Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Quản lý nhà nước đối với loại hình báo in ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN BẰNG VŨ

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI LOẠI HÌNH BÁO IN
Ở NƢỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ HIỀN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn này là
do tôi nghiên cứu, thực hiện. Các số liệu trong
luận văn là trung thực. Việc trích dẫn nguồn tài
liệu được thực hiện chính xác, đầy đủ và được sử
dụng theo đúng các nguyên tắc của nghiên cứu
khoa học.


LỜI CẢM ƠN


Trƣớc hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trƣờng, các thầy
giáo, cô giáo Trƣờng đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy giáo, cô giáo
Khoa Sau đại học, Khoa Hành chính Nhà nƣớc đã trực tiếp giảng dạy, tận tình
truyền đạt kiến thức, tạo điều kiện để thuận lợi cho tôi hoàn thành chƣơng trình
cao học.
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới cô giáo, Tiến sỹ Trần Thị
Hiền đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn thạc sỹ này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cơ quan, gia đình, ngƣời thân,
bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành luận văn thạc sỹ.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI BÁO
IN ....................................................................................................................... 5
1.1. BÁO IN VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA LOẠI HÌNH BÁO IN TRONG XÃ
HỘI VIỆT NAM ............................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm báo in .................................................................................... 5
1.1.2. Quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của báo in ở nƣớc ta ............. 9
1.1.3. Vị trí, vai trò báo in trong đời sống xã hội Việt Nam............................. 15
1.2. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI LOẠI HÌNH BÁO IN VÀ
NHỮNG YẾU TỐ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
LOẠI HÌNH BÁO IN....................................................................................... 17
1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nƣớc đối với loại hình báo in ............................ 17
1.2.2 Những yếu tố đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với loại hình báo
in....................................................................................................................... 21
1.3. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI LOẠI HÌNH BÁO IN....................................................................... 23
1.3.1. Cơ cấu tổ chức đảm bảo phù hợp với chức năng quản lý báo chí ......... 24
1.3.2. Cơ chế hoạt động đáp ứng tính chất của hoạt động quản lí loại hình báo
in....................................................................................................................... 25
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI BÁO IN Ở
NƢỚC TA HIỆN NAY ................................................................................... 28
2.1. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI LOẠI HÌNH BÁO IN
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH - NHỮNG ĐIỂM TÍCH CỰC VÀ HẠN
CHẾ ................................................................................................................. 28
2.2. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI BÁO IN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở NƢỚC TA .....................39
2.2.1. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với báo in ở nƣớc ta ............... 40
2.2.2. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nƣớc đối với báo in trong giai đoạn
hiện nay ........................................................................................................... 45
2.2.2.1. Hoạt động quản lý của cơ quan quản lý nhà nƣớc ở trung ƣơng ........ 45
2.2.2.2. Hoạt động quản lý của cơ quan quản lý nhà nƣớc về báo chí ở địa
phƣơng …………………………………………………………………….... 53
2.2.2.3. Phối hợp thực hiện công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí ................. 55
2.2.2.4. Đối tƣợng chịu sự quản lý nhà nƣớc về báo chí ................................. 56


CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI BÁO IN Ở NƢỚC TA …………………………………………… 58
3.1. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG
LĨNH VỰC BÁO IN........................................................................................ 58
3.1.1. Về tổ chức và hoạt động của các chủ thể tham gia hoạt động quản lý nhà
nƣớc trong lĩnh vực báo In……………………………………………………58
3.1.2. Về hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực báo in ..... 62
3.1.3. Những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác quản lý nhà nƣớc và

bài học kinh nghiệm......................................................................................... 63
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI BÁO IN.................................................................................................... 65
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật …............................ 65
3.2.2. Cải cách về tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý
hành chính nhà nƣớc về báo chí................................................................ ...... 67
3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp
luật
kết
hợp
với
tuyên
truyền,
phổ
biến
pháp
luật.................................................................................................................... 69
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khởi phát từ quan điểm, đƣờng lối chiến lƣợc đúng đắn của Đảng ta, công cuộc
đổi mới ở nƣớc ta đã diễn ra trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội từ đầu những năm
80 của thế kỷ XX. Đến năm 1986 công cuộc này diễn ra một cách toàn diện khi có chủ
trƣơng đổi mới của Đảng tại Đại hội VI. Những thành công có đƣợc ngày hôm nay chính
là kết quả của công cuộc đổi mới đất nƣớc. Trong những năm đổi mới, cùng với những
chuyển biến tích cực của nền kinh tế, nền báo chí cách mạng Việt Nam đã không ngừng

phát triển và đạt đƣợc những thành tựu quan trọng. Báo chí đã bám sát đời sống xã hội,
cung cấp những thông tin đa chiều, sâu sắc; tuyên truyền chủ trƣơng, chính sách của
Đảng và Nhà nƣớc hiệu quả. Vai trò của báo chí ngày càng nâng cao trong đời sống xã
hội, đặc biệt là trong quá trình đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí...
Trƣớc tình hình đó, ngày 17/10/1997, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 22-CT/TW về việc tiếp tục đổi mới và tăng cƣờng
sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Sự thay đổi, phát triển không ngừng của
báo chí nƣớc ta chính là nguyên nhân để Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí ngày 12/6/1999. Qua đó, Nhà nƣớc ta đã
thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến công tác quản lý hoạt động báo chí phù hợp với điều
kiện, tình hình mới của đất nƣớc.
Trong 4 loại hình báo chí theo luật định hiện nay, báo in là loại hình hiện đang ở
trong hoàn cảnh cạnh tranh quyết liệt hơn cả, đặc biệt là cạnh tranh về kinh tế. Chính
điều này đã dẫn đến thực trạng là một số cơ quan báo chí đã lơi lỏng trong công tác tuyên
truyền, một nhiệm vụ quan trọng của công tác quản lý báo chí ở nƣớc ta hiện nay, khi
hoạt động làm kinh tế báo chí đang trở nên bức thiết và có ý nghĩa sống còn. Điều này đã
làm cho hoạt động báo chí bộc lộ nhiều bất cập, thiếu ổn định. Đó chính là xu hƣớng
thƣơng mại hóa, xa rời tôn chỉ mục đích, đối tƣợng phục vụ; làm lộ bí mật, an ninh quốc
gia; nhiều tờ báo đã xuất hiện xu hƣớng chạy theo thị hiếu tầm thƣờng nhƣ đăng tải các
tin, bài, ảnh giật gân, dung tục, thiếu văn hóa, đi ngƣợc lại thuần phong mỹ tục, xa rời tôn
chỉ, mục đích. Ở một số cơ quan quản báo chí còn chƣa thực hiện đầy đủ trách nhiệm, có
biểu hiện buông lỏng vai trò quản lý đối với cơ quan báo chí thuộc quyền, để cơ quan


