Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TẠ QUỲNH ANH

XÃ HỘI HÓA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số

: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ HUYỀN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình
nào khác.



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LTADS

: Luật Thi hành án dân sự

BLDS

: Bộ luật Dân sự

PLTHADS

: Pháp lệnh thi hành án dân sự

THADS

: Thi hành án dân sự

THA

:Thi hành án

UBND

:Ủy ban nhân dân

TP.HCM:

:Thành phố Hồ Chí Minh



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............5
1.1. Khái niệm và mục đích của xã hội hóa thi hành án dân sự ................................................................5
1.1.1. Khái niệm xã hội hóa thi hành án dân sự ............................................................................................. 5
1.1.2. Mục đích của xã hội hóa thi hành án dân sự. ...................................................................................... 7
1.2. Cơ sở của xã hội hóa thi hành án dân sự ..........................................................................................10
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chủ trương xã hội hóa thi hành án dân sự .................... 10
1.2.2. Cơ sở lý luận của xã hội hóa thi hành án dân sự .............................................................................. 12
1.2.3. Cơ sở pháp lý của mô hình Thừa phát lại tại Việt Nam ................................................................. 13
1.2.4. Cơ sở thực tiễn của xã hội hóa thi hành án dân sự........................................................................... 15
1.3. Nội dung của xã hội hóa thi hành án dân sự ....................................................................................17
1.4. Kinh nghiệm xã hội hóa thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới ........................................19
1.4.1. Cộng hòa Pháp .............................................................................................................................................. 19
1.4.2. Nhật Bản ......................................................................................................................................................... 21
1.4.3. Cộng hòa Bulgaria........................................................................................................................................ 22
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................................................26
2.1. Thực trạng pháp luật về xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam trước ngày 1/7/2009 .................26
2.2. Thực trạng pháp luật về xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam sau ngày 01/07/2009.................28
2.2.1. Xã hội hóa THADS thể hiện thông qua các quy định về thí điểm Thừa phát lại tại Việt Nam... 28
2.2.2. Các quy định của Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thể hiện nội dung xã hội
hóa thi hành án dân sự ............................................................................................................................................ 43
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT XÃ HỘI HÓA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................51
3.1. Thực tiễn thực hiện xã hội hóa thi hành án dân sự .............................................................................51
3.1.1. Thực tiễn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại Việt Nam ................................................... 51
3.1.2. Thực tiễn thực hiện các hoạt động mang tính xã hội hóa theo quy định của Luật Thi hành án
dân sự năm 2008 và những vấn đề đặt ra đối với Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm
2014...……………………………………....………………………………………………………………….....60

3.2. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa thi hành án dân sự.........................................................................64
3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về pháp luật xã hội hóa thi hành án dân sự .................... 65
3.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Thừa phát lại ........................................................ 66
3.2.3. Hoàn thiện một số quy định của Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 liên quan
đến xã hội hóa thi hành án dân sự.......................................................................................................................... 69
KẾT LUẬN .......................................................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................72


1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
THADS có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và trong quá trình
giải quyết vụ án nói riêng. Hoạt động THADS là hoạt động thi hành bản án, quyết định của
Toà án, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ
vững ổn định chính trị, xã hội; tăng cường hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; bảo đảm
tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quyết định, bản án
của Toà án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành xong trong thực tế. Chính vì tầm quan
trọng như vậy nên Điều 106 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Bản án, quyết định của Toà
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan,
tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Xuất phát từ những yêu cầu đó,
những năm qua công tác THA nói chung đã có nhiều tiến bộ và đạt được kết quả nhất định,
góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn kỉ cương
pháp chế. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra đối với công tác THA, nhất là trong điều kiện
Việt Nam hội nhập Quốc tế và khu vực thì công tác THA vẫn còn nhiều yếu kém. Hàng năm
vẫn còn một số lượng khá lớn các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật,
nhất là các bản án về dân sự chưa được thi hành. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trên, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do công tác THA bao gồm nhiều công việc khác nhau
nếu chỉ do các cơ quan THA thực hiện thì nhiều khi cơ quan này bị quá tải trong công việc
và không thể tránh khỏi sự chây ỳ, chậm trễ. Mặt khác, nếu việc THA chỉ do cơ quan THA

thực hiện thì sẽ không huy động được nguồn lực của xã hội cho công tác THA. Nghị quyết
số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 nêu rõ: “Xây dựng Bộ
luật Thi hành án, xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống
nhất công tác thi hành án”. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ xã hội hoá công tác THA:
“Từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức
không phải là cơ quan Nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”.
Như vậy, xã hội hoá hoạt động THA là một định hướng, chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước, một nhiệm vụ trọng tâm của tiến trình cải cách tư pháp. Việc làm rõ nội dung xã


