gia tương tác
(doanh nghiệp, NTD…) có được. Ví dụ, Tập đoàn Viễn Thông Quân Đội Viettel
thường xuyên nhắn tin tới thuê bao của các khách hàng đang sử dụng mạng
Viettel các chương trình khuyến mại tặng 50% giá trị của thẻ nạp. Chương trình
khuyến mãi của Viettel chính là hoạt động cung cấp, trao đổi, đưa thông tin từ
thương nhân kinh doanh dịch vụ viễn thông Viettel tới NTD-những người nhận
được thông báo khuyến mãi của viettel để nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng
mạng di động, thúc đẩy NTD sử dụng tiêu dùng sản phẩm của Viettel nhằm thu
lợi nhuận.
Thêm vào đó, bản thân các tương tác này đều là quá trình trao đổi thông
tin. Thiếu quá trình trao đổi thông tin, bên bán và bên mua không thể biết tới
nhau và không thể thực hiện được quá trình mua bán, trao đổi. Bản thân hợp
đồng giữa các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cũng là một tập hợp
thông tin về các bên tham gia quan hệ, về đối tượng mua bán, giá cả và các
quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ.
* Thông tin là nền tảng để NTD tiến tới quyết định mua bán, sử dụng
hàng hóa, dịch vụ của thương nhân
Theo lý luận về marketing hiện đại, có thể phân tích hành vi lựa chọn mua
hàng hóa, sử dụng dịch vụ của thương nhân này mà không phải của thương nhân
khác chủ yếu dựa trên nền tảng những thông tin liên quan tới hàng hóa, dịch vụ

của của tổ chức cá nhân kinh doanh cung cấp cho NTD và dựa trên những hiểu
biết, khả năng thu thập những thông tin liên quan từ nhiều nguồn khác nhau như
sách báo, phương tiện truyền thông của NTD.
Một ví dụ rất cụ thể và thực tế dưới đây về quyết định mua hàng hóa hoàn
toàn dựa trên những thông tin mà Bà Hoàng Thị Hiên, cán bộ hưu trí phường
Niệm Nghĩa có được từ những người bạn cùng sinh hoạt trong tổ hưu và trên
website quảng cáo cho rằng chiếc vòng titan có tác dụng chữa bách bệnh, nâng
cao sức khỏe.
Theo bà Hiền nói lại lời các bạn trong tổ hưu rằng, chiếc vòng titan với
đặc tính tự đẩy lùi các sóng điện từ có hại, tia phóng xạ do titan phát ra làm tăng
nhiệt lượng cơ thể, ấm các tế bào, loại bỏ nhanh những tác nhân gây mệt mỏi,
đau nhức, nâng cao chất lượng của giấc ngủ. Nếu đeo vòng titan trong thời gian
dài sẽ thấy rõ hơn sự chuyển biến về mặt sức khỏe, nhất là những người mắc các
chứng bệnh như máu lưu thông kém, huyết áp, tim mạch, khớp...
6


Cập nhật một số trang web rao vặt cũng có vô vàn thông tin về tác dụng
của vòng titan. Theo lời quảng cáo trên những trang này, các nhà khoa học trên
thế giới cho biết, một số thiết bị điện tử như TV, máy vi tính, ĐTDĐ... đều
phóng ra những sóng điện từ có hại cho cơ thể người, gây mệt mỏi, mất cân
bằng và chính là nguyên nhân của những bệnh phổ biến trong xã hội ngày nay
như: stress, tim mạch, xương khớp, lão hóa sớm...Qua thời gian dài nghiên cứu,
các nhà khoa học đã cho ra đời dòng sản phẩm vòng tay, dây chuyền titan có tác
dụng hỗ trợ về sức khỏe cho người sử dụng, với những công năng rất đặc biệt.
khi mang các sản phẩm titan vào người, dòng điện từ trong titan thông qua các
bước sóng dài của tia phóng xạ hồng ngoại để đi vào cơ thể điều tiết dòng điện
âm dương, kích thích quá trình tuần hoàn máu, làm thoải mái các dây thần kinh,
nâng cao khả năng vận động đối với những người chơi thể thao, sử dụng cơ bắp
nhiều...