2
báo chí xảy ra sai phạm... Trong khi đó, dƣới góc độ quản lý nhà nƣớc thì các công cụ
quản lý về báo chí mà chủ yếu là pháp luật chƣa hoàn thiện, một số quy định không còn
phù hợp với thực tiễn phát triển sinh động trong lĩnh vực báo chí thời gian gần đây.
Thực tế từ những năm đổi mới vừa qua cho thấy, tuy đã đƣợc quan tâm và đạt
đƣợc những thành tựu đáng kể, nhƣng nhìn chung việc nghiên cứu về công tác quản lý

nhà nƣớc đối với báo chí nói chung và đặc biệt là báo in chƣa đƣợc quan tâm đúng mức,
đầy đủ và toàn diện nên chƣa tạo ra đƣợc hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho sự phát triển
của báo chí. Trong khi đó, hệ thống pháp luật về báo chí nói chung và Luật Báo chí nói
riêng sau 15 năm qua, kể từ khi sửa đổi, bổ sung, đã bộc lộ một số hạn chế dẫn đến việc
thực thi chƣa đạt hiệu quả cao.
Tất cả đã đặt ra nhu cầu cần phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu
quả quản lý Nhà nƣớc cả về phƣơng diện pháp lý lẫn thực tiễn. Chính từ những vấn đề
nêu trên, tác giả đã tiến hành chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với loại hình báo in ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp chƣơng trình
đào tạo Thạc sĩ Luật học cho bản thân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua thực tiễn làm công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí, tác giả đã nghiên cứu,
tham khảo nhiều bài viết trên các báo, tạp chí, các tham luận từ các cuộc hội thảo, hội
nghị tổng kết công tác quản lý báo chí; trực tiếp tham gia xây dựng quy hoạch báo chí,
Luật Báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nên từ đó đúc rút ra các
vấn đề cần hoàn thiện.
Vấn đề quản lý nhà nƣớc về báo chí trong sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc đã đƣợc
đề cập nhiều trên các phƣơng tiện truyền thông, có nhiều bài viết đáng chú ý nhƣ: “Nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí đáp ứng yêu cầu nền báo chí
cách mạng Việt Nam trong tình hình mới”1; “Tăng cường công tác quản lý nhả nước về
báo chí trong tình hình hiện nay”2; “Tăng cường công tác quản lý báo chí trong giai

TS. Nguyễn Bắc Son (2014), “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động báo chí đáp ứng yêu cầu
nền báo chí cách mạng Việt Nam trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, truy cập ngày 9/8/2014 tại
địa chỉ: />2
TS. Trƣơng Minh Tuấn (2014), “Tăng cƣờng công tác quản lý nhả nƣớc về báo chí trong tình hình hiện nay”,
Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử, truy cập ngày 20/6/2014 tại địa chỉ: />1


3

đoạn hiện nay”3; “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trước yêu cầu
mới”4; “Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay”5... Bên cạnh đó, tác
giả cũng đã tham khảo một số sách chuyên đề, nghiên cứu của các tác giả nhƣ Tạ Ngọc
Tấn, Hà Minh Đức, Nguyễn Thế Kỷ, Lê Thanh Bình...
Tuy nhiên, có thể thấy, hầu hết các tác giả nêu trên mới chỉ dừng lại ở mức độ
phát hiện và giải quyết một số vấn đề bất cập trong đời sống báo chí nói chung và báo in
nói riêng. Nhiều vấn đề mới phát sinh trong hoạt động báo in còn thiếu quy định pháp
luật điều chỉnh hoặc một số quy định pháp luật sau một thời gian đã bộc lộ khiếm khuyết
chƣa đƣợc đề cập đến. Điều đó đòi hỏi cần có một đề tài nghiên cứu khoa học cập nhật
thực trạng báo in hiện nay và đƣa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nƣớc về báo chí dƣới góc độ khoa học pháp lý.
3. Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, theo quy định pháp luật, ở Việt Nam có 4 loại hình báo chí là báo in,
báo nói, báo hình và báo điện tử. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, tác chỉ đi sâu vào
nghiên cứu loại hình báo in ở Việt Nam, những quy định pháp luật về quản lý Nhà nƣớc
về báo chí nói chung và trong lĩnh vực báo in nói riêng, thực trạng quản lý Nhà nƣớc đối
với hoạt động này; từ đó đánh giá hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc nhằm phân tích
những bất cập, tồn tại cơ bản nhất, qua đó đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật, bộ máy quản lý nhà nƣớc nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc đối
với lĩnh vực này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phƣơng pháp chủ yếu để tiến hành nghiên cứu đề tài này dƣa trên cơ sở
phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nƣớc và pháp luật để làm rõ các vấn đề về lĩnh vực báo
in ở Việt Nam và công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí.
Ths. Nguyễn Quang Vinh (2014), “Tăng cƣờng công tác quản lý báo chí trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí
Công sản điện tử, truy cập ngày 30/7/2014 tại địa chỉ: />distribution=28413 &print=true.
4
TS. Nguyễn Thế Kỷ (2011), “Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trƣớc yêu cầu mới”, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân điện tử, truy cập ngày 23/8/2011 tại địa chỉ: />5

TS. Lê Doãn Hợp (2007), “Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc hiện nay”, Tạp chí Công sản
điện tử, truy cập ngày 18/6/7/2007 tại địa chỉ: />3


4
Đồng thời, tác giả đã sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học xã
hội và khoa học pháp lý để làm rõ các vấn đề tập trung trong luận văn, đó là các phƣơng
pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, mô tả, thống kê...
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài đƣợc thực hiện với mục đích nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề cơ
bản về hoạt động báo in, vai trò và đóng góp của báo in trong đời sống xã hội và quản lý
nhà nƣớc đối với hoạt động này. Phân tích những bất cập của pháp luật nƣớc ta trong
những quy định về quản lý hoạt động báo chí nói chung và báo in nói riêng; các ƣu
khuyết điểm trong công tác quản lý nhà nƣớc và tìm ra các nguyên nhân. Từ đó, tác giả
đề ra những biện pháp mang tính khả thi cho công tác quản lý nhà nƣớc đối với báo in và
đƣa ra những ý kiến mới cho việc xây dựng pháp luật hoàn thiện và chặt chẽ hơn, nhằm
tạo ra hành lang pháp lý tích cực cho công tác quản lý nhà nƣớc.
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu hiện trạng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực báo
chí nói chung và báo in nói riêng của Việt Nam.
- Nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận về công tác quản lý nhà nƣớc trong
lĩnh vực báo chí in và hoạt động quản lý nhà nƣớc bằng pháp luật đối với loại hình báo
chí này.
- Đề xuất việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật,
nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực báo in.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm
có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nƣớc đối với báo in.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với báo in hiện nay ở nƣớc ta.

Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với báo in ở nƣớc ta.


5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
BÁO IN
1.1. BÁO IN VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA LOẠI HÌNH BÁO IN TRONG XÃ
HỘI VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm báo in
Thuật ngữ “báo in” đƣợc sử dụng trong pháp luật hiện hành với ý nghĩa là một loại
hình báo chí. Theo quy định tại Điều 3 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo
chí năm 1999 thì “Báo chí nói trong Luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in (báo,
tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo hình
(chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các
phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy
tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài”.
Theo Khoản 2 Điều 1 Nghị định 51/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 4 năm 2002 của
Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Báo chí thì báo in đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “"Báo in" là tên gọi loại hình báo chí
được thực hiện bằng phương tiện in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn)”.
Từ góc độ nghiên cứu lí luận, để làm rõ khái niệm báo in, cần làm rõ khái niệm
báo chí. Hiện nay, ở Việt Nam, các học giả cũng đƣa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
báo chí.
Theo tác giả Dƣơng Xuân Sơn trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí truyền thông đã
trích dẫn triết học cổ Hy Lạp: “Chữ báo chí xuất phát từ chữ information có nghĩa là
thông tin, thông báo, báo tin và được hiểu như việc tạo ra hình thái giúp cho sự hiểu biết
của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại bằng việc lấy hiện thực khách quan để
phản ánh một cách liên tục, xuyên suốt trong quan hệ chặt chẽ giữa nhà báo - tác phẩm công chúng”6. Tác giả quyển sách này cũng cho rằng: “Báo chí bao gồm tất cả các tổ
chức thông tin thuật những loại hình khác nhau (xuất bản, radio, vô tuyến truyền hình…)
và ở những cấp độ khác nhau từ trung ương đến địa phương, với ý nghĩa là tất cả các

phương tiện thông tin đại chúng”7.