2
hội hóa THADS ở Việt Nam là yêu cầu cấp thiết đáp ứng đòi hỏi của quá trình cải cách tư
pháp ở nước ta. Với mong muốn luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng
như thực tiễn về xã hội hóa hoạt động THADS, trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện pháp luật
TTDS Việt Nam nói chung, pháp luật về xã hội hóa hoạt động THADS nói riêng, tác giả đã
lựa chọn đề tài: “Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” cho luận văn thạc
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
THADS là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đã được một số cơ quan, nhà luật học ở
trong nước quan tâm nghiên cứu. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp phối
hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh đã có đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ:
“Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT; Cục
Quản lý Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số 96-98-027/ĐT; Bộ Tư pháp
chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ
chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới”; tác giả Nguyễn Công
Long có công trình: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sỹ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000); tác giả Nguyễn Thanh Thủy có công trình: “Hoàn

thiện pháp luật thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2001); tác giả Lê Xuân Hồng có công trình “Xã hội hóa thi hành án dân sự”, (Luận
văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002); tác giả Lê Anh Tuấn có công
trình “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam”, (Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2004); tác giả Phạm Hùng Cường có công trình “Mô hình Thừa phát
lại tại thành phố Hồ Chí Minh - bước đột phá trong việc thực hiện xã hội hóa thi hành án
dân sự tại Việt Nam”, (Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2010), tác giả Nguyễn Thanh Thư có công trình “Thừa phát lại – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”, (Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014). Ngoài ra,
còn một số bài viết liên quan đến THADS được đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học như “Thí điểm mô hình Thừa phát lại tại
Thành phố Hồ Chí Minh những vấn đề đặt ra”, (TS. Bùi Thị Huyền, Tạp chí Luật học, Đại
học Luật Hà Nội, 2011, Số 7, trang 32 – 37), “Xu hướng xã hội hóa thi hành án dân sự từ


3
việc thí điểm hoạt động thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh”, (TS. Nguyễn Công
Bình, Tạp chí Luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2012, Số 6 (145), trang 9 – 14), “Thừa phát
lại bước đầu đã đi vào lòng dân và xã hội, là người trợ thủ đắc lực cho công tác thi hành án
dân sự và công tác tư pháp khác” (Hà Hùng Cường, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư
pháp, Số 10 (247), trang 2 - 6). Các công trình trên đã giải quyết được các vấn đề về xã hội
hóa THADS ở các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, luận văn mong muốn làm rõ hơn một số
vấn đề lý luận về xã hội hóa THADS và thực tiễn thực hiện chủ trương xã hội hóa THADS
ở Việt Nam, nhất là tại thời điểm khi đã kết thúc thời gian thí điểm chế định Thừa phát lại
tại TP.HCM, Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành lựa chọn 12 địa phương mở rộng thí
điểm và Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về việc tiếp
tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại đến hết ngày 31/12/2015 để có thể đánh giá
đầy đủ, toàn diện về mô hình này như một thiết chế độc lập.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động

xã hội hóa THADS ở Việt Nam, nêu ra những kiến nghị mang tính hệ thống để khắc phục
tình trạng tồn đọng án cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động xã hội hóa THADS một cách
khách quan, công bằng, khoa học.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội hóa
THADS như: Khái niệm, nội dung và mục đích của xã hội hóa THADS; các quy định của
pháp luật về việc thực hiện xã hội hóa THADS và kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động này.
Ngoài ra, kinh nghiệm xã hội hóa THADS ở các quốc gia trên thế giới và hiệu quả mà các
quốc gia này đạt được sẽ là bài học kinh nghiệm cho nước ta khi thực hiện xã hội hóa.
Xã hội hóa THADS là một đề tài có nhiều nội dung khác nhau. Tuy vậy, do thời gian
nghiên cứu có hạn và trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ, phạm vi nghiên cứu được giới
hạn ở những vấn đề lý luận về xã hội hóa THADS như: khái niệm, nội dung, mục đích của
xã hội hóa THADS; thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về xã hội hóa THADS, thực
trạng thực hiện xã hội hóa THADS và các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về hoạt động này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài


4
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam, về cải cách tư pháp và xây dựng hệ thống pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương pháp hệ
thống, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và phương pháp thống kê.
6. Những điểm mới của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan đến xã hội
hóa THADS. Trong đề tài có những điểm mới sau:
- Hoàn thiện khái niệm xã hội hóa THADS, xác định chính xác nội dung và mục đích
của xã hội hóa THADS.
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật về xã hội hóa THADS và thực

hiện xã hội hóa THADS ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất được những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện những quy định của pháp
luật THADS về xã hội hóa THA.
7. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục chữ viết tắt;
phần nội dung của Luận văn được chia làm 3 chương chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xã hội hóa thi hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật xã hội
hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay


5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA

1.1.

