Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.26 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH THỊ NGỌC CHÂM

THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI,
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
TS. Vũ Đặng Hải Yến – Người đã nhiệt tình, hướng dẫn, chỉ bảo và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình viết luận văn thạc sĩ. Tôi cũng xin chân thành
cảm ơn các Thầy, Cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội đã trang bị cho tôi
những kiến thức, phương pháp nghiên cứu, giúp tôi có thể hiểu và xử lý đề
tài một cách phù hợp nhất với khả năng của mình. Luận văn thạc sĩ này là
kết quả phản ảnh một phần kiến thức chuyên ngành mà tôi đã tiếp nhận,
tích lũy từ các thầy cô dưới mái trường Đại học Luật Hà Nội.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, tạo


điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 2015
Người viết

Đinh Thị Ngọc Châm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự
hỗ trợ, giúp đỡ từ Người hướng dẫn là TS. Vũ Đặng Hải Yến. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây. Những số liệu
trong luận văn phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính
tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham
khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác, và cũng được thể hiện trong
phần tài liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 2015
Người viết

Đinh Thị Ngọc Châm


1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI .... 9
1.1


Khái quát về hợp đồng nhượng quyền thương mại ...................... 9

1.1.1 Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại ............................ 9
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại. ................. 13
1.1.3. Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại. ................. 16
1.2 Khái quát về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại..................................................................... 21
1.2.1 Khái niệm Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại ................................................................................. 21
1.2.2 Nguyên nhân hình thành các thỏa thuận hạn chế canh tranh trong
hợp đồng nhượng quyền thương mại ..................................................... 25
1.2.3 Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại .................................................................... 27
1.2.4 Các dạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại ................................................................................. 31
1.3 Khái niệm Pháp luật điều chỉnh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. ......................................... 37
1.4
Sự cần thiết của Pháp luật điều chỉnh thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ................................ 38
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH THỎA THUẬN
HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.................................................................................. 41
2.1
Nội dung của pháp luật điều chỉnh thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. ............................... 41
2.1.1 Quy định điều chỉnh về các thỏa thuận phân chia khu vực kinh
doanh .................................................................................................... 42
2.1.2 Quy định điều chỉnh về các thỏa thuận phân phối và cung ứng độc

quyền .................................................................................................... 45
2.1.3 Quy định điều chỉnh về các thỏa thuận mua bán cả gói ............... 51


2

2.1.4 Quy định điều chỉnh về thỏa thuận giá bán lại............................. 54
2.1.5 Quy định điều chỉnh về thỏa thuận kiểm soát số lượng đầu vào, đầu
ra của sản phẩm .................................................................................... 56
2.2 Những bất hợp lý trong quy định điều chỉnh thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam 57
CHƯƠNG III : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ..... 62
3.1 Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương
mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh .................................................. 62
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương
mại ở Việt Nam ....................................................................................... 64
3.2.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thỏa thuận quy
định phân chia khu vực kinh doanh ....................................................... 64
3.2.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thỏa thuận phân
phối và cung ứng độc quyền.................................................................. 65
3.2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về các thỏa thuận mua
bán cả gói.............................................................................................. 68
3.2.4 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thỏa thuận giá bán
lại .......................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 72



3

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại phát triển với
tốc độ cao trên thế giới hiện nay, được sử dụng trong hơn 60 lĩnh vực kinh
doanh khác nhau, từ kinh doanh thực phẩm, nhà hàng, khách sạn, dịch vụ
thuê xe giải trí đến các dịch vụ giáo dục, y tế, hỗ trợ doanh nghiệp...
Nhượng quyền thương mại khởi nguồn từ nước Mỹ vào những năm 1850,
lần đầu tiên trên thế giới nhà sản xuất máy khâu Singer của Mỹ ký hợp
đồng nhượng quyền kinh doanh và trở thành người tiên phong trong việc
thỏa thuận dưới hình thức nhượng quyền. Hoạt động nhượng quyền hầu
như chỉ phát triển ở nước Mỹ trong vòng 100 năm[1]. Mãi đến năm 1980,
các nước phát triển khác mới nhận thức được đầy đủ những lợi thế của hoạt
động nhượng quyền thương mại và bắt đầu tập trung phát triển hoạt động
này trong nội bộ quốc gia mình. Hiện nay, hoạt động nhượng quyền thương
mại xuất hiện ở hầu hết các ngành hàng và dịch vụ trong nền kinh tế
thương mại quốc tế. Theo các nghiên cứu mới nhất, cứ 12 phút lại có một
hệ thống nhượng quyền mới ra đời. Ở Mỹ, 90% công ty kinh doanh theo
hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động sau 10 năm trong
khi 82% công ty độc lập tự kinh doanh phải đóng cửa và cũng chỉ có 5%
công ty theo hình thức nhượng quyền thương mại thất bại trong năm đầu
tiên so với 38% công ty độc lập. Điều đó cho thấy sự bùng nổ hình thức
này trên thế giới là điều tất yếu.[7, tr36-37]
Nhượng quyền thương mại đã xuất hiện ở Việt Nam từ đầu những
năm 1990 và lần đầu tiên được đề cập trong hệ thống pháp luật Việt Nam
qua khái niệm “cấp phép đặc quyền kinh doanh” tại Thông tư số