6
7

Dƣơng Xuân Sơn (1995), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.6.
Dƣơng Xuân Sơn (1995), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.47.


6
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa báo chí là “báo và
tạp chí; xuất bản phẩm định kỳ”8. Theo cuốn từ điển này thì báo đƣợc định nghĩa là “xuất
bản phẩm định kỳ in trên giấy khổ lớn, đăng tin, bài tranh ảnh để thông tin, tuyên truyền;
hình thức thông tin tuyên truyền có tính chất quần chúng và nội bộ, bằng các bài viết,
tranh vẽ trực tiếp trên giấy, trên bảng, v.v..”9; tạp chí đƣợc định nghĩa là “xuất bản phẩm
định kỳ, đăng nhiều bài do nhiều người viết, đóng thành tập thường có khổ nhỏ hơn
báo”10.
Còn tác giả Trần Hữu Quang trong cuốn Xã hội học báo chí với quan điểm cho
rằng báo chí là một loại hình truyền thông đã định nghĩa: “Truyền thông là một quá trình
truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người
với con người”11.
Xuất phát từ vai trò, chức năng của báo chí Việt Nam, Luật Báo chí năm 1989 đƣa
ra định nghĩa: “Báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện
thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội ; là cơ quan ngôn luận của các tổ
chức của Ðảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân”.
Từ quan điểm của các học giả nghiên cứu lí luận về báo chí và cách tiếp cận của
pháp luật hiện hành về báo chí, ở mức độ khái quát có thể đƣa ra định nghĩa: Báo chí Việt
Nam là một phƣơng tiện truyền đạt, chia sẻ thông tin mang tính đại chúng giữa các chủ
thể trong xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Ðảng, cơ quan Nhà nƣớc, tổ
chức xã hội với công chúng.

Báo in là một loại hình báo chí, bên cạnh những đặc tính chung của báo chí, nội
hàm khái niệm báo in còn bao gồm các yếu tố nhƣ:
- Là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải những nội dung thông tin mang tính thời
sự, nghiên cứu, giải trí về mọi mặt của đời sống xã hội;
- Là sản phẩm hàng hóa đặc biệt, báo in còn phải đáp ứng yêu cầu, quy định cụ thể
về chất lƣợng, nội dung, hình thức, giá cả, số lƣợng phát hành, phạm vi phát hành và đây
là những vấn đề đƣợc quy định cụ thể trong giấy phép hoạt động báo chí do cơ quan quản
lý nhà nƣớc về báo chí cấp cho cơ quan báo chí đồng; thời kiểm soát việc thực hiện
Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, tr.65.
Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, tr.65.
10
Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, tr.1142.
11
Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học báo chí, Nxb Trẻ, tr. 3.
8
9


7
thƣờng xuyên. Bản thân cơ quan báo chí cũng có trách nhiệm định kỳ báo cáo việc thực
hiện.
Báo in nƣớc ta có những đặc điểm riêng biệt sau:
- Đặc điểm về chính trị:
Báo in tác động sâu sắc vào tƣ tƣởng, nhận thức, tình cảm và thái độ của công
chúng; góp phần hình thành và định hƣớng tƣ tƣởng, nhận thức, tình cảm và lối sống của
độc giả. Bên cạnh việc giúp cho độc giả nâng cao tri thức, thỏa mãn nhu cầu giải trí, ở
nƣớc ta, báo in còn là công cụ lợi hại trong đấu tranh trên mặt trận tƣ tƣởng, chính trị. Vì
đặc điểm này, ở Việt Nam không có báo chí tƣ nhân nhƣ một số nƣớc trên thế giới.
Do vậy, những cơ quan báo chí xuất bản những ấn phẩm có chất lƣợng cao, có
lƣợng độc giả đông đảo thƣờng có vị thế cao trong xã hội, có khả năng tác động đến chủ

trƣơng, chính sách của nhà nƣớc, quyết sách của cơ quan công quyền.
Nhà nƣớc ta cũng thông qua các cơ quan báo chí để thông tin đến cho công chúng
các chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của nhà nƣớc. Điều này thể hiện ở việc nhiều báo ra
hàng ngày, báo có số lƣợng phát hành lớn thƣờng có chuyên trang pháp luật; sau khi các
văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành đều đƣợc đăng trên Công báo.
Đặc điểm này đã đƣợc thể hiện trong phần nhiệm vụ của báo chí là “tuyên truyền,
phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước” tại Khoản 2 Điều 6 Luật Báo chí và “phản ánh và hướng dẫn
dư luận xã hội” tại Khoản 3 Điều 6 Luật Báo chí.
- Đặc điểm về hình thức thể hiện:
Báo in chuyển tải nội dung thông tin bằng hình thức văn bản in, bao gồm chữ và
hình ảnh. Toàn bộ những nội dung này xuất hiện đồng thời và đƣợc ngƣời đọc tiếp nhận
bằng thị giác.
Cách tiếp nhận thông tin của ngƣời đọc là chủ động: từ việc lựa chọn tờ báo có tôn
chỉ, mục đích phù hợp với sự quan tâm của mình cho đến thời gian đọc, trình tự đọc và
cách thức đọc.
Xuất phát từ đặc điểm về hình thức thể hiện mà so với các loại hình báo chí khác,
báo in đòi hỏi tính chính xác cao hơn vì nội dung thông tin đã đƣợc in ra giấy: Khi tờ báo
đã phát hành đến tay bạn đọc thì không có khả năng rút bài, thay đổi nội dung nhƣ báo


8
điện tử; bạn đọc có thể dễ dàng lƣu trữ lại thông tin, cơ quan quản lý nhà nƣớc về báo chí
có thể dễ dàng lƣu trữ, kiểm chứng nội dung và xử lý vi phạm nếu thông tin sai sự thật
mà không cần các trang thiết bị điện tử phức tạp có thể ghi lại nội dung thông tin nhƣ đối
với báo hình, báo nói.
Do báo in chỉ xuất hiện ở một thời điểm cụ thể (thời gian phát hành) nên không
thể nhanh chóng, liên tục cung cấp, cập nhật diễn biến thông tin của các sự kiện cho bạn
đọc nhƣ các loại hình báo chí khác. Phƣơng thức chuyển tải nội dung thông tin đơn điệu
dễ làm bạn đọc cảm thấy nhàm chán. Đối tƣợng tiếp nhận thông tin phải là những ngƣời