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Khái niệm và mục đích của xã hội hóa thi hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm xã hội hóa thi hành án dân sự
THADS là một thủ tục do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện theo quy định
của pháp luật để thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và các quyết định của
các cơ quan tài phán khác theo quy định của pháp luật.
Trên thế giới hiện nay đang tồn tại ba mô hình THADS: THA công, THA bán công
và THA tư nhân [25, tr.509,511]. Ở mô hình THA bán công, việc tổ chức THADS sẽ do cả
công chức và viên chức đảm nhiệm, thù lao của họ được lấy từ phí THA do đương sự nộp,
trường hợp phí THA đương sự nộp không đủ để chi trả thì Nhà nước hỗ trợ. Một số nước
như Nhật Bản, Đức, Hà Lan, Áo, Thụy Sỹ... theo mô hình tổ chức THA bán công, việc THA

do viên chức THA đảm nhiệm, trên nguyên tắc tự lấy thu bù đắp chi phí THA [27].
Ngược lại, Thụy Điển, Trung Quốc, Nga, Thái Lan, Singapore và các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu trước đây lại theo mô hình THA công, tổ chức THA bao gồm hệ thống
các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, các Chấp hành viên là công chức, viên chức hưởng
lương từ ngân sách nhà nước [27]. Họ chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hành vi THA
gây thiệt hại cho đương sự hoặc người thứ ba. Lệ phí THA được nộp cho ngân sách Nhà
nước, có trích lại một phần để trang trải thêm cho hoạt động của cơ quan THADS.
Còn đối với mô hình tổ chức THA tư nhân, việc tổ chức THA do các văn phòng, tổ
chức THADS tư nhân đảm nhiệm. Các văn phòng, tổ chức THADS tư nhân được giao thực
hiện một số công việc về THADS, tự chủ về kinh phí hoạt động, chịu sự quản lý của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn THA của mình. Pháp, Bỉ, Hà Lan, Hungary và Lucxembourg là những
quốc gia thực hiện mô hình THADS tư nhân do Thừa phát lại thực hiện. Nhà nước trao cho
Thừa phát lại trách nhiệm thi hành các bản án dân sự do Toà án tuyên. Thừa phát lại không
phải là công chức nhà nước, được hành nghề theo quy chế tự do và hưởng thù lao từ lệ phí
THA thu được theo tỷ lệ nhất định. Ở Pháp, Thừa phát lại chịu trách nhiệm trước Toà án về
những sai phạm chuyên môn và chịu trách nhiệm trước các tổ chức chuyên môn của nghề
hoặc trước Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm thẩm quyền rộng về những sai


6
phạm kỷ luật của mình. Sự xuất hiện của mô hình THA tư nhân xuất phát từ quan điểm xã
hội hóa hoạt động THADS [27].
So sánh hai mô hình THADS, có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình THADS tư
nhân so với mô hình THADS công. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của Thừa
phát lại; tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để Thừa phát lại phát huy tính tích
cực, chủ động, nhiệt tình trong hoạt động của mình; giảm nhẹ sự bao cấp của Nhà nước; bộ
máy Nhà nước tinh giản, gọn nhẹ; tách bạch chức năng quản lý Nhà nước và chức năng
cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực THADS.
Xét thực tiễn tố tụng ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh Toà án tư pháp thì việc giải

quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài thương mại đã phát huy được hiệu quả
tích cực, tiếp đến là mô hình công chứng tư cũng là nút gỡ quan trọng cho việc cải cách thủ
tục hành chính. Mô hình Thừa phát lại đã từng là mô hình THADS duy nhất được áp dụng
dưới thời Pháp thuộc một cách có hiệu quả. Do vậy, việc đổi mới mô hình THADS theo mô
hình THA tư nhân và từng bước xã hội hóa một số công việc mà việc thực hiện không nhất
thiết phải sử dụng quyền lực của Nhà nước là cần thiết.
Xã hội hoá là làm cho việc gì đó, điều gì đó trở thành chung của xã hội [24, tr.1100].
Vì vậy, xã hội hoá THADS thực chất là việc chuyển giao cho các cá nhân, tổ chức tư nhân
thực hiện một số công việc về THADS. Nếu THADS được hiểu theo nghĩa rộng là sự thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của các bên theo phán quyết của Toà án thì xã hội hóa THADS là
việc vận động, tổ chức và nâng cao trách nhiệm của các bên có quyền, nghĩa vụ, của cộng
đồng và của toàn xã hội trong việc thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án. Nếu các
đương sự có hiểu biết đúng về pháp luật, nhận thức đúng các quyền và nghĩa vụ của họ
trong THADS thì họ sẽ tự nguyện thực hiện và việc THADS sẽ thuận lợi. Vì vậy, xã hội hoá
THADS trước hết phải động viên được các cá nhân, cơ quan và tổ chức tham gia vào việc
tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho các đương sự, thuyết phục các đương sự tự nguyện
THADS.
Trong những năm gần đây, chúng ta nói nhiều đến việc xã hội hóa như là một giải
pháp cải cách tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, tăng cường trách nhiệm và sự tham
gia của đông đảo nhân dân mà trọng tâm là chuyển những công việc không cần thiết phải do
Nhà nước trực tiếp thực hiện cho xã hội. Đây là một hướng đi tất yếu trong bối cảnh xây


7
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tăng cường hội nhập quốc tế
của đất nước ta hiện nay.
Như vậy, xã hội hóa thi hành án dân sự là quá trình Nhà nước thực hiện đổi mới
phương thức tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự; theo đó, Nhà nước từng bước chuyển
giao hoạt động thi hành án dân sự cho các cá nhân, tổ chức hành nghề tự do thực hiện
nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị

trường và hội nhập quốc tế.
1.1.2. Mục đích của xã hội hóa thi hành án dân sự.
Mục đích của THADS là thực hiện được các quyết định trong bản án, quyết định dân
sự được đưa ra thi hành nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức và lợi ích của Nhà nước. Việc THADS phức tạp nên trước hết phải do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền - Cơ quan THADS tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, công tác THADS bao
gồm nhiều công việc khác nhau, nếu chỉ do cơ quan THADS thực hiện thì nhiều khi cơ quan
này không thể thực hiện được vì quá tải trong công việc sẽ dẫn đến sự chây ỳ, chậm trễ. Mặt
khác, THADS bao gồm nhiều việc phức tạp, việc thực hiện đòi hỏi phải tốn cả sức người và
sức của. Nếu việc THADS chỉ do các cơ quan THADS thực hiện thì không thể huy động
được các nguồn lực trong xã hội để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho công tác tổ chức THADS.
Ngoài ra, chi phí của Nhà nước cho công tác THADS sẽ rất lớn và là một trong những
nguyên nhân gây bội chi ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, THADS trước hết là vì quyền, lợi
ích của các đương sự cho nên nếu mọi việc về THADS đều do cơ quan THADS của Nhà
nước đảm nhiệm thực hiện là không hợp lý. Để huy động các nguồn lực trong xã hội và đổi
mới phương thức quản lý xã hội, Đảng đã chủ trương Nhà nước cần giảm việc can thiệp quá
sâu vào quyền điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở và các quan hệ dân sự,
tập trung hướng mạnh vào xây dựng thể chế, sử dụng các công cụ điều hành vĩ mô. Vì vậy,
việc xã hội hóa THADS ở nước ta là rất cần thiết, phù hợp quan điểm của Đảng về cải cách
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và cải cách tư pháp ở nước ta [48, tr.45]. Tóm
lại, xã hội hóa THADS bao gồm những mục đích sau:
Thứ nhất, xã hội hóa THADS làm giảm khối lượng công việc của cơ quan THA, khắc
phục được phần nào tình trạng tồn đọng án, đồng thời tiết kiệm chi phí THA.


8
Theo thống kê trong Báo cáo về Kết quả công tác thi hành án dân sự năm 2014 và
phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2015: Tính đến hết ngày 30/9/2014, số chuyển kỳ
sau là 248.203 việc (chiếm 31,85%) tương ứng với số tiền 56.127 tỷ 149 triệu 948 nghìn
đồng (59% về tiền), tuy đã tăng 9.059 việc (3,78%) và 14.529 tỷ 558 triệu 459 nghìn đồng