1254/1999/TT-BKHCNMT của Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường.
Tuy nhiên, trong suốt những năm qua hầu như hoạt động này không phát


4

triển tại Việt Nam, phải cho đến khoảng 2005, hoạt động này mới dần trở
nên sôi động hơn với sự tham gia thị trường của nhiều thương hiệu quốc tế
nổi tiếng được bên Việt Nam nhận quyền như: Jollibee, KFC, Highland
coffee, Starbuck coffee, Hệ thống siêu thị Parkson, The Body Shop... Bên
cạnh đó sự xuất hiện các hệ thống nhượng quyền của Việt Nam như cà phê
Trung Nguyên, Phở 24, Qualitea, Bakery Kinh Đô... và đặc biệt có những
thương hiệu Việt Nam tích cực nhượng quyền ra nước ngoài làm cho bức
tranh thị trường Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn.
Hoạt động nhượng quyền thương mại ngày càng phát triển thì các
mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động ngày càng đa
dạng và phức tạp hơn. Trong đó cạnh tranh là một trong những vấn đề then
chốt đảm bảo sự phát triển bền vững của hoạt động này trong nền kinh tế
của đất nước. Mặc dù theo đánh giá thì Luật cạnh tranh 2004 có phạm vi
điều chỉnh bao quát đối với các hành vi phản cạnh tranh và đã thiết lập thiết
chế thực thi Luật đầu tiên ở Việt Nam là Cục Quản lý Cạnh tranh. Tuy
nhiên những quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam vẫn còn quá mới
mẻ, chưa áp dụng nhiều vào thực tế các hoạt động thương mại, đặc biệt là
những quy định này quá chung chung và các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì chưa hề ban hành những quy định hướng dẫn chi tiết để các cơ
quan thực thi Luật thống nhất trong cách hiểu đối với quy định pháp luật về
cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại để đưa ra những điều
chỉnh hợp lý, hiệu quả đối với hoạt động cạnh tranh có tính đặc thù này.
Hơn nữa, để đảm bảo cho tính ổn định và triển vọng phát triển của hệ thống
nhượng quyền thương mại thì hợp đồng nhượng quyền thương mại thường

là sự kết hợp của nhiều thỏa thuận mang màu sắc hạn chế cạnh tranh. Do
vậy, tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” làm luận văn thạc sĩ luật học.


5

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Những năm gần đây, ở nước ta, pháp luật về hạn chế cạnh tranh
trong hoạt động nhượng quyền thương mại ngày càng thu hút được sự quan
tâm đông đảo cả các nhà khoa học. Nhiều công trình khoa học ở những
phạm vi và mức độ tiếp cận khác nhau đã đề cập đến cơ sở lý luận về hoạt
động nhượng quyền thương mại và pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong
hoạt động đặc thù này, tìm hiểu nội dung pháp luật điều chỉnh hạn chế cạnh
tranh của một số nước trên thế giới, nêu ra nhu cầu và phương hướng xây
dựng pháp luật nhượng quyền thương mại nói chung và pháp luật điều
chỉnh hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại nói
riêng.
Đã có những đề tài nghiên cứu riêng dưới hình thức các Luận án tiến
sĩ, Luận văn thạc sĩ hay các bài viết trên tạp chí, phải kể đến như:
-

Vũ Đặng Hải Yến (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp
luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội;


- Nguyễn Thị Nhung (2011), Cơ sở lý luận và thực tiễn về điều chỉnh
pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội
Nguyễn Thị Kim Huệ (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
-

Bùi Ngọc Cường (2007), “Các điều khoản độc quyền trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện
Nhà nước pháp luật;

-

Nguyễn Thanh Tú (2007), “Nhượng quyền thương mại dưới góc độ
pháp luật cạnh tranh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội;


6

-

Vũ Đặng Hải Yến (2008), “Mối quan hệ giữa hoạt động nhượng
quyền thương mại và các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh”, Tạp chí
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

-


Nguyễn Thị Hồng Vân (2011), Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, Văn Phòng Quốc hội.

-

Nguyễn Thị Tình (2014), “Ràng buộc bán kèm trong Hợp đồng
nhượng quyền thương mại”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, Viện
nghiên cứu Châu Âu.

-

Nguyễn Thị Tình (2014), “Pháp luật điều chỉnh hành vi ấn định giá
bán”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp.

-

Trường Đại học Thương Mại (2011), Tăng cường sự phát triển của
hoạt động nhượng quyền thương mại thông qua pháp luật điều chỉnh
hạn chế cạnh tranh, Nghiên cứu khoa học.
Mặc dù đã được khai thác và nghiên cứu dưới nhiều góc độ nhưng

còn nhiều vấn đề tồn tại đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu rộng hơn cả
về mặt lý luận và thực tiễn để góp phần hoàn thiện pháp luật về hạn chế
cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại nói riêng và pháp
luật về nhượng quyền thương mại nói chung.
3.

Mục đích nghiên cứu đề tài


Mục đích của luận văn thạc sĩ là tìm hiểu về cơ sở lý luận và phân
tích thực trạng những quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại nhằm
đưa ra ý kiến hoàn thiện cơ bản sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối
với hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh.
4.