biết chữ dẫn tới sự hạn chế về số lƣợng độc giả. Việc phát hành bằng hình thức trao tay
thƣờng dẫn đến sự chậm trễ, đặc biệt khi phát hành báo đến vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn vì lệ thuộc vào phƣơng tiện vận chuyển, chuyên chở, nhân lực làm công tác
phát hành.
Phát hành định kỳ cũng là đặc điểm phân biệt giữa báo in với các loại hình báo chí
khác. Ngƣời đọc chỉ có thể đón nhận thông tin trên báo vào một thời điểm nhất định (thời
điểm này đƣợc quy định trên giấy phép). Về đặc điểm này, báo in ở nƣớc ta (bao gồm các
loại hình: báo, tạp chí và bản tin thời sự, bản tin thông tấn - của Thông tấn xã Việt Nam)
đƣợc phát hành hàng ngày, nhiều kỳ một tuần, hàng tuần, hàng tháng hoặc hàng quý...
- Đặc điểm là sản phẩm hàng hóa:
Bên cạnh đặc điểm mang tính chính trị, một ấn phẩm báo chí là một sản phẩm
hàng hóa tuân theo quy luật thị trƣờng báo chí: Vừa mang tính sáng tạo về tinh thần nhằm
thỏa mãn nhu cầu thƣởng thức thông tin của độc giả, vừa là một loại dịch vụ xã hội.
Là một sản phẩm, báo in đƣợc sản xuất ra tuân theo một quy trình trình chặt chẽ,
từ việc tòa soạn tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin, viết, biên tập nội dung, trình bày, sau
đó đƣợc lãnh đạo cơ quan báo chí duyệt lại toàn bộ nội dung trƣớc khi in rồi mới chính
thức đƣợc in và phát hành đến tay độc giả. Sản phẩm báo in cũng đƣợc hạch toán, nhƣ
những sản phẩm hàng hóa trên thị trƣờng, bao gồm các loại chi phí theo định mức đƣợc
nhà nƣớc quy định. Báo in còn là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt vì đƣợc hƣởng chính
sách trợ giá của nhà nƣớc. Do thông tin thƣờng mang tính thời sự nên sản phẩm báo chí
không phải là loại sản phẩm có thể dự trữ đƣợc. Sau khi phát hành, cơ quan báo chí thu
đƣợc lợi ích từ việc bán báo, quảng cáo và tài trợ.


9
- Đặc điểm về cơ quan sản xuất báo in:
Ở nƣớc ta, báo in là sản phẩm đƣợc sản xuất bởi cơ quan báo chí thuộc loại hình
đơn vị sự nghiệp có thu hoặc doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện, không tồn tại độc
lập và hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhƣ ở nhiều nƣớc tƣ bản mà trực thuộc một
cơ quan hoặc tổ chức (thuộc đối tƣợng quy định trong Luật Báo chí) đƣợc gọi là cơ quan

chủ quản báo chí. Cơ quan chủ quản báo chí là tổ chức đứng tên xin cấp giấy phép hoạt
động của báo chí, đƣợc cấp giấy phép hoạt động báo chí in và trực tiếp quản lý cơ quan
báo in.
Cơ quan báo in hoạt động theo tôn chỉ, mục đích, đối tƣợng phục vụ và phạm vi
phát hành chủ yếu, thời gian xuất bản và ngôn ngữ thể hiện do cơ quan chủ quản báo chí
xác định và đƣợc cơ quan quản lý nhà nƣớc chấp thuận, cấp phép; những nội dung này
đƣợc quy định trong giấy phép hoạt động báo in.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm ngƣời lãnh đạo cơ quan báo chí cũng do cơ quan chủ
quản báo chí thực hiện sau khi trao đổi ý kiến với cơ quan quản lý nhà nƣớc về báo in,
trên cơ sở các điều kiện, tiêu chuẩn về chức danh lãnh đạo cơ quan báo chí do pháp luật
quy định.
1.1.2. Quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của báo in ở nƣớc ta
Do tính chất của báo chí là truyền thông phục vụ nhiệm vụ chính trị và sự nghiệp
phát triển chung của đất nƣớc, mà quá trình hình thành và phát triển mỗi loại hinh báo chí
đều gắn với tình hình biến động về chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật.. của quốc
gia trong từng thời kỳ. Ở nƣớc ta, sự hình thành của báo in cũng tuân theo quy luật này.
Những biến động về chính trị - xã hội: Nửa cuối thế kỷ 19, cùng với kế hoạch thôn
tính nƣớc ta ngƣời Pháp bắt đầu mở mang một loạt các trung tâm, đô thị ở Việt Nam. Đây
cũng chính là căn nguyên làm nảy sinh tầng lớp thị dân mới (dân thành thị), tập trung
nhiều ngƣời có hiểu biết, học vấn cao, có lối sống nhanh nhạy trong việc tiếp nhận các
dòng văn hóa khác nhau, do vậy, có nhu cầu cao hơn về thông tin. Họ trở thành độc giả
đầu tiên của báo in.
Những biến động về tư tưởng: Bộ máy nhà nƣớc phong kiến bị phân hoá thành ba
phái cơ bản. Đó là: Nhóm chủ chiến (các sĩ phu yêu nƣớc); phái chủ hoà (vua Tự Đức);
phái trung gian (đội ngũ trí thức phong kiến). Cả 3 phái đều tìm mọi cách để tuyên truyền,


10
tranh thủ lực lƣợng. Các cuộc tranh cãi, bất hoà luôn xảy ra từ trung ƣơng tới địa phƣơng.
Tuy nhiên cả 3 phái đều gặp nhau ở một điểm là: Cần có phƣơng tiện tuyên truyền, ý

thức đƣợc sức mạnh của báo chí, nên tất cả đều ủng hộ.
Sự ra đời của chữ quốc ngữ: Chữ quốc ngữ xuất hiện cuối thế kỷ 17 do việc
truyền đạo của các giáo sĩ phƣơng Tây gặp 2 khó khăn (thiếu phƣơng tiện truyền đạt và
phong trào Sát Tả của sĩ phu Việt Nam và triều Nguyễn). Vì vậy, các nhà truyền giáo đã
có một sáng kiến: La tinh hoá tiếng Việt. Công cuộc kéo dài hàng thế kỷ, chia thành 2
giai đoạn: Trƣớc và sau Alêch-xăng-đơ-rốt, ngƣời có công trong việc khai sinh ra chữ
quốc ngữ và ông cũng là ngƣời đầu tiên soạn từ điển tiếng Việt. Sau A-lếch-xăng-đơ-rốt,
chữ quốc ngữ phát triển rất nhanh, trở thành phƣơng tiện của báo chí và văn học hiện đại.
Từ đó chữ Hán và chữ Pháp bị mất vị trí độc tôn ở Việt Nam. Các nhà báo có tinh thần
dân tộc đã lãnh thêm một trách nhiệm lịch sử: Không ngừng phổ cập chữ quốc ngữ, tìm
mọi cách để phát huy tính năng của nó.
Sự xuất hiện các phương tiện in ấn và hỗ trợ: Vào thời gian này, những bộ chữ
đúc thay thế lối in khắc bộ. Máy in mới ra đời thay thế cho máy in thủ công. Bên cạnh đó,
ngƣời Pháp mở mang một hệ thống giao thông xuyên Việt: đƣờng bộ và đƣờng sắt. Năm
1862, đƣờng dây điện thoại đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam, nối Sài Gòn - Biên Hoà. Năm
1863, Bƣu điện Sài Gòn đƣợc thành lập; 1894, đƣờng dây viễn thông Bắc - Nam đã hoàn
thành. Năm 1899, hệ thống máy điện thoại đƣợc sử dụng toàn dân… Năm 1929, cầu hàng
không đầu tiên Sài Gòn - Pari đƣợc thiết lập, giải thoát tình trạng bế quan toả cảng cho
báo chí.
Những thay đổi trên đây là những điều kiện cần và đủ cho báo in ở Việt Nam xuất
hiện.
Trong bối cảnh đó, tờ “Nam kì viễn chinh công báo” (Le Bulletin officiel de
l’Expédition de la Cochinchine) là tờ báo báo in bằng tiếng Pháp đầu tiên ra đời
29/9/1861 là tờ tuần báo, tồn tại 27 năm (đến 1888 đình bản). Đây là phƣơng tiện thông
tin duy nhất để ngƣời Pháp điều hành nội bộ quân viễn chinh của họ. Ngoài những tờ trên,
còn một số tờ mang tính chất tạp chí, niên giám chủ yếu xuất bản bằng tiếng Pháp nhằm
mục đích bình định là chính chứ không phải thông tin truyền thông rộng rãi trong nhân
dân.