Trên một số phương tiện thông tin khác thì quảng cáo, chiếc “vòng hộ
mệnh titan” đã được các minh tinh màn bạc hollywood, quý tộc Anh, người mẫu
Pháp tin dùng bởi có nhiều tác dụng như: năng lượng từ thiên nhiên loại bỏ đau
nhức, hạ huyết áp, có chất lọc máu, có khả năng dưỡng sinh,sảng khoái đầu óc,
kháng bức xạ, giải độc rượu thuốc, điện thoại...giúp ngủ ngon, rũ bỏ mệt mỏi.
Không những thế khi đeo sản phẩm này, càng đeo càng thoải mái và ngày càng
trẻ trung...”6
Như vậy, có thể thấy thông tin ảnh hưởng vô cùng lớn tới quyết định mua
sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ của NTD. NTD dựa trên những thông tin mà họ
được cung cấp từ nhà sản xuất, từ thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, từ
các phương tiện truyền thông như đài truyền hình, mạng internet, sách báo, điện
tử. Thông tin lúc này là yếu tố quyết định NTD trở thành NTD thông thái và sự
thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch sẽ khiến cho quyền lợi của NTD bị xâm
hại. Thông tin trở thành yếu tố đầu vào của quá trình ra quyết định mua sắm, sử
dụng hàng hóa của NTD. Vì vậy, để đảm bảo quyền được thông tin của NTD
một cách có hiệu quả thì việc quản lý các nguồn thông tin từ những nhà cung
cấp thông tin trên là vô cùng quan trọng và cấp thiết.Theo các nhà kinh tế học,
qua nghiên cứu, thông thường một quyết định mua sắm của NTD hiện nay
thường trải qua 6 bước:
Bước 1: Nhận diện cơ hội mua sắm;
6

/>d=3361&article_id=30189&fuseaction=DISPLAY_SINGLE_ARTICLE&hide_menu=0

7


Bước 2: Tìm kiếm hàng hóa, dịch vụ, đối tác để phục vụ việc mua sắm;
Bước 3: Đánh giá các phương án lựa chọn khác nhau;
Bước 4: Quyết định việc mua sắm;

Bước 5: Thực hiện hành vi mua sắm;
Bước 6: Đánh giá, nhìn nhận lại việc mua sắm của mình để rút kinh
nghiệm.
Khi cân nhắc quyết định mua sắm hàng hóa, dịch vụ, NTD thường cân
nhắc các chi phí cũng như lợi ích của việc mua sắm này. Đó là các loại chi phí,
lợi ích về: sản phẩm, về hình ảnh, thẩm mỹ, về các loại dịch vụ đi kèm; lợi ích về
con người; chi phí tiền bạc, chi phí thời gian, chi phí năng lượng, chi phí về tâm
lý (sự thuận tiện, thoải mái khi sử dụng, tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ).
Trong thực tế, cung cấp thông tin cho NTD là một nhu cầu mang tính chất
tự thân của các doanh nghiệp khi tham gia thị trường. Chính vì vậy, pháp luật
các nước thường quy định thông tin cho NTD và quảng cáo sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ là quyền của các doanh nghiệp khi tham gia cung ứng hàng hóa, dịch vụ
cho thị trường. Việc các nhà sản xuất, các thương nhân muốn kinh doanh và tiêu
thụ được hàng hóa, dịch vụ của mình, muốn cạnh tranh được với các thương
nhân khác cung cấp những sản phẩm, dịch vụ cùng loại chắc chắn sẽ phải cung
cấp thông tin về loại hàng hóa, dịch vụ mà ḿnh kinh doanh tới cho NTD một
cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Việc cung cấp thông tin về các sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ sẽ thúc đẩy nhu cầu mua sắm, sử dụng dịch vụ của NTD trong
xã hội. Quyết định tới sự lưu thông hàng hóa trên thị trường. Có thể nói những
yếu tố kể trên sẽ trở nên không còn nhiều ý nghĩa khi NTD thiếu các thông tin
thiết yếu.
1.2. Khái quát pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của NTD
1.2.1. Sự cần thiết phải quy định quyền được cung cấp thông tin của
người tiêu dùng trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Trong thời đại kinh tế thị trường, mặc dù các thương nhân đều hô khẩu
hiệu “Khách hàng là thượng đế”, thương nhân “luôn cung cấp những mặt hàng
có chất lượng tốt nhất với giá cả hợp lý nhất” cho NTD, tuy nhiên, điều đó
không phải lúc nào cũng xảy ra mà thường chỉ tồn tại trong một thị trường cạnh
tranh hoàn hảo, trong đó tất cả sự cạnh tranh đều là cạnh tranh lành mạnh.
Trong thực tế, cung cấp thông tin cho NTD là một nhu cầu mang tính chất