(34,92%) so với số còn phải giải quyết của năm 2013 chuyển sang năm 2014 nhưng vẫn
không đạt chỉ tiêu Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao. Cụ thể, vẫn còn một số địa phương chưa
hoàn thành chỉ tiêu thi hành án xong về việc và về tiền (12 địa phương bao gồm: Bình
Dương, Bình Thuận, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Nai, Hải Phòng, Hậu Giang, Khánh Hòa,
Quảng Ngãi, Sóc Trăng, Tây Ninh, Trà Vinh không hoàn thành cả 02 chỉ tiêu; 01 địa
phương: Kiên Giang không hoàn thành chỉ tiêu về việc và 07 địa phương Bà Rịa-Vũng
Tàu, Hải Dương, Ninh Bình, Ninh Thuận, Phú Thọ, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc không hoàn
thành chỉ tiêu về tiền). Số việc hoãn, trả đơn, ủy thác THA chiếm số lượng lớn (riêng số
hoãn là 131.222 việc, tương ứng với số tiền 19.113 tỷ 465 triệu 625 nghìn đồng, chiếm 17%
về việc và 20% về tiền so với tổng số thụ lý) [13].
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng án tồn đọng là do thiếu đội ngũ
Chấp hành viên làm công tác THA. Thực tế cho thấy những tranh chấp trong đời sống hằng
ngày luôn chứa đựng sự phức tạp, đối lập, giằng co về quyền và lợi ích giữa các đương sự
đòi hỏi phải giải quyết. Khi đã có bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành, không ai
khác chính Chấp hành viên là những người phải đối mặt với sự bức xúc đó: bên được THA yêu
cầu, hối thúc thực hiện; ngược lại, bên phải THA nhiều trường hợp cố tình trốn tránh, gây
sức ép, chống đối, trì hoãn nghĩa vụ THA bằng mọi cách có thể. Do đó, khi giao một số
công việc cho cá nhân, tổ chức khác thực hiện sẽ giảm thiểu được số lượng các công việc
mà Chấp hành viên phải thực hiện, Nhà nước sẽ có thêm kinh phí, tăng phụ cấp cho Chấp
hành viên, nâng cao, thu hút được đội ngũ Chấp hành viên làm công tác THA.
Thứ hai, xã hội hóa THA huy động được các nguồn lực trong xã hội tạo ra sức mạnh
tổng hợp, khắc phục tình trạng chây ỳ, trì trệ trong THADS.
Do THA tồn tại như một loại hình dịch vụ công nên khi thực hiện xã hội hóa, tính
chất, phương cách THA, lề lối, thái độ phục vụ trong THADS sẽ tốt hơn, tránh được quan
liêu, cửa quyền, sách nhiễu - một hiện tượng đang tiềm ẩn trong hoạt động THADS hiện
nay. Khi đã được xã hội hóa, các tổ chức, các cá nhân có chức năng THA sẽ cạnh tranh lành


9
mạnh trên cơ sở nâng cao hiệu quả THA để bảo vệ uy tín của tổ chức mình. Như vậy, người

dân sẽ có thêm nhiều sự lựa chọn trong THA phù hợp với điều kiện, khả năng cụ thể của
mình.
Bên cạnh đó, xã hội hóa công tác THADS sẽ nâng cao được tinh thần trách nhiệm cá
nhân và sự tận tụy của nhân viên THA trong công tác THA, với chế độ lương bổng, phụ cấp
hợp lý cùng với những chính sách đãi ngộ khác sẽ góp phần cải thiện đáng kể thu nhập cho
các nhân viên THA, tạo nên sự yên tâm của họ đối với nghề nghiệp của mình, giúp họ thật
sự gắn bó và yêu nghề hơn.
Xã hội hóa THA sẽ hình thành nên tổ chức THA tư nhân, qua đó, bổ sung thêm một
lực lượng THA chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn cao, không chỉ là kiến thức pháp lý
mà còn hiểu biết sâu sắc các lĩnh vực khác như kinh tế, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,…
Điều này sẽ giúp bên được THA có điều kiện xác minh chính xác thực trạng tài sản của bên
phải THA, nâng cao số lượng án có điều kiện thi hành, đảm bảo quyền lợi cho bên được
THA. Việc xã hội hóa công tác này sẽ dẫn đến việc người dân có nhiều lựa chọn trong việc
nhờ cơ quan, tổ chức nào thi hành bản án, quyết định liên quan. Vì vậy, các cơ quan, tổ chức
THA cần phải cạnh tranh, nâng cao năng lực, nâng cao hiệu quả THA để bảo vệ uy tín của
mình.
Thứ ba, xã hội hóa THADS làm giảm gánh nặng về nhân lực, chi phí của Nhà nước
cho hoạt động THA.
Theo Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12 tháng 01 năm 2015 về Tổng kết công tác tư
pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015:
Hệ thống cơ quan THADS ở nước ta hiện nay có 63 Cục Thi hành án dân sự, 705 Chi cục
THADS, 3.609 Chấp hành viên, 582 Thẩm tra viên, 1.783 Thư ký THA. Năm 2014, toàn
ngành thụ lý là 779.298 việc (trong đó, theo đơn là 163.846 việc). Như vậy, riêng năm 2014,
mỗi Chấp hành viên phải giải quyết 215,93 việc, trong đó 45,40 việc theo đơn yêu cầu [14].
Để tổ chức thi hành một việc THA, Chấp hành viên phải thực hiện rất nhiều trình tự, thủ tục
pháp luật quy định, mất nhiều thời gian, kinh phí Nhà nước và công sức. Đối với những vụ
việc phức tạp, kéo dài, có khiếu nại, việc tổ chức THA sẽ gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tồn
đọng. Số lượng chấp hành viên như hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu giải quyết các
việc cần thi hành của ngành THADS. Nếu thực hiện xã hội hóa, hoạt động THA sẽ có sự