Phạm vi nghiên cứu đề tài

Luận văn thạc sĩ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của
hợp đồng nhượng quyền thương mại, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh


7

trong hợp đồng nhượng quyền thương mại và pháp luật điều chỉnh vấn đề
này tại Việt Nam hiện nay từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị của mình.
5.

Phương pháp nghiên cứu đề tài

Phương pháp nghiên cứu có tính chất bao trùm được áp dụng để thực
hiện quá trình nghiên cứu luận văn thạc sĩ là phương pháp duy vật biện
chứng, tức là các vấn đề đều được nghiên cứu và phân tích trên cơ sở hoàn
cảnh thực tiễn có tính đến các yếu tố kinh tế và các yếu tố về mặt pháp lý.
Bên cạnh đó, luận văn thạc sĩ sử dụng phương pháp phân tích, bình
luận, so sánh để làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động nhượng quyền thương
mại nói chung và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền
thương mại nói riêng.
Ngoài ra, luận văn thạc sĩ còn sử dụng phương pháp tổng hợp, quy

nạp khi nghiên cứu, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại.
6.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Chương II: Thực trạng pháp luật điều chỉnh thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam.
Với nội dung của 3 Chương này, luận văn thạc sĩ sẽ khái quát và làm
rõ những thỏa thuận mang màu sắc hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại. Bên cạnh đó luận văn thạc sĩ cũng sẽ phân tích


8

những quy định pháp luật về những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này. Từ
đó đưa ra một số ý kiến chủ quan góp phần hoàn thiện các quy định điều
chỉnh vấn đề hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương
mại.
Do kiến thức còn hạn hẹp, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong nhận được sự đóng góp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!



9

Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH
TRANH TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
Mục tiêu của chương 1 nhằm làm rõ các vấn đề về hợp đồng nhượng
quyền thương mại, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại.
1.1

Khái quát về hợp đồng nhượng quyền thương mại

1.1.1 Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh hiệu quả
và ít rủi ro của các thương nhân trong hoạt động thương mại. Nhượng
quyền thương mại hay còn được gọi là Franchise là một thuật ngữ được sử
dụng khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Người tiêu dùng trên toàn thế giới
không còn xa lạ gì với những thương hiệu nổi tiếng như đồ ăn nhanh
McDonald’s, Lotteria, KFC, hệ thống siêu thị Metro – đây là những thương
hiệu sử dụng nhượng quyền thương mại làm phương thức kinh doanh.
Theo ước tính, nhượng quyền thương mại ở Châu Á đã đạt 50 tỷ USD/năm.
Chỉ tính riêng ở Trung Quốc, sau thời điểm gia nhập WTO đã có 50 ngành
hàng thực hiện kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại,
tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực này đạt 40%/năm[21].
Dưới góc độ kinh doanh, nhượng quyền thương mại là một cách thức
kinh doanh, là hoạt động thương mại nhằm mở rộng hệ thống kinh doanh
của các thương nhân thông qua việc chia sẻ quyền kinh doanh trên một
thương hiệu cho một thương nhân khác. Quan hệ này được tạo lập bởi ít

nhất hai chủ thể: bên nhượng quyền (là bên có quyền sở hữu đối với
“quyền thương mại”) và bên nhận quyền (là bên độc lập, muốn kinh doanh
bằng quyền thương mại của bên nhượng quyền). Các bên trong quan hệ
thỏa thuận với nhau về việc bên nhượng quyền trao cho bên nhận “quyền
kinh doanh” bao gồm các quyền sử dụng mô hình, kỹ thuật kinh doanh sản


10

phẩm, dịch vụ dưới thương hiệu của mình và nhận lại một khoản phí hay %
doanh thu trong một khoảng thời gian nhất định; bên nhận quyền sử dụng
“quyền thương mại” của bên nhượng quyền để tiến hành hoạt động kinh
doanh nhưng phải chấp nhận tuân thủ một số điều kiện mà bên nhượng
quyền đưa ra.
Đối với bên nhượng quyền, phương thức nhượng quyền thương mại
được coi là cách thức tiếp thị và phân phối sản phẩm, dịch vụ một cách
hiệu quả nhất, nhanh chóng, ít tốn kém về tài chính, nhân lực và các nguồn
lực khác của doanh nghiệp. Còn đối với bên nhận quyền, do được kinh
doanh dưới tên một thương hiệu và được sử dụng một mô hình kinh doanh
mà thành công đã được chứng minh nên nhượng quyền thương mại chính
là sự lựa chọn an toàn và khôn ngoan cho các nhà đầu tư. Theo một thống
kê của Mỹ thì từ năm 1994 đến năm 2004 trung bình chỉ có 5% số doanh
nghiệp hình thành theo mô hình nhượng quyền thương mại là thất bại,
trong khi con số này là 65% cho các doanh nghiệp không theo mô hình
này[11,tr21]. Con số này chỉ cho thấy mức độ rủi ro khi kinh doanh bằng
phương thức khác chứ không có ý nghĩa là nhượng quyền thương mại đem
đến cơ hội thành công tuyệt đối.
Dưới góc độ pháp lý, nhượng quyền thương mại là một hoạt động
thương mại bởi mục đích cuối cùng mà các bên hướng đến là lợi nhuận thu
được từ việc thực hiện hoạt động nhượng “quyền thương mại”. Đối tượng

của hoạt động nhượng quyền thương mại là vô hình – chính là quyền
thương mại – đó là một thể thống nhất tạo bởi rất nhiều các quyền tài sản
khác nhau như quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp
(nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, bí quyết kỹ
thuật…), quyền kinh doanh theo hệ thống vận hành với phương thức quản
lý, tiếp thị, đào tạo của bên nhượng quyền.