tự thân của các doanh nghiệp khi tham gia thị trường. Chính vì vậy, pháp luật
các nước thường quy định thông tin cho NTD và quảng cáo sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ là quyền của các doanh nghiệp khi tham gia cung ứng hàng hóa, dịch vụ
8


cho thị trường. Việc các nhà sản xuất, các thương nhân muốn kinh doanh và tiêu
thụ được hàng hóa, dịch vụ của mình, muốn cạnh tranh được với các thương
nhân khác cung cấp những sản phẩm, dịch vụ cùng loại chắc chắn sẽ phải cung
cấp thông tin về loại hàng hóa, dịch vụ mà ḿnh kinh doanh tới cho NTD một
cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Việc cung cấp thông tin về các sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ sẽ thúc đẩy nhu cầu mua sắm, sử dụng dịch vụ của NTD trong
xã hội. Quyết định tới sự lưu thông hàng hóa trên thị trường. Có thể nói những
yếu tố kể trên sẽ trở nên không còn nhiều ý nghĩa khi NTD thiếu các thông tin
thiết yếu.
Với sự phát triển của xã hội hiện nay, các loại hàng hóa, dịch vụ không
những đa dạng về số lượng, mẫu mã sản phẩm mà còn phong phú về chủng loại
hàng hóa và phong phú cả về số lượng các nhà sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch
vụ. Các mặt hàng đa dạng từ các loại hàng hóa như: thực phẩm tươi, thực phẩm
đóng gói, hoa quả (những loại mặt hàng cần dùng thiết yếu trong sinh hoạt hàng
ngày); tới các sản phẩm đáp ứng những nhu cầu cao hơn như: mỹ phẩm, công
nghệ (điện thoại, ô tô, máy lọc nước, máy giặt, ti vi, tủ lạnh, điều hòa…) và các
dịch vụ như du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, marketing, truyền thông, điện ảnh…
với rất nhiều các nhà cung cấp hàng hóa sản phẩm khác nhau. Vì vậy, để tồn tại
và đạt được mục đích lợi nhuận của mình, không ít tổ chức, cá nhân kinh doanh
chỉ cung cấp những thông tin có lợi cho chính bản thân tổ chức, cá nhân kinh
doanh mà vô tình hay hữu ý “lờ” đi những thông tin đáng lẽ ra bắt buộc phải
cung cấp cho NTD như thông tin về tác dụng phụ, những tác hại có thể xảy ra
khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
Đặc biệt trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như ngày nay, các

sản phẩm dịch vụ công nghệ cao (như ô tô, máy móc, đồ điện tử hay dịch vụ bán
hàng online, dịch vụ viễn thông…) do các thương nhân cung cấp chứa rất nhiều
những thông tin kỹ thuật, những thông tin chuyên môn mà NTD không thể có đủ
kiến thức, trình độ và thời gian để tìm hiểu. Vì vậy, trong mối quan hệ giữa
NTD và thương nhân, NTD vốn đã ở vị trí yếu thế so với thương nhân thì ngày
nay với các sản phẩm dịch vụ mang đặc tính kỹ thuật, công nghệ cao, NTD lại
càng bị yếu thế hơn nữa.
NTD bị hạn chế về thông tin và kiến thức chuyên môn, đặc biệt là những
kiến thức liên quan đến đặc tính kỹ thuật, tính năng sử dụng, nguồn gốc xuất xứ
của sản phẩm. NTD cũng bị hạn chế về khả năng đàm phán hợp đồng (đối với
những dạng hợp đồng theo mẫu, NTD không có quyền đàm phán mà buộc phải
thực hiện theo những điều khoản đã quy định trong hợp đồng…) và khả năng
9