10
tham gia của một số lượng lớn hơn các cá nhân, tổ chức. Họ sẽ là nguồn nhân lực bổ sung
dồi dào cho ngành THA. Đồng thời, hoạt động THA có sự tham gia của các nhân tố mới này
sẽ góp phần giảm bớt tình trạng cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả của bộ máy hành chính
nước ta.
Thứ tư, xã hội hóa THA còn tạo ra khả năng kinh doanh của các cá nhân, doanh
nghiệp, đồng thời tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội.
Ngay từ khi có chủ trương tiến hành xã hội hóa THA, các cá nhân, doanh nghiệp đã
quan tâm và tích cực tham gia đóng góp ý kiến nhằm giúp các nhà làm luật xây dựng được
các quy định hợp lý để các cá nhân, tổ chức tiến hành tham gia kinh doanh trong lĩnh vực
này được thuận lợi, đúng pháp luật. Dự kiến với số lượng việc cần thi hành hàng năm thì
Nhà nước có thể cho phép thành lập nhiều tổ chức THA với sự tham gia của nhiều cá nhân
trong đó có các cá nhân đủ điều kiện thực hiện THA và các cá nhân đóng vai trò phụ trợ
trong quá trình hoạt động THA. Như vậy, xã hội hóa THADS còn góp phần phát triển kinh
tế - xã hội trên một lĩnh vực khác - đó là góp phần mở rộng các ngành nghề kinh doanh và
giải quyết việc làm hàng năm cho người dân.
Thứ năm, xã hội hóa THADS tạo môi trường pháp lý phù hợp với nhu cầu hội nhập
quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường và hợp tác quốc tề về nhiều mặt như hiện nay, nhu cầu
có một hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống các quy định về THA nói riêng phù hợp
với các quy định của quốc tế là cần thiết. Hiện nay, trên thế giới, nhiều nước đã quy định
THADS là một loại hình dịch vụ tư nhân được tiến hành bởi các cá nhân, tổ chức có đủ điều
kiện. Khi Việt Nam xây dựng các quy định tương tự về THADS sẽ tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài tham gia vào các hoạt động THA tại Việt
Nam. Đồng thời tạo môi trường pháp lý tương đồng với các nước, điều này làm giảm bớt sự
khác biệt về luật pháp giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước trên thế giới.
1.2.

Cơ sở của xã hội hóa thi hành án dân sự


1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chủ trương xã hội hóa thi hành án dân sự
Trong tiến trình đổi mới của đất nước, vấn đề cải cách hành chính, cải cách tư pháp,
xây dựng nhà nước pháp quyền với mục đích xây dựng một nền hành chính, tư pháp trong
sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực, đáp ứng và phục vụ đắc lực cho công cuộc


11
đổi mới và phát triển đất nước có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc đổi mới nhằm tăng cường
hiệu quả, hiệu lực hoạt động Tư pháp là nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm, trong đó đẩy mạnh xã hội hoá một số nội dung hoạt động Tư pháp, khuyến
khích các tổ chức và cá nhân có đủ điều kiện tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công cho
xã hội là một giải pháp rất được quan tâm. Nhiều văn kiện quan trọng của Đảng đã đề cập
đến vấn đề này như Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng, cụ thể là các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong giai đoạn tới; Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định
rõ việc xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra phương
hướng: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các
loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập
chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.., từng bước thực hiện
việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ
quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án dân sự”; “Nghiên cứu chế định Thừa
phát lại (thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài
năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. Trên cơ sở Nghị quyết
số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành Kế
hoạch số 05-KH/CCTP ngày 22/02/2006, trong đó xác định: Nghiên cứu mô hình tổ chức
Thừa phát lại, trước mắt tổ chức thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh; Ban cán sự đảng Bộ