11

Mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ nhượng quyền là mối quan
hệ hợp tác dựa trên một thỏa thuận giữa các chủ thể độc lập về cấu trúc
hoạt động, tài chính và cả trách nhiệm pháp lý. Trong đó, bên nhượng
quyền đồng ý trao cho bên nhận quyền quyền sử dụng mô hình, kỹ thuật
kinh doanh sản phẩm, dịch vụ dưới tên thương hiệu của mình và nhận lại
một khoản phí hay phần trăm doanh thu trong thời gian nhất định. Được sự
đồng ý của bên nhượng quyền, bên nhận quyền sử dụng một cách hợp pháp
những dấu hiệu nhận biết thương nhân hay sản phẩm của thương nhân do
bên nhượng quyền làm chủ sở hữu để tiến hành hoạt động kinh doanh. Bên
cạnh đó, bên nhận quyền phải đảm bảo tuân thủ một số điều kiện nhất định
mà bên nhượng quyền đưa ra nhằm đảm bảo tính đồng bộ trong cùng hệ
thống do các bên đang cùng kinh doanh dưới cùng một thương hiệu, để
phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.
Khái niệm nhượng quyền thương mại ở lần đầu được đề cập đến
trong pháp luật Việt Nam tại Điều 284 Luật Thương mại 2005, theo quan
điểm của các nhà làm luật thì:
“Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại theo đó bên
nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo

cách thức tổ chức do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn
hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh,
biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”
Qua khái niệm trên, về cơ bản có thể thấy khái niệm mà các nhà làm
luật nước ta đưa ra là tương thích với cách hiểu chung của pháp luật quốc
tế.


12

Như vậy, xuất phát từ góc độ kinh tế và góc độ pháp lý của hoạt
động nhượng quyền thương mại, có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng
nhượng quyền thương mại như sau: Hợp đồng nhượng quyền thương mại là
thỏa thuận giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền về các nghĩa vụ giữa
các bên trong mối quan hệ này. Trong đó quan trọng nhất là việc bên
nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được sử dụng “quyền thương mại
thuộc sở hữu của mình theo cùng một kế hoạch hay hệ thống tiếp thị của
bên nhượng quyền và được nhận lại khoản phí hoặc % doanh thu của bên
nhận quyền tùy theo thỏa thuận. Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng,
bên nhượng quyền có trách nhiệm giúp đỡ, hướng dẫn, đào tạo cũng như có
quyền kiểm soát việc sử dụng “quyền thương mại” đã được nhượng đối với
bên nhận quyền. Đồng thời, bên nhận quyền phải tuyệt đối tuân thủ kế
hoạch hay hệ thống tiếp thị gắn liền với “quyền thương mại” đã được
chuyển giao. Và hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ là căn cứ phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa các bên, cũng như là căn cứ để giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong quá trình thực hiện thỏa thuận giữa các bên.
Ở Việt Nam, pháp luật không đưa ra định nghĩa về hợp đồng nhượng
quyền thương mại mà chỉ quy định về hình thức của loại hợp đồng này tại

Điều 285 Luật Thương mại năm 2005. Như vậy, có thể hiểu, trên phương
diện pháp luật, hợp đồng nhượng quyền thương mại là một loại hợp đồng
được các thương nhân ký kết trong quá trình thực hiện hoạt động thương
mại, mà cụ thể ở đây chính là thực hiện hoạt động nhượng quyền thương
mại . Vì vậy, hợp đồng này cũng phải có những đặc điểm chung của hợp
đồng được quy định ở chương VI của Bộ luật Dân sự năm 2005 và đáp ứng
đầy đủ các điều kiện mà pháp luật dân sự đặt ra dưới góc độ của một loại
giao dịch dân sự. Thêm vào đó, về cơ bản, nó phải thể hiện được bản chất
của giao dịch nhượng quyền thương mại đã được định nghĩa tại Điều 284
Luật Thương mại năm 2005.


13

Không đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng nhượng quyền thương
mại nói chung, nhưng Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của
Chính phủ lại nêu định nghĩa về các dạng đặc biệt của hợp đồng nhượng
quyền thương mại như: “hợp đồng phát triển quyền thương mại” (Khoản 8
Điều 3) hoặc “hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp” (Khoản 10
Điều 3). Đây là các dạng biến thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại,
thể hiện sự đa dạng về hình thức và phương thức nhượng quyền thương
mại nên việc đưa ra định nghĩa cụ thể về những loại hợp đồng này trong
luật là rất đúng đắn. Tuy nhiên, khi giải thích về nghĩa của cả hai loại hợp
đồng nói trên, các nhà làm luật vẫn sử dụng thuật ngữ “hợp đồng nhượng
quyền thương mại” để làm cầu nối. Như vậy, việc pháp luật thương mại
không đưa ra định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương mại mà lại
dùng chính thuật ngữ này để giải thích cho các thuật ngữ khác có liên quan
là chưa đảm bảo tính hệ thống và tính chính xác cần phải có đối với các
quy định pháp luật trong bối cảnh hiện nay.
1.1.2


Đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại.