chịu rủi ro khi mua sản phẩm (đối với những sản phẩm hoặc những dịch vụ mà
thương nhân không có bảo hành, nếu sản phẩm hoặc dịch vụ bị hỏng, bị lỗi
trong một thời gian sử dụng nhất định thì không được sửa chữa và đổi trả…).
Nguyên nhân thứ nhất, là do quan hệ giữa thương nhân với NTD không
phải lúc nào cũng là mối quan hệ đồng thuận về lợi ích, vì vậy, sẽ có những lúc
tổ chức, cá nhân kinh doanh không cung cấp đầy đủ mọi thông tin cần thiết cho
NTD. Thứ hai, vì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, có những doanh
nghiệp, những tổ chức cá nhân kinh doanh chỉ cung cấp những thông tin tốt về
sản phẩm mà không cung cấp những thông tin về rủi ro tiềm ẩn khi sử dụng sản
phẩm, thậm chí đôi khi có những tổ chức, cá nhân kinh doanh còn cung cấp
những thông tin sai lệch về sản phẩm làm người tiêu dùng lầm tưởng gây ra
những thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho người sử dụng. Điển hình là
vụ việc sữa hoàn nguyên hay còn chính là sữa bột pha thì lại quảng cáo là sữa
tươi, gây nhầm lẫn cho NTD.
Do vậy, từ góc độ của NTD, khi tham gia thị trường và các giao dịch tiêu

dùng đối với thương nhân, họ thường phải đối mặt với việc: được cung cấp quá
nhiều thông tin tốt (những thông tin có lợi đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân kinh doanh) mà không được cung cấp những thông tin về mặt trái, những
nguy cơ tiềm ẩn khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ do thương nhân cung cấp. Đây
chính là tình trạng “thừa thông tin tốt, thiếu thông tin cần thiết” khi NTD tham
gia trên thị trường.
Như vậy, bản thân một trong những yếu tố làm cho NTD trở nên yếu thế,
dễ bị xâm hại về quyền lợi khi tham gia thị trường chính là yếu tố liên quan đến
thông tin, đó là tình trạng NTD thiếu thông tin, không được cung cấp thông tin
đầy đủ hoặc được cung cấp thông tin nhưng thông tin không cân xứng. Bởi vậy,
có thể nói, bài toán bảo vệ quyền lợi NTD trong nền kinh tế thị trường thường là
bài toán về việc đảm bảo quyền được thông tin một cách đầy đủ, chính xác và
trung thực của NTD.
Thông tin chính là yếu tố thiết yếu giúp NTD trở thành NTD thông thái và
sự thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch cũng khiến cho quyền lợi của NTD bị
xâm hại.
Như vậy, có thể thấy, yếu thế về thông tinvà các loại yếu thế khác mà
NTD thường phải đối mặt khi tham gia thị trường đã làm cho ý nghĩa của
nguyên tắc chủ quyền của NTD trở nên ít ý nghĩa. Nếu không khắc phục những
điểm yếu đó, ý nghĩa của công tác bảo vệ NTD sẽ không đạt được hiệu quả.

10


Chính vì thực tế trên, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD đã sử dụng công
cụ pháp lý,khẳng định NTD có quyền được cung cấp thông tin. Đồng thời, yêu
cầu các thương nhân, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải cung cấp đầy đủ những
thông tin cần thiết đối với NTD, hạn chế tình trạng thừa thông tin tốt, thiếu
thông tin cần thiết của NTD.
1.2.2. Khái quát về quá trình phát triển các quy định về quyền được

cung cấp thông tin của NTD ở Việt Nam
Bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam là lĩnh vực còn tương đối mới mẻ, bắt
đầu từ khi nước ta chính thức chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa vào năm 1986 và chỉ thực sự được quan tâm khi Pháp lệnh bảo
vệ quyền lợi NTD ra đời năm 1999.
* Trước năm 1999
Thời kỳ này, vấn đề bảo vệ NTD chưa có văn bản pháp luật chuyên biệt
điều chỉnh mà thường được quy định trong các văn bản pháp luật thương mại
hoặc dân sự. Quy định về quyền được cung cấp thông tin của NTD thường được
thể hiện dưới dạng quy định về nghĩa vụ của thương nhân trong việc cung cấp
thông tin cho NTD, cụ thể tại Điều 9 Luật Thương mại 1997 quy định về “Bảo
vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng” theo đó, “Thương
nhân có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực về hàng hóa và dịch vụ mà mình
cung ứng”. Ngoài ra, Điều 435 Bộ luật Dân sự năm 1995 đã quy địnhNghĩa vụ
cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng của bên bán như sau: “Bên bán
có nghĩa vụ cung cấp cho bên mua thông tin cần thiết về tài sản mua bán và
hướng dẫn cách sử dụng tài sản đó; nếu bên bán không thực hiện nghĩa vụ này,
thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán phải thực hiện và nếu bên bán vẫn không
thực hiện, thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt
hại”. Có thể thấy, những quy định này chưa đủ đảm bảo cho NTD được cung
cấp thông tin một cách đầy đủ khi giao dịch với thương nhân.
* Từ năm 1999 đến 2010
Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD có hiệu lực từ ngày 01/10/1999 và là văn
bản pháp luật đầu tiên quy định cụ thể các vấn đề về bảo vệ NTD ở Việt Nam, từ
các quy định về quyền, trách nhiệm của NTD đến trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân sản xuất kinh doanh và trách nhiệm của các cơ quan tổ chức trong việc bảo
vệ NTD.
Quyền được cung cấp thông tin của NTD lần đầu tiên được quy định cụ
thể tại một văn bản pháp luật, theo đó NTD “được cung cấp các thông tin trung
thực về chất lượng, giá cả, phương pháp sử dụng hàng hóa, dịch vụ”, quy định