11
Từ ý tƣởng xuất bản báo bằng tiếng Việt nảy sinh khá sớm trong hàng ngũ trí thức
Việt Nam làm việc cho Pháp, sau 2 năm chuẩn bị, tới 15/4/1865, Gia Định báo, tờ báo in
bằng tiếng Việt đầu tiên, mới ra số đầu tiên. Tờ báo đƣợc xuất bản với mục đích phổ biến
trong giới dân bản xứ tất cả những tin tức đáng lƣu ý và đem đến cho họ những kiến thức
mới về những vấn đề có liên quan đến văn hoá và những tiến bộ về ngành canh nông. Gia
Định báo đã trở thành diễn đàn chung cho giới trí thức ở miền Nam quan tâm đến chữ
quốc ngữ, chấn hƣng cổ học, dung hoà giữa truyền thống và cái mới. Nhờ đó mà tiếng
Việt có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, do chịu sự quản lý của ngƣời Pháp nên về mặt
chính trị, báo vẫn bộc lộ khuynh hƣớng thân chính quyền, đề cao chính sách cai trị của
Pháp, chỉ trích những ngƣời chủ chiến. Sau 1872, Trƣơng Vĩnh Ký thôi giữ chức giám
đốc, tờ báo lại trở về tính chất công báo nhƣ hồi đầu, đến năm 1909 đình bản.
Có thể thấy nét nổi bật trong thời kỳ đầu tiên của báo in Việt Nam là sự tồn tại và
phát triển trong một mâu thuẫn giữa xu hƣớng dân chủ hoá và tình trạng độc quyền chính
trị, tức là mâu thuẫn giữa các sắc lệnh hành chính với nhu cầu thông tin của công chúng,
bạn đọc.
Trong những năm đầu thế kỷ 20, báo in đã có những đóng góp lớn cho xã hội, đó
là tập trung nâng cao dân trí cho ngƣời Việt Nam (có lúc đạt những thành công rực rỡ).
Đồng thời báo in cũng trực tiếp tham gia những vấn đề về chính trị – xã hội, truyền bá
những tƣ tƣởng cấp tiến của châu Âu nhằm tạo ra một thể chế chính trị tốt nhất cho ngƣời
Việt Nam.
Vào giai đoạn này, về phƣơng diện văn học, báo in đƣợc coi nhƣ một phƣơng tiện
của văn học Việt Nam cận - hiện đại, là bƣớc chuẩn bị cho thời kỳ phát triển rực rỡ nhất
của nền văn nghệ nƣớc ta (1930 - 1945).
Đặc biệt trong những năm trƣớc Cách mạng tháng Tám, báo in đã có sự phát triển
bùng nổ với nhiều thể loại báo chí mới làm tăng vọt số ngƣời đọc. Đọc báo trở thành một
sinh hoạt tƣ tƣởng không thể thiếu của phần đông ngƣời Việt Nam.
Trong thời kỳ này, một sự kiện đặc biệt quan trọng, đặt nền móng cho sự phát
triển của báo chí cách mạng Việt Nam sau này là sự ra đời của tờ Thanh niên, ra số đầu
tiên ngày 21/6/1925. Là cơ quan ngôn luận của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí

hội; thời kỳ đầu Báo đƣợc biên tập và in ở Quảng Châu với hình thức 1 tuần báo (ra chủ


12
nhật). Mỗi kỳ tờ Thanh niên xuất bản khoảng 100 bản, chuyển về Việt Nam qua liên lạc.
Tờ báo đã khơi sâu lòng căm thù đối với đế quốc, phong kiến, cổ vũ phong trào đấu tranh
cách mạng. Đây là tờ báo đầu tiên của dòng báo chí cách mạng Việt Nam (đối tƣợng
phục vụ là dành cho phong trào cách mạng Việt Nam, đƣợc viết bằng chữ quốc ngữ để
đạt tới mức phổ cập cao nhất. Tờ báo do nhà báo cộng sản Việt Nam đầu tiên thực hiện).
Báo đã hƣớng tới lực lƣợng thanh niên - một lực lƣợng đông đảo “sôi nổi tinh thần ái
quốc”, dành cho công nhân và nông dân - lực lƣợng có tinh thần triệt để yêu nƣớc. Sự ra đời
của báo Thanh niên là bƣớc chuẩn bị về tƣ tƣởng, lực lƣợng, chính trị, tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Báo Thanh niên là dấu son cho cả một dòng báo chí mới, báo chí cách mạng của
Đảng ta, trang bị một thế giới quan và phƣơng pháp cách mạng mới, là hơi thở, là sự
phản ánh, sự ra đời và phát triển của khuynh hƣớng dân tộc xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta.
Thanh niên trở thành tờ báo mở đƣờng cho nền báo chí cách mạng của nƣớc Việt Nam
mới.
Báo chí cách mạng Việt Nam bắt nguồn trƣớc hết từ khuynh hƣớng yêu nƣớc, dân
chủ trong báo chí hợp pháp, đặc biệt từ khi báo chí quốc văn ra khỏi giai đoạn phôi thai,
nặng chất công báo để dần dần trở thành một hệ thống báo chí mới đầy đủ những đặc
trƣng của các cơ quan thông tin ngôn luận, nhƣ xuất bản định kỳ, lƣu hành rộng rãi, có
độc giả ổn định, có đội ngũ ngƣời làm báo chuyên nghiệp. Dƣới chế độ cũ, tuy bị nhà
cầm quyền luôn tìm cách đối phó, ngăn ngừa, đàn áp, nhƣng tiếng nói yêu cầu, dân chủ,
tiến bộ phản ánh ý chí quật cƣờng của dân tộc ta không vì thế bị dập tắt mà ngƣợc lại,
vẫn tiếp tục vang lên ngày càng rõ ràng hơn, dõng dạc hơn dƣới nhiều hình thức.
Cùng với tƣ tƣởng yêu nƣớc, chống thực dân và bè lũ phong kiến tay sai trên báo
chí công khai, những tác phẩm báo chí, thơ văn yêu nƣớc và cách mạng hoặc đƣợc công
bố qua các phƣơng tiện thông tin, hoặc lƣu truyền trong nhân dân qua nhiều kênh khác,
đều là những cội nguồn trực tiếp và nội tại của báo chí cách mạng Việt Nam.

Báo chí cách mạng Việt Nam đã tiếp tục và kế thừa di sản báo chí cách mạng, dân
chủ và tiến bộ trên thế giới: Học tập và chịu ảnh hƣởng khá sâu đậm của nền báo chí ấy,
nhƣng trƣớc sau vẫn giữ đƣợc đậm đà tính cách dân tộc của mình.