Hợp đồng nhượng quyền thương mại có các đặc điểm đặc trưng sau
đây:
Thứ nhất, hợp đồng nhượng quyền thương mại thường có tính
“mẫu” nhằm đảm bảo được tính ổn định của một hệ thống nhượng quyền
và bảo vệ quyền lợi của bên nhượng quyền. Tính “mẫu” của hợp đồng
nhượng quyền thương mại được hiểu là sự giống nhau về nội dung của hợp
đồng nhượng quyền thương mại mà bên nhượng quyền đã đưa ra để các
bên nhận quyền xem xét, cân nhắc từ đó tiến đến giao kết hợp đồng. Thực
tế là, bên nhượng quyền khi quyết định giao kết hợp đồng nhượng quyền
thương mại với một bên nhận quyền mới phải đối mặt với nguy cơ phải
chịu trách nhiệm trước tất cả các bên nhận quyền còn lại khi có một bên
nhận quyền không trung thành với hệ thống nhượng quyền làm ảnh hưởng


14

tới lợi ích của cả hệ thống. Do đó, bất kỳ một hệ thống nhượng quyền
thương mại lớn nào trên thế giới, bên nhượng quyền bao giờ cũng xây dựng
cho hệ thống nhượng quyền thương mại của mình một bản hợp đồng
nhượng quyền vững mạnh theo hướng có lợi cho mình. Bản hợp đồng này
được coi là hợp đồng nhượng quyền thương mại của cả hệ thống và được
áp dụng cho tất cả các chủ thể muốn tham gia nhận quyền. Như vậy, hợp
đồng giữa bên nhượng quyền với các đối tác nhận quyền khác nhau sẽ có
cấu trúc, nội dung, các quyền, nghĩa vụ, mức phí, bồi thường thiệt hại và
các thỏa thuận khác tương tự nhau. Tuy yếu tố này hạn chế sự thể hiện ý
chí của bên nhận quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại nhưng
đây cũng chính là yếu tố mang tính cam kết cao, đảm bảo cho sự phát triển

đồng bộ của hệ thống nhượng quyền, là yếu tố cơ bản mang lại thành công
cho hệ thống nhượng quyền.
Thứ hai, hợp đồng nhượng quyền thương mại bảo vệ tính đồng bộ
của hệ thống nhượng quyền thương mại. Trước hết, dưới góc độ kinh tế,
thương hiệu là một loại tài sản trí tuệ. Đây là tài sản cốt lõi của doanh
nghiệp được xây dựng bằng nhiều yếu tố gồm nhãn hiệu hàng hóa/dịch vụ;
chất lượng hàng hóa dịch vụ, chính sách chăm sóc khách hàng, dịch vụ bảo
hành… Trong một mối quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhượng
quyền đã cấp phép cho bên nhận quyền được cùng sử dụng tên thương hiệu
và mô hình kinh doanh gồm: nhãn hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu, tiêu chí
quảng cáo, tiếp thị, bí quyết kinh doanh và những biểu tượng thương mại
khác đã được khách hàng và thị trường công nhận. Do vậy, khi sử dụng sản
phẩm/dịch vụ được nhượng quyền thương mại, rất khó để phân biệt đâu là
sản phẩm/dịch vụ của bên nhận quyền và bên nhượng quyền. Hợp đồng
nhượng quyền được bên nhượng quyền soạn thảo. Trong đó nội dung hợp
đồng gồm nhiều điều khoản khác nhau và đều hướng đến mục tiêu duy trì
sự đồng bộ về hình ảnh và lợi ích của cả hệ thống.


15

Thứ ba, hợp đồng nhượng quyền quy định việc kiểm soát và hỗ trợ
vừa là quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền.
Điều 284 và Điều 287 Luật Thương mại Việt Nam 2005 có quy định bên
nhượng quyền có nghĩa vụ hướng dẫn, đào tạo bên nhận quyền có thể vận
hành và phát triển mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền. Và nghĩa vụ
này phải được bên nhượng quyền thực hiện trước khi khai trương cửa hàng,
hoặc thành lập doanh nghiệp và cả trong quá trình bên nhận quyền tiến
hành kinh doanh trong thời hạn hợp đồng. Bên cạnh đó pháp luật Việt Nam
cũng quy định cho bên nhượng quyền quyền kiểm soát việc sử dụng