11


này đã phần nào xác định được những thông tin mà thương nhân cần phải cung
cấp cho NTD khi giao kết hợp đồng. Ngoài ra, tại Điều 15 của Pháp lệnh bảo vệ
quyền lợi NTD, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong việc cung
cấp thông tin cho NTD cũng được liệt kê như sau:
“Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thông tin,
quảng cáo chính xác và trung thực về hàng hóa, dịch vụ, niêm yết giá hàng hóa,
dịch vụ; công bố điều kiện, thời hạn, địa điểm bảo hành và hướng dẫn sử dụng
hàng há, dịch vụ của mình cho NTD”
Bên cạnh những quy định trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD năm
1999, quyền được cung cấp thông tin của NTD cũng được đề cập đến trong quy
định của Bộ Luật Dân sự năm 2005 về Nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng
dẫn cách sử dụng (Điều 442) và trong Luật Thương mại năm 2005 về Nguyên
tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD (Điều 14).
* Từ năm 2010 đến nay
Sau khi Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD năm 1999 có hiệu lực, thực
trạng vi phạm quyền lợi của NTD vẫn có chiều hướng tăng lên, đặc biệt trong
vài năm trở lại đây, do đó đòi hỏi pháp luật cần phải có sự bổ sung, sửa đổi để
quyền lợi của NTD có thể được bảo vệ trên thực tế. Chính vì những lý do trên
mà Luật bảo vệ quyền lợi NTD đã được Quốc hội thông qua ngày 17 tháng 11
năm 2010. Lần đầu tiên, tám quyền của NTD đã chính thức được ghi nhận và
quy định tại Điều 8 của Luật, trong đó quyền được cung cấp thông tin của NTD
được quy định tại Khoản 2 : “Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch
vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa…”. Bên cạnh việc quy định NTD có quyền
được cung cấp các thông tin liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà mình mua hoặc
sử dụng, Luật còn xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh
trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho NTD tại Điều 12 bao

gồm các trách nhiệm sau: ghi nhãn hàng hóa, niêm yết giá, cung cấp hướng dẫn
sử dụng…
Ngoài những quy định tại Luật bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010, một số
văn bản pháp luật có liên quan cũng có quy định về quyền được cung cấp thông
tin của NTD như: Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi năm 2010) tại Điều
19 về Trách nhiệm cung cấp thông tin; Luật quảng cáo năm 2012 tại Điều 16 về
Quyền và nghĩa vụ của người tiếp nhận quảng cáo; Luật bưu chính năm 2010 tại
Điều 30 về Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ bưu chính; Luật chất
lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 tại Điều 8 về Những hành vi bị nghiêm
12