13
Báo chí cách mạng Việt Nam là sản phẩm tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài,
gian khổ của nhân dân Việt Nam. Là đội quân đi đầu trong công tác chính trị - tƣ tƣởng văn hóa, với chức năng tuyên truyền, cổ động, tổ chức nhân dân đứng lên làm cách mạng
vì độc lập, tự do, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, báo chí Việt Nam là con
đẻ của cách mạng Việt Nam đồng thời cũng là vũ khí cách mạng vô cùng lợi hại, góp
phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa
xã hội, đổi mới, chấn hƣng đất nƣớc nhƣ ngày nay.
Báo chí cách mạng Việt Nam là báo chí kiểu mới, đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng chính trị tƣ tƣởng, lấy việc
phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao cả của mình. Lý tƣởng, mục tiêu, tôn chỉ cao nhất của
báo chí cách mạng là góp phần vào sự nghiệp đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực dân,
phong kiến, xóa bỏ các hình thức bóc lột; giành độc lập dân tộc, mang lại tự do hạnh
phúc cho nhân dân; xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa.
Do tính chất và mục tiêu, tôn chỉ của mình, trải qua bao sóng gió, trƣớc những thủ
đoạn tinh vi cũng nhƣ sự đàn áp khốc liệt của các thế lực thù địch, báo chí cách mạng
Việt Nam vẫn vƣợt qua đƣợc mọi tình huống hiểm nghèo để tồn tại và phát triển.
Báo chí cách mạng Việt Nam ngày nay là một hệ thống các cơ quan thông tin đại
chúng gồm đủ các loại hình, phát triển từ trung ƣơng đến cơ sở, do nhiều tổ chức, cơ
quan khác nhau làm chủ quản, đƣợc thực hiện bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số
và bằng ngoại ngữ, với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể hết sức đa dạng, nhằm vào
nhiều loại đối tƣợng và dùng nhiều công nghệ khác nhau, xuất bản và lƣu hành ở trong
nƣớc và ở ngoài nƣớc. Từ một số ít những tờ báo, tạp chí in với quy mô nhỏ, số lƣợng
phát hành thấp trong những ngày đầu, đến nay, theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2014
và phương hướng nhiệm vụ năm 2015 của Cục Báo chí (Bộ Thông tin và Truyền thông),

số lƣợng cơ quan báo, tạp chí in đã đƣợc cấp phép (tính đến ngày 25/11/2014) là 845;
trong đó có: 199 báo (trung ƣơng: 86, địa phƣơng: 113), 646 tạp chí (trung ƣơng: 513, địa
phƣơng: 133). Số lƣợng bản báo xuất bản hàng năm lên tới 650 triệu, bình quân 7,22
bản/ngƣời/năm.


14
Báo chí Việt Nam đang trở thành một nền báo chí lớn, phát triển toàn diện, đang
từng bƣớc tiến lên hiện đại, rộng khắp cả nƣớc và vƣơn ra mở rộng giao lƣu, hợp tác với
nƣớc ngoài. Báo chí đang đƣợc sắp xếp lại theo quy hoạch tổng thể, phù hợp với chiến
lƣợc phát triển kinh tế xã hội trong vài thập niên đầu của thế kỷ XXI. Cơ sở kỹ thuật và
công nghệ của báo chí ngày càng lớn mạnh, khai thác cấu trúc hạ tầng chung của đất
nƣớc về thông tin, viễn thông, lại có một số cơ sở riêng của báo chí, nhằm tranh thủ tiếp
thu sử dụng công nghệ thông tin hiện đại nhất trên thế giới vào tác nghiệp hằng ngày.
Làm việc trong ngành báo chí hiện nay có một đội ngũ đông đảo nhà báo chuyên nghiệp,
không chuyên, nhà văn, nghệ sĩ, cán bộ quản lý, cán bộ và công nhân kỹ thuật, những
ngƣời chuyên làm công việc quảng bá, phát hành, dịch vụ, v.v. đáp ứng nhu cầu thông tin
ngày càng cao của công chúng vì sự phát triển của đất nƣớc, vì lợi ích lâu dài của dân tộc
Việt Nam, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Điểm đặc sắc mà báo chí Việt Nam đang thể hiện và không ngừng phát huy là ở
vai trò diễn đàn nhân dân của nó.
Báo chí ta thực hiện chức năng làm diễn đàn của nhân dân không chỉ thể hiện ở
chỗ thƣờng xuyên đăng tải nhiều ý kiến độc giả. Quan trọng hơn, thực chất hơn là báo chí
phải thể hiện đƣợc ý chí, trí tuệ, tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng đa dạng của các tầng lớp
nhân dân trong nƣớc cũng nhƣ của ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài, góp phần xây dựng
đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc; thu hút nhân tài cống hiến tri
thức và trí tuệ cũng nhƣ bày tỏ tâm huyết của mình vì lợi ích của Tổ quốc Việt Nam;
tham gia đấu tranh chống các âm mƣu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù
địch, đẩy lùi và bài trừ các tệ nạn tham nhũng, lãng phí, ma túy, mại dâm, mê tín, hủ
tục...; đặc biệt qua diễn đàn báo chí, nhân dân thực hiện quyền giám sát tối cao đối với

mọi công việc của đất nƣớc, thực hiện quyền làm chủ của mình.
Nhiệm vụ tổng quát của báo chí ngày nay là phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Báo chí cần đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của nhân dân, góp phần
nâng cao dân trí, thúc đẩy phát triển xã hội, mở rộng giao lƣu quốc tế.
Sự nghiệp phát triển của đất nƣớc, bối cảnh quốc tế, cũng nhƣ sự phát triển của
bản thân báo chí đặt ra yêu cầu báo chí cần phát huy ƣu điểm, sửa chữa thiếu sót, khuyết


15
điểm để tiếp tục phát triển. Nhà nƣớc đang ngày càng hoàn thiện chiến lƣợc thông tin,
hoàn thiện hệ thống pháp lý, kiện toàn các cơ quan quản lý báo chí, quy hoạch hệ thống
cơ quan báo chí, xây dựng kế hoạch đào tạo cơ bản, lâu dài, có hệ thống đội ngũ ngƣời
làm báo có tài năng, đủ kiến thức và đức độ đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của
báo chí đƣơng đại.
Qua hơn ba phần tƣ thế kỷ làm đội quân xung kích trong công tác tƣ tƣởng, phục
vụ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc, báo chí Việt Nam hòa nhập vào cuộc đấu
tranh ấy và trở thành một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh ấy.
Trong thế kỷ XXI, chắc chắn xã hội Việt Nam sẽ có nhiều biến đổi lớn, khó lƣờng.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra mục tiêu của chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã
hội vài chục năm đầu của thế kỷ là, trong mƣời năm (2001 - 2010) đƣa nƣớc ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng
hiện đại. Những năm tới, tuy khó khăn còn nhiều, nhƣng đất nƣớc ta có cơ hội lớn để tiến
lên. Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc ta lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vƣợt qua thách
thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh
hơn và bền vững hơn. Cũng nhƣ mọi ngành hoạt động khác, báo chí đang đứng trƣớc cơ
hội lớn và thách thức lớn. Trên cơ sở một nền kinh tế ngày càng phát triển, dân trí ngày
càng cao, nhu cầu văn hóa, tinh thần của nhân dân chắc chắn sẽ có những bƣớc phát triển
mạnh mẽ. Từ những thành tựu và kinh nghiệm thu đƣợc qua những năm tồn tại và phát

triển trong những điều kiện cực kỳ đa dạng trƣớc đây, nắm bắt cơ hội, vƣợt qua thách
thức, báo chí Việt Nam chắc chắn sẽ ngày càng phát triển nhịp nhàng và vững chắc hơn.
1.1.3. Vị trí, vai trò báo in trong đời sống xã hội Việt Nam
Trong lịch sử hình thành và phát triển của báo chí Việt Nam, báo in đƣợc xem là
loại hình báo chí truyền thống và có lịch sử lâu đời nhất trong các loại hình báo chí hiện
nay (báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử). Ở nƣớc ta, nếu nhƣ báo nói ra đời vào
ngày 7/9/1945; báo hình phát sóng lần đầu tiên ngày 7/2/1966 ở Miền Nam Việt Nam, ở
miền Bắc, ngày 7/9/1970, chƣơng trình truyền hình thử nghiệm đầu tiên của nƣớc Việt
Nam dân chủ cộng hoà đƣợc phát sóng; còn tờ báo điện tử đầu tiên (báo điện tử Quê
hƣơng) chính thức đƣợc đƣa lên Internet ngày 6/2/1997 thì Gia định báo, tờ báo bằng