“quyền thương mại” của bên nhận quyền có thể đột xuất hoặc định kỳ. Và
ngược lại đối với bên nhận quyền, nghĩa vụ của họ là tuân thủ nghiêm túc
tất cả những điều kiện, yêu cầu về sự đồng bộ của hệ thống nhượng quyền
do bên nhượng quyền đưa ra. Đồng thời họ cũng luôn mong nhận được sự
hỗ trợ tận tình, thường xuyên từ bên nhượng quyền để làm sao vận hành
hiệu quả nhất mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền. Trong mối quan
hệ hợp tác này để hai bên cùng có lợi thì sự gắn bó giữa các bên là điều cần
thiết và đặc thù hơn so với hợp đồng li–xăng hay hợp đồng đại lý thông
thường. Nếu hợp đồng li-xăng nhãn hiệu chỉ đơn thuần là việc bên li xăng
cho phép bên nhận li xăng gắn nhãn hiệu hàng hóa của bên li–xăng vào
hàng hóa của bên nhận thì nhượng quyền thương mại còn cho phép bên
nhận quyền sử dụng, khai thác nhằm mục đích kinh doanh trực tiếp không
chỉ nhãn hiệu hàng hóa, biểu tượng, khẩu hiệu, kênh tiếp thị, quảng cáo mà
cả quy trình kinh doanh hoặc bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền.
Do đó, bên nhượng quyền phải có quyền kiểm soát sự tuân thủ của bên
nhận quyền để bảo vệ quyền lợi của mình và hệ thống nhượng quyền. Còn
đối với hợp đồng đại lý, bên giao đại lý chỉ thực hiện việc giao hàng cho
bên đại lý chứ không chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa, bên giao
đại lý – chủ sở hữu hàng hóa vẫn là người đầu tiên và trực tiếp gánh vác


16

nghĩa vụ đối với rủi ro đó. Khác mối quan hệ đại lý, trong hợp đồng
nhượng quyền, tuy các bên có mối quan hệ gắn bó, chia sẻ cùng một tên
thương hiệu, các dấu hiệu nhận biết thương mại khác nhưng các chủ thể
trong hợp đồng nhượng quyền vẫn tồn tại như những chủ thể độc lập về
cấu trúc hoạt động, tài chính và cả tư cách pháp lý hay nói cách khác là tự
chịu trách nhiệm đối với các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình kinh doanh
và thực hiện hợp đồng. Vì vậy, nếu hợp đồng nhượng quyền không quy

định nghĩa vụ hỗ trợ của bên nhượng quyền với bên nhận quyền trong quá
trình triển khai kinh doanh thì sẽ không có chủ thể nào dám “liều lĩnh”
nhận quyền thương mại, bất kể hệ thống nhượng quyền thương mại đó
thành công ra sao.
1.1.3.

Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại.

Theo quy định tại Điều 11 Nghị định 35/2006/NĐ-CP thì “trong
trường hợp các bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam", hợp đồng nhượng
quyền thương mại có thể có các nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, điều khoản về đối tượng của hợp đồng nhượng quyền
thương mại.
Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại chính là quyền
thương mại – là tập hợp tất cả các quyền năng của chủ thương hiệu đối với
các đối tượng sở hữu công nghiệp như nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết kinh
doanh, tên thương mại. Ngoài ra, để giá trị quyền thương mại được nâng
lên thì đối tượng nhượng quyền thương mại còn có thể chứa đựng thêm
một số quyền năng khác như quyền được cấp quyền thương mại chung,
quyền phát triển hệ thống nhượng quyền thương mại (khoản 6 Điều 3 Nghị
định 35/2006/NĐ-CP).
Thứ hai, điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ các bên
nhượng quyền.


17

Quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng chính là sự thỏa thuận
các bên về việc phân chia lợi nhuận và trách nhiệm các bên trong hợp
đồng. Quyền và nghĩa vụ các bên nhượng quyền được quy định từ Điều

286 đến Điều 289 Luật thương mại năm 2005, theo đó quyền và nghĩa vụ
các bên do các bên thỏa thuận. Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một
loại hợp đồng song vụ, vì vậy quyền của bên nhượng quyền chính là nghĩa
vụ của bên nhận và ngược lại, từ đó ta có thể thấy bên nhận quyền có các
quyền và nghĩa vụ như sau: Bên nhận quyền có quyền yêu cầu bên nhượng
quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống nhượng
quyền thương mại và được đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận
quyền khác trong hệ thống nhượng quyền thương mại. Bên nhận quyền có
nghĩa vụ phải trả các loại phí cho bên nhận quyền; phải đầu tư đầy đủ cơ sở
vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền và các bí
quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền chuyển giao; chấp nhận sự kiểm
soát của bên nhận quyền; tuân thủ các yêu cầu về sắp xếp cửa hàng; điều
hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại; không
được nhượng quyền lại nếu không có sự chấp thuận của bên nhượng quyền.
Để bảo vệ quyền lợi của bên nhượng quyền, pháp luật Việt Nam
cũng quy định nghĩa vụ của bên nhận quyền sau khi hợp đồng nhượng
quyền thương mại chấm dứt. Theo đó bên nhận quyền phải ngừng ngay
việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại... và các quyền sở hữu trí
tuệ khi hợp đồng chấm dứt. Ngoài ra, bên nhận quyền luôn phải giữ bí mật
về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền trong quá trình kinh doanh
và cả sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại đã kết thúc hoặc chấm
dứt.
Thứ ba, điều khoản về phí nhượng quyền định kỳ và phương
thức thanh toán.