cấm (Thông tin, quảng cáo sai sự thật hoặc có hành vi gian dôi về chất lượng sản
phẩm, hàng hóa, về nguồn gốc và xuất xứ hàng hóa) hay tại Điều 10 về Nghĩa
vụ của người sản xuất, Điều 12 về Nghĩa vụ của người nhập khẩu, Điều 16 về
Nghĩa vụ của người bán hàng, đặc biệt là tại Điều 17 quy định về Quyền của
NTD (Được cung cấp thông tin trung thực về mức độ an toàn, chất lượng, hướng
dẫn vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hóa; Được cung cấp
thông tin về việc bảo hành hàng hóa, khả năng gây mất an toàn của hàng hóa và
cách phòng ngừa khi nhận được thông tin cảnh báo từ người sản xuất, người
nhập khẩu…)
1.2.3. Kinh nghiệm pháp luật về quyền được cung cấp thông tin của
một số nước trên thế giới
Kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và trên thế
giới cho thấy, vấn đề về quyền được cung cấp thông tin của NTD đã được các
nhà lập pháp trên thế giới dành nhiều sự quan tâm. Quyền được tiếp cận thông
tin về hàng hóa, dịch vụ của NTD được công nhận và nêu cao như một trong các
quyền cơ bản nhất của NTD. Dưới đây là bảng quy định của một số quốc gia
trên thế giới về quyền được cung cấp, tiếp cận thông tin về hàng hóa, dịch vụ
của NTD:

Quốc gia

Ấn độ

Thái lan

Quyền của NTD được tiếp cận Nghĩa vụ của nhà cung cấp
thông tin về hàng hóa, dịch vụ
hàng hóa, dịch vụ phải cung
cấp thông tin và nghĩa vụ
của bên thứ ba
Luật bảo vệ NTD năm 1986, điều Không đề cập trực tiếp trong
6 thuộc chương II:
Luật bảo vệ NTD
-Ủy ban Trung ương về bảo vệ
NTD sẽ phát huy và bảo vệ các
quyền của NTD, trong đó có
quyền: b) được thông tin về chất
lượng, số lượng, cường lực, độ
trong sạch, tiêu chuẩn và giá cả
của hàng hóa, dịch vụ,…
Điều 4(1), Luật Bảo vệ NTD số Không nêu cụ thể nghĩa vụ
B.E.2522 (1979)
của thương nhân phải cung
“NTD có quyền có được thông tin cấp thông tin về hàng hóa,
và mô tả đầy đủ và chính xác về dịch vụ cho NTD
13


Malaysia


Indonesia

Trung
Quốc

chất lượng hàng hóa, dịch vụ”
Luật Bảo vệ NTD 1999 của
Malaysia không nêu cụ thể quyền
được tiếp cận thông tin của NTD,
cũng không tiếp cận theo hướng
quy định nghĩa vụ cung cấp thông
tin của nhà cung cấp hàng hóa,
dịch vụ mà chọn cách tiếp cận
cấm các hành vi cung cấp thông
tin sai lệch gây nhầm lẫn cho NTD
liên quan đến hàng hóa, dịch vụ.

Luật Bảo vệ NTD số 8 năm 1999,
Điều 3 Chương I (Các điều khoản
chung).
Mục tiêu của công tác bảo vệ NTD
là (d) xây dựng một cơ chế đảm
bảo tính chắc chắn về một pháp lý,
tính minh bạch về thông tin cũng
như đảm bảo quyền tiếp cận thông
tin
Điều 4 Chương I:
Các quyền của NTD bao gồm: (c)
quyền có các thông tin chính xác,

rõ ràng và trung thực về điều kiện
đảm bảo của hàng hóa, dịch vụ.
Luật Bảo vệ Quyền và lợi ích của
NTD số 8 năm 1994, Điều 8
Chương II:
NTD có quyền được biết tình
trạng thực tế của hàng hóa mua
14

Luật Bảo vệ NTD 1999, Điều
9, Phần II về các hành vi lừa
đảo, gây nhầm lẫn và các
hành vi thương mại không
công bằng: cấm các hành vi
gây nhầm lẫn về bản chất,
đặc điểm, tính khả dụng…
của hàng hóa, dịch vụ
Điều 10: cấm các hành vi
biểu đạt gây nhầm lẫn liên
quan đến chất lượng, nguồn
gốc, chủng loại, tiêu chuẩn
hàng hóa.
Điều 12 cấm các hành vi gây
nhầm lẫn cho NTD liên quan
đến giá của hàng hóa
Luật Bảo vệ NTD số 8 năm
1999,
Điều 7 Chương I: Thương
nhân có nghĩa vụ cung cấp
các thông tin chính xác, rõ

ràng và trung thực về điều
kiện và đảm bảo của hàng
hóa, dịch vụ cũng như giải
thích về cách thức sử dụng,
sửa chữa và bảo quản

Luật Bảo vệ Quyền và lợi ích
của NTD số 8 năm 1994,
Điều 19 Chương III:
“Thương nhân có nghĩa vụ
cung cấp thông tin theo đúng


×