Tư pháp chủ trì, phối hợp cùng Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh thực hiện”.
Nghị quyết số 24/2008/QH12 đã thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về thí
điểm Thừa phát lại, xã hội hóa hoạt động THADS như đã nêu trên. Sau thời gian thực hiện thí
điểm, Chính phủ đã chỉ đạo tổng kết theo quy định, xây dựng Báo cáo số 299/BC-CP ngày
29/10/2012 về tổng kết việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và trên cơ sở đó xây dựng
Nghị quyết số 36/2012/QH-13 ngày 23/11/2012 quy định về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế


12
định Thừa phát lại tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến hết ngày 31/12/2015 và
tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm để báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định
tại kì họp cuối năm 2015. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngay từ đầu năm 2013, Bộ Tư
pháp đã khẩn trương, chủ động phối hợp với Bộ, ngành liên quan xây dựng và trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại” (Đề
án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 510/QĐ-TTg ngày 25/3/2013,
sau đây gọi tắt là Đề án của Thủ tướng Chính phủ).
1.2.2. Cơ sở lý luận của xã hội hóa thi hành án dân sự
Lý luận Mác – Lênin về Nhà nước và pháp luật đã chỉ rõ, với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, Nhà nước hình thành như một quy luật tất yếu, nhưng đến một lúc nào đó,
Nhà nước sẽ tiêu vong, các chức năng của Nhà nước sẽ được chuyển cho các tổ chức xã hội
tự quản. Tất nhiên, để đi đến thời kỳ đó, Nhà nước và xã hội loài người còn phải trải qua
một thời kỳ phát triển rất lâu dài, song những gì mà lịch sử xã hội loài người trải qua đã
chứng minh quy luật đó. Từ Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư
bản đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một quá trình mà chức năng xã hội của Nhà nước
ngày càng đóng vai trò quan trọng. Và đến một lúc nào đó, khi xã hội không còn giai cấp,
chức năng giai cấp của Nhà nước không còn, thì Nhà nước sẽ không còn đúng với nguyên
nghĩa của nó như là bộ máy chuyên chính giai cấp và sẽ trở thành một tổ chức xã hội rộng
lớn, như vậy, có thể nói, xã hội hóa công việc Nhà nước có tính quy luật khách quan [29,
tr.13]

Hiện nay, với chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, từng bước xoá bỏ cơ chế
quản lý kế hoạch tập trung, bao cấp, tạo sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia các giao lưu
dân sự, kinh tế. Có thể coi đây là một biểu hiện sinh động và rõ nét nhất của việc xã hội hóa
trong lĩnh vực phát triển kinh tế - lĩnh vực đóng vai trò quyết định trong đời sống xã hội.
Trên cơ sở nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều lĩnh vực trước đây vẫn
được coi là chỉ thuộc chức năng của các cơ quan Nhà nước đã được giao cho cá nhân, tổ
chức phi Nhà nước thực hiện.
Như chính tên gọi của nó, hoạt động THADS mang đậm tính chất dân sự. Mặc dù
phán quyết của Toà án có giá trị bắt buộc đối với các bên trong một vụ án cụ thể, nhưng về


13
bản chất đó mới chỉ là sự phân xử nhân danh Nhà nước nhằm xác định quyền, nghĩa vụ của
các bên trong quan hệ tranh chấp. Hoạt động xét xử là hoạt động của Nhà nước, có tính chất
công, mang tính quyền lực Nhà nước về tư pháp và không thể chia sẻ cho cá nhân, tổ chức
nhân danh Nhà nước thực hiện. Tuy nhiên, sau khi Tòa án đã xét xử vụ việc, các quyền,
nghĩa vụ của các bên đã được xác định thì việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó lại mang
tính chất “tư” giữa các bên, không nhất thiết phải do một cơ quan Nhà nước trực tiếp thực
hiện.
Tại Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta chỉ rõ đường
hướng cơ bản của việc đổi mới hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong giai đoạn hiện
nay là “Nhà nước cũng cần phải giảm việc can thiệp quá sâu vào quyền điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của cơ sở và các quan hệ dân sự để tập trung hướng mạnh vào
xây dựng thể chế, sử dụng các công cụ điều hành vĩ mô”. Cũng tại Hội nghị này, Đảng cũng
chỉ ra định hướng cơ bản của việc xã hội hóa “...Xã hội hóa không đồng nghĩa với phi Nhà
nước hoá và càng không phải là tư hữu hoá. Phương châm cơ bản ở đây vẫn là Nhà nước
và nhân dân cùng làm”. Trên cơ sở đó, pháp luật đã trao cho người dân quyền khởi kiện để
yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và quyền lợi chính đáng của họ sẽ
được khẳng định trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Tuy nhiên, công