18

Phí nhượng quyền là khoản tiền mà bên nhận phải trả cho bên
nhượng để được sử dụng quyền thương mại và phương thức kinh doanh

của bên nhượng quyền. Đây không phải là giá của nhượng quyền thương
mại mà thực chất là khoản tiền thuê được trả cho chủ sở hữu để được sử
dụng, khai thác công dụng của “quyền thương mại” trong một khoảng thời
gian và trong một phạm vi nhất định.
Khi kinh doanh nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền sẽ
được nhận các khoản phí từ bên nhận quyền gồm phí ban đầu, phí hàng
tháng và các khoản phí khác. Phí ban đầu chính là khoản phí để đào tạo,
chuyển giao công thức cho bên nhận quyền, loại phí này thường chỉ được
tính một lần. Phí hàng tháng là loại phí mà bên nhận quyền phải trả cho
việc duy trì và sử dụng nhãn hiệu, thương hiệu của bên nhượng quyền và
những dịch vụ hỗ trợ mang tính tiếp diễn liên tục như đào tạo, huấn luyện
nhân viên, tiếp thị, nghiên cứu phát triển, sản phẩm mới, phí này có thể là
một khoản cố định hoặc được tính theo % doanh số của bên nhận quyền.
Ngoài ra bên nhượng quyền còn nhận được một số khoản phí khác như phí
quảng cáo, tiếp thị, tiền thuê tài sản, các khoản phí này rất đa dạng và có
thể phát sinh trong bất kỳ lĩnh vực nào liên quan đến nhượng quyền thương
mại.
Thứ tư, điều khoản về thời hạn hiệu lực của hợp đồng và gia hạn
hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Thời hạn hợp đồng là khoảng thời gian tính từ khi hợp đồng có hiệu
lực đến khi chấm dứt hợp đồng, thời hạn này do các bên thỏa thuận phù
hợp với mục đích và hoàn cảnh các bên và các quy định pháp luật. Tuy
pháp luật các nước không quy định trực tiếp thời hạn hợp đồng là bao lâu
nhưng một số quốc gia có quy định thời hạn tối thiểu của hợp đồng như Mỹ
là 5 năm, Trung Quốc là 3 năm.


19

Trong thời hạn hợp đồng hoặc khi hợp đồng hết hạn, các bên có thể

thỏa thuận gia hạn hợp đồng, thời hạn gia hạn cũng do các bên thỏa thuận
phù hợp điều kiện hoàn cảnh của từng bên.
Thứ năm, điều khoản về thay đổi, tạm dừng hay chấm dứt hợp
đồng.
Thay đổi hợp đồng: Trong kinh doanh, không ai có thể lường trước
được những thay đổi về việc kinh doanh của mình. Mặt khác những thay
đổi đó không chỉ diễn ra một lần mà có thể rất nhiều lần, trong những
trường hợp đó các bên không thể cùng nhau thỏa thuận soạn thảo lại hợp
đồng mới. Vì vậy thay đổi hợp đồng được đặt ra như một giải pháp toàn
diện, các bên có thể sửa đổi các điều kiện không còn phù hợp trong hợp
đồng mà không cần hủy bỏ hợp đồng gốc. Khi hợp đồng thay đổi thì quyền
và nghĩa vụ các bên cũng thay đổi tùy thuộc vào sự thỏa thuận thay đổi hợp
đồng của các bên.
Tạm dừng hợp đồng: Trong nhiều trường hợp, do có lý do chính
đáng mà một hoặc hai bên không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng thì các
bên có thể thỏa thuận tạm dừng thực hiện hợp đồng. Nhưng việc tạm dừng
này chỉ trong một thời gian nhất định để các bên khắc phục hoàn cảnh. Hết
thời hạn này các bên phải tiếp tục thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng. Nếu hết hạn tạm dừng mà hai bên thỏa thuận không tiếp tục
thực hiện hợp đồng thì coi như hợp đồng chấm dứt.
Chấm dứt hợp đồng: Chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương
mại gồm chấm dứt thông thường và chấm dứt bất thường, trong đó chấm
dứt thông thường chính là việc hợp đồng nhượng quyền thương mại chấm
dứt khi hết hạn thực hiện hợp đồng, ngược lại chấm dứt bất thường là việc
hợp đồng nhượng quyền thương mại chấm dứt khi chưa hết thời hạn trong
hợp đồng mà một trong hai bên phá sản hoặc chấm dứt hoạt động kinh
doanh của mình.


20


Thứ sáu, Điều khoản về giải quyết tranh chấp
Đây là một vấn đề rất quan trọng trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại bởi lẽ mối quan hệ giữa các chủ thể trong hợp đồng này rất
phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp. Điều khoản về giải quyết tranh chấp phải
được các bên thỏa thuận một cách cụ thể, chi tiết trong hợp đồng vì đó sẽ là
căn cứ giúp việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng, giảm thiệt hại cho các
bên.
Thứ bảy, Điều khoản về đăng ký hoạt động nhượng quyền
thương mại.
Đề đảm bảo khả năng quản lý của nhà nước đối với hoạt động
nhượng quyền thương mại thì việc đăng ký và phê duyệt hợp đồng là rất
cần thiết, đặc biệt khi hoạt động nhượng quyền thương mại còn kèm theo
việc chuyển giao công nghệ. Vấn đề này được các quốc gia trên thế giới
quy định nhằm đảm bảo lợi ích các bên chủ thể và lợi ích chung cho toàn
thể xã hội.
Thứ tám, Điều khoản về công bố thông tin trong hoạt động
nhượng quyền thương mại.
Trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền
thường có ưu thế hơn, vì vậy để bảo vệ lợi ích cho bên nhận quyền thì việc
công bố thông tin về hệ thống nhượng quyền là điều rất quan trọng. Bên
nhượng quyền phải cung cấp các thông tin về hoạt động nhượng quyền của
mình để bên nhận quyền cùa quyết định đúng trong việc mua “quyền
thương mại”. Mặt khác, cũng giúp cơ quan nhà nước có thể quản lý kiểm
soát được hoạt động nhượng quyền thương mại một cách dễ dàng, thuận lợi
hơn.
1.1.4 Hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại
Trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, điều quan trọng nằm ở
nội dung hợp đồng, đó là căn cứ để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ và