16
Việt ngữ đầu tiên ra đời từ năm 1865. Nhƣ vậy, trong một thời gian dài, báo in đã giữ vị
trí độc tôn ở Việt Nam.
Ngày nay, trong cuộc cạnh tranh báo chí quyết liệt giữa các loại hình báo chí thì
báo in đã và đang có nguy cơ bị giảm sút nghiêm trọng về thị phần độc giả đối với các
loại hình báo chí khác nhƣ báo điện tử, báo hình, đặc biệt là khi báo điện tử, các trang
thông tin điện tử đang liên tục ra đời và đƣa ra nhiều hình thức thông tin đến công chúng
nhanh chóng, sáng tạo và hấp dẫn.
Tuy nhiên, báo in có một lợi thế mà các loại hình báo chí khác không có đƣợc là
mức độ tiện lợi và dễ sử dụng. Báo in dễ xem, dễ vận chuyển, giá rẻ và đặc biệt là lƣu trữ
đƣợc khá đơn giản (không đòi hỏi phải có phƣơng tiện điện tử hỗ trợ).
Với vai trò là cơ quan ngôn luận chính thức của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính
trị, xã hội, và với tâm lý của ngƣời Việt thƣờng tin tƣởng vào những gì đƣợc thể hiện trên
“giấy trắng, mực đen”, những thông tin đƣợc đƣa ra trên báo in luôn đƣợc độc giả coi là
đáng tin cậy nên có tác động trực tiếp, sâu sắc tới nhận thức, tâm lý, tình cảm và hành vi
của độc giả, tạo dƣ luận xã hội sâu rộng.
Ở báo in, có một đặc tính cơ bản mà khó có thể tồn tại ở các loại hình báo chí khác,
đó chính là tính hiện diện. Báo in có thể hiện diện khắp nơi mà không phụ thuộc kỹ thuật

công nghệ hiện đại hay phƣơng tiện truyền tải kỹ thuật hiện đại. Báo in có thể dễ dàng
vận chuyển, phát hành tới độc giả mà không bị lệ thuộc vào điều kiện địa lý, kinh tế - xã
hội; trong khi báo hình, báo nói bị lệ thuộc vào điều kiện phát sóng, truyền dẫn tín hiệu,
báo điện tử lệ thuộc vào mạng interrnet nên nhiều vùng trong cả nƣớc, đặc biệt là vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thì các loại hình báo chí này không phát huy tác
dụng. Báo in có thể đƣợc độc giả lƣu trữ, truyền tay nhau đọc dễ dàng mà không lệ thuộc
vào các phƣơng tiện thƣờng chỉ có ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển nhƣ
máy ghi âm, ghi hình, máy vi tính, điện thoại thông minh kết nối internet
Ngoài ra, tính hiện diện của báo in còn đƣợc biểu hiện qua việc tiếp cận đến tất cả
các đối tƣợng độc giả khác nhau. Ở Việt Nam, các ấn phẩm báo in rất đa dạng và phong
phú, có thể đáp ứng nhu cầu thông tin cho mọi đối tƣợng độc giả trong xã hội theo tuổi
tác, giới tính, ngành nghề, sở thích... Có lẽ nhờ đặc điểm này, báo in đã và sẽ tồn tại với
bạn đọc dù gặp sự cạnh tranh quyết liệt bởi các loại hình báo chí khác.


17
1.2. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI LOẠI HÌNH BÁO IN
VÀ NHỮNG YẾU TỐ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
LOẠI HÌNH BÁO IN
1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nƣớc đối với loại hình báo in
Báo in là phƣơng tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội, là cơ
quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội, là diễn đàn của
nhân dân lao động. Báo in không chỉ làm nhiệm vụ thông tin mà còn thực hiện công tác
tuyên truyền làm cho các hoạt động xã hội phát triển theo định hƣớng của nhà nƣớc và
bình ổn xã hội. Nhƣ vậy, để báo in tồn tại, hoạt động và phát triển cần có sự quản lý của
nhà nƣớc.
Dƣới góc độ khoa học pháp lý, quản lý nhà nƣớc là hoạt động quản lý xã hội do
nhà nƣớc thực hiện, với đặc trƣng sử dụng quyền lực nhà nƣớc, thông qua pháp luật để
điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và quan trọng của con ngƣời. Ðiểm khác nhau cơ
bản giữa quản lý nhà nƣớc và các hình thức quản lý khác (ví dụ: quản lý của các tổ chức

xã hội...), là tính quyền lực nhà nƣớc gắn liền với cƣỡng chế nhà nƣớc khi cần. Từ khi
xuất hiện, nhà nuớc điều chỉnh các quan hệ xã hội đƣợc xem là quan trọng, cần thiết.
Quản lý nhà nƣớc đƣợc thực hiện bởi toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy
nhà nƣớc nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nƣớc. Dƣới góc độ
hành pháp, quản lý nhà nƣớc là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan hành chính
nhà nƣớc, của các cơ quan nhà nƣớc khác và các tổ chức đƣợc nhà nƣớc ủy quyền quản
lý trên cơ sở của luật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, điều
hành các quá trình xã hội của nhà nƣớc. Nói cách khác, quản lý hành chính nhà nƣớc (nói
tắt là quản lý nhà nƣớc) chính là quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực hành pháp - đƣợc thực
hiện bởi ít nhất một bên có thẩm quyền hành chính nhà nƣớc trong quan hệ chấp hành,
điều hành. Quản lý hành chính nhà nƣớc trƣớc hết và chủ yếu đƣợc thực hiện bởi hệ
thống cơ quan hành chính nhà nƣớc: Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phƣơng
các cấp, không kể một số tổ chức thuộc nhà nƣớc mà không nằm trong cơ cấu quyền lực
nhƣ các doanh nghiệp.
Quản lý nhà nƣớc đối với báo in là hoạt động của bộ máy nhà nƣớc nhằm đảm bảo
cho hoạt động báo in đƣợc ổn định và phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội.


18
Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, Nhà nƣớc đại diện cho nhân
dân, đảm bảo cho công dân đƣợc thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có
quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí. Nhà nuớc có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo
báo in phát triển, đáp ứng các nhu cầu về thông tin của nhân dân, đóng góp vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nhà nƣớc đóng vai trò hết
sức quan trọng trong việc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng chính sách tự do
ngôn luận, tự do báo chí để đƣa ra các luận điệu sai trái, thực hiện chiến lƣợc “diễn biến
hòa bình” gây mất an ninh chính trị và trật tự trong nƣớc.
Quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực báo in ở nƣớc ta có những đặc điểm sau:
- Chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo in là nhà nước. Hệ thống cơ quan
quản lý báo chí có sự phân cấp, thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với báo in.

Ở nƣớc ta hiện nay, báo in chịu sự quản lý bằng pháp luật của nhà nƣớc. Đối với
một số cơ quan báo in thuộc các bộ, ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nhà nƣớc còn là
chủ sở hữu, quản lý cơ quan báo chí với vai trò là cơ quan chủ quản theo luật định. Nhà
nƣớc thực hiện việc quản lý bằng pháp luật kết hợp với việc chỉ đạo, định hƣớng nội
dung thông tin.
Việc quản lý nhà nƣớc về báo in đƣợc phân cấp giữa trung ƣơng và địa phƣơng.
Mỗi cấp có sự phân định thẩm quyền cụ thể cho các cơ quan nhà nƣớc và cá nhân bằng
việc xác định những nhiệm vụ quyền hạn cụ thể để thực hiện quản lý báo chí.
Với đặc thù là ngành làm công tác truyền thông, báo chí nói chung và báo in nói
riêng chịu sự chỉ đạo về đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong
những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để chỉ đạo công tác báo
chí nhƣ: Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31/3/1992 của Ban Bí thƣ về “Tăng cƣờng sự lãnh đạo
và quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả công tác báo chí – xuất bản”; Chỉ thị
22-CT/TW ngày 17/10/1997 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới và tăng cƣờng sự lãnh
đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản”; Thông báo kết luận của Bộ Chính trị số 162TB/TW ngày 01/12/2004 về “Một số biện pháp tăng cƣờng quản lý báo chí trong tình
hình hiện nay”; Thông báo kết luận của Bộ Chính trị số 41-TB/TW ngày 11/10/2006 về
“Một số biện pháp tăng cƣờng lãnh đạo và quản lý báo chí”.
Theo tinh thần của các văn bản nêu trên thì báo chí phải đƣợc đặt dƣới sự lãnh đạo


19
của Đảng, tuân thủ theo đúng định hƣớng của Đảng và chấp hành quy định pháp luật của
Nhà nƣớc. Cơ quan Đảng và cơ quan quản lý nhà nƣớc có sự phối hợp ở nhiều công việc
quan trọng trong hoạt động quản lý báo chí nhƣ: quy hoạch báo chí, cấp giấy phép hoạt
động báo chí, định hƣớng thông tin cho báo chí, thỏa thuận bổ nhiệm lãnh đạo cơ quan
báo chí, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của cơ quan báo chí...
Bên cạnh đó, pháp luật về báo chí cũng quy định việc Hội Nhà báo cũng là một
trong những chủ thể tham gia quá trình quản lý nhà nƣớc với vai trò tham gia xây dựng
và góp phần thực hiện chính sách thông tin - báo chí; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà báo.

Trong quan hệ quản lý nhà nƣớc, về phía cơ quan báo chí - đối tƣợng bị quản lý,
Tổng biên tập là ngƣời chịu trách nhiệm về nội dung và mọi công việc của cơ quan báo
chí.
- Báo in và nhà báo chịu sự điều chỉnh của các quy phạm xã hội; đây là vấn đề đã
được luật hóa.
Một trong những đặc điểm của báo in là loại hình hoạt động có tác động đến và
chịu sự tác động của nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ trong xã hội. Nhƣ đã trình bày
trong luận văn, báo in vừa mang tính tƣ tƣởng, vừa là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt.
Vì vậy, các quy phạm xã hội đã đƣợc nhà nƣớc đƣa vào các văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ nhƣ báo in không đƣợc đăng tin, bài tranh ảnh khỏa thân và có tính kích dâm, thiếu
thẩm mỹ, không phù hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam (Khoản 2 Điều 5 Nghị định
51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí).
Đối với các nhà báo, là những ngƣời hoạt động nghiệp vụ trong lĩnh vực báo chí,
bên cạnh việc chấp hành các quy định pháp luật về báo chí, còn chịu sự chi phối của các
quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Theo Điểm c Khoản 2 Điều 15 Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Báo chí thì nhà báo có nghĩa vụ “Thƣờng xuyên học tập, rèn luyện nâng
cao trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức và nghiệp vụ báo chí”.
- Đối tượng quản lý nhà nước về báo in là cá nhân, tổ chức thực hiện các hoạt
động báo in. Thông qua việc sử dụng pháp luật để tác động vào các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực báo chí nhằm hướng đến đảm bảo cho báo in, tồn tại, phát triển đúng hướng,


20
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước về mọi mặt.
Báo chí nói chung và báo in nói riêng có vai trò là “diễn đàn của nhân dân”, đảm
bảo cho ngƣời dân thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình. Để thực hiện tốt chức năng
này, báo chí có nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội.
Phản biện xã hội là biểu hiện đặc trƣng chuyên nghiệp nhất của đời sống dân chủ.
Phản biện trong một xã hội dân chủ là môt loại "phản hành động" ("phản hành động" chứ

không phải là "phản động"). Nó xuất hiện song song cùng với các hành động, nó xuất
hiện đối lập với tất cả các hành động. Trong mỗi một xã hội bao giờ cũng có nhiều nhóm
lợi ích khác nhau. Các nhóm lợi ích bao giờ cũng có nhu cầu tiến hành hành động vì một
mục tiêu nào đó. Nhƣng trên mỗi khía cạnh hay mỗi lĩnh vực của đời sống con ngƣời bao
giờ cũng có những cách lý giải khác nhau và do đó có những cách hành động khác nhau
để đạt đƣợc mục tiêu nhƣ vậy. Phản biện tạo ra một giai đoạn đệm cho quá trình hành
động tự nhiên của các nhóm lợi ích, đó là giai đoạn thảo luận và thỏa thuận. Phản biện
làm cho các hành vi chính trị, kinh tế và xã hội trở nên ít chủ quan hơn, tức là sự xung
đột của các nhóm lợi ích đã đƣợc điều chỉnh thông qua thảo luận và thoả thuận. Nói cách
khác, phản biện làm cho những cuộc xung đột trên thực tế trở thành cuộc xung đột của
thảo luận, tức là biến sự xung đột lợi ích trong hành động thành các xung đột lợi ích trong
thảo luận. Phản biện góp phần điều chỉnh các khuynh hƣớng kinh tế, văn hoá, chính trị,
làm cho các khuynh hƣớng đó trở nên khoa học hơn, đúng đắn hơn và gần với đời sống
con ngƣời hơn.
Bất cứ một hệ thống chính trị nào cũng không thể bỏ qua đối tƣợng phục vụ là
đông đảo các tầng lớp nhân dân, cho nên những chính sách lớn liên quan đến phát triển
chung, khi xây dựng đều đƣợc hỏi ý kiến nhân dân. Nhƣng hỏi ý kiến nhân dân là việc
trƣng cầu dân ý không phải là phản biện. Phản biện là một hoạt động khoa học, phản biện
là tranh luận một cách khoa học chứ không phải là hỏi xem ngƣời dân có đồng ý hay
không. So với trƣng cầu dân ý, phản biện hoàn toàn khác về chất. Trƣng cầu dân ý là hỏi
dân. Phản biện không phải là hỏi dân. Phản biện không phải là nhân dân trả lời mà là
nhân dân nói tiếng nói của mình. Tiếng nói ấy đƣợc chuẩn bị một cách chuyên nghiệp
bằng trí tuệ, bằng sự thông hiểu lẫn cả dự đoán về sự xung đột lợi ích khi tiến hành một
hành động xã hội. Về bản chất chính trị, phản biện là một quyền tự do đƣợc xây dựng


×