21

cũng là cơ sở giải quyết tranh chấp, vì vậy nó phải được thể hiện dưới hình
thức khoa học, dễ hiểu nhất.
Điều 285 Luật thương mại năm 2005 quy định hợp đồng nhượng
quyền thương mại phải được lập thành văn bản hoặc các hình thức pháp lý
có giá trị tương đương. Quy định này phù hợp với tình hình hoạt động
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay vì đây là hoạt động khá
mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ bằng hình thức văn bản mới
có thể ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên một cách rõ ràng, cụ thể.
Ngoài ra, quy định này cũng giúp nhà nước quản lý hoạt động nhượng
quyền thương mại tốt hơn, rõ ràng hơn.
Về ngôn ngữ của hợp đồng nhượng quyền thương mại được quy định
tại Điều 12 Nghị định 35/2006/NĐ-CP, theo đó hợp đồng phải được lập
thành tiếng việt, trong trường hợp nhượng quyền từ Việt Nam ra nước
ngoài, ngôn ngữ hợp đồng sẽ do các bên thỏa thuận.
1.2 Khái quát về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại
1.2.1 Khái niệm Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Hiện
tượng cạnh tranh tồn tại và phát triển tự nhiên ngay cả khi pháp luật không
thừa nhận nó. Sự tồn tại của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vì thế cũng
là một điều tất yếu. Sau một quá trình phát triển nhất định, trong nền kinh
tế sẽ có sự phân hóa rõ rệt giữa các đối tượng kinh doanh, xuất hiện một số
đối tượng kinh doanh mang trong mình tiềm lực kinh doanh, bên cạnh đó
cũng có những đối tượng kinh doanh có tiềm lực kém hơn, sử dụng những
cơ hội kinh doanh còn lại để tồn tại. Quy luật cạnh tranh thể hiện rõ nét
nhất ở chỗ, các đối tượng kinh doanh nhỏ hoặc kém ưu thế luôn luôn tìm và

tạo ra các cơ hội để vươn xa hơn và nếu việc làm này thành công, các đối


22

tượng kinh doanh này đã vô tình thách thức các đối tượng kinh doanh đang
chiếm ưu thế trên thương trường. Các chủ thể kinh doanh mạnh, do tác
động của quy luật cạnh tranh sẽ dùng mọi cách để bảo vệ tốt nhất quyền lợi
mà mình đã có. Một trong những cách bảo vệ vị trí của mình trên những thị
trường liên quan nhất định trước những đối thủ cạnh tranh hiện có hoặc
tiềm năng đó là một nhóm đối tượng kinh doanh đặt ra một số thỏa thuận
nhằm mục đích hạn chế sự cạnh tranh của các đối thủ khác.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được dùng để chỉ sự thông đồng của
một số chủ thể kinh doanh có những lợi thế trên những thị trường nhất định
mà nội dung của những thỏa thuận này nhằm vào việc duy trì và tiếp tục
nâng cao hơn nữa vị thế của các thành viên của thỏa thuận đồng thời hạn
chế cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh khác.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể là thỏa thuận giữa các tác nhân
kinh tế nằm ở vị trí ngang nhau trong một chu trình sản xuất hoặc phân
phối (các nhà sản xuất với nhau hoặc các nhà phân phối với nhau) hoặc là
thỏa thuận giữa các tác nhân kinh tế nằm ở vị trí khác nhau trong một chu
trình sản xuất hoặc lưu thông (thỏa thuận giữa nhà sản xuất và người phân
phối). Dưới góc độ kinh tế, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ra đời dựa trên
tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế - xã hội. Ban đầu, những thỏa
thuận này, nhìn ở một góc độ nhất định sẽ đem lại hiệu quả kinh tế, tuy
nhiên, nếu để các thỏa thuận này phát triển một cách tự do, tất yếu dẫn đến
một hệ quả là sẽ có những nhóm độc quyền trong từng thị trường hàng hóa,
dịch vụ nhất định[22, tr57-59].
Giống như các hợp đồng thương mại khác, nội dung của hợp đồng
nhượng quyền thương mại cũng thể hiện các quyền và nghĩa vụ tương ứng

của các bên. Tuy nhiên với những đặc thù nhất định của họat động nhượng
quyền thương mại nên hợp đồng nhượng quyền thương mại có những điểm
khác biệt. Chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại là các thương


×