lý có được thực thi hay không lại phụ thuộc vào việc thi hành các bản án, quyết định của Toà
án từ phía các cơ quan THA. Suy cho cùng, điều mà người được THA quan tâm chính là hiệu
quả thực tế của công tác THA. Việc xã hội hóa THA hiện nay cũng không nằm ngoài mục
tiêu là hiệu quả của công tác THADS.
1.2.3. Cơ sở pháp lý của mô hình Thừa phát lại tại Việt Nam
Triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến
THADS, ngày 14/11/2008, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 24/2008/QH12, giao Chính
phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một
số địa phương. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp chủ trì,
phối hợp với TAND tối cao, VKSND tối cao, UBND TP.HCM và một số cơ quan liên quan
xây dựng đề án “Thực hiện chế định Thừa phát tại thành phố Hồ Chí Minh”. Đề án được
xây dựng trên việc nghiên cứu tiếp thu các yếu tố hợp lý của chế định Thừa phát lại đã từng
tồn tại ở Việt Nam thời kì trước năm 1950 và tiếp tục ở miền Nam cho đến năm 1975, đồng


14
thời có sự điều chỉnh, bổ sung các nội dung mới phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và
yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính hiện nay ở nước ta. Đề án đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 224/QĐ-TTg ngày 19/02/2009, theo đó, Thừa phát
lại là người có đủ các tiêu chuẩn do pháp luật quy định, được Nhà nước bổ nhiệm để làm
các công việc về THADS (bao gồm: xác minh điều kiện THA và trực tiếp thi hành bản án;
tống đạt giấy tờ của Tòa án và của Cơ quan THADS cho đương sự; lập vi bằng và làm các
công việc khác theo quy định của pháp luật).
Đề án cũng xác định việc thí điểm chế định Thừa phát lại được thực hiện trước tiên
tại TP.HCM (là địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội tương đối thuận lợi cho việc phát
triển các loại hình dịch vụ, trong đó có dịch vụ pháp lý như Thừa phát lại. Việc thí điểm này
nhằm mục tiêu “xác định sự cần thiết và tính hiệu quả của Thừa phát lại trong hoạt động tư
pháp nói chung và THADS nói riêng, xác định khả năng áp dụng mô hình này trong toàn
quốc, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa một số hoạt động hành
chính, tư pháp” [4].

Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội và Đề án đã được phê duyệt, ngày 24/7/2009,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của
Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP.HCM, trên cơ sở đó giao Bộ Tư pháp phối hợp với
UBND Thành phố, các Bộ, Ngành có liên quan tổ chức thực hiện thí điểm và đã tổ chức
tổng kết theo quy định. Qua tổng kết cho thấy, việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát
lại tại TP.HCM đã đạt kết quả tốt, hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại đã thu được
kết quả khả quan, được xã hội, người dân đón nhận tích cực. Bên cạnh đó, quá trình thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại cũng gặp phải một số khó khăn, vướng mắc nhất định
đã được đánh giá cụ thể trong Báo cáo số 299/BC-CP ngày 23/10/2012 về Tổng kết thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 24/2008/QH12. Qua tổng kết thấy
rằng, thời gian áp dụng chế định này là quá ngắn dẫn đến việc thí điểm mô hình Thừa phát
lại mới chỉ được áp dụng tại TP.HCM, chưa được nhân rộng tới các địa phương khác. Do đó,
để có cơ sở thực tiễn nhằm đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện về sự cần thiết, vai trò tác
động của chế định Thừa phát lại đối với hoạt động Tư pháp và đời sống xã hội, Quốc hội đã
xem xét, ban hành Nghị quyết số 36/2012/QH-13 như đã nêu trên. Theo Nghị quyết số
36/2012/QH13 của Quốc hội, việc thí điểm chế định Thừa phát lại được tiếp tục thực hiện


15
thí điểm tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đến hết ngày 31/12/2015. Thực
hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 25 tháng 3 năm 2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 510/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa
phát lại”. Để triển khai thực hiện, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành lựa chọn 12
địa phương mở rộng thí điểm (gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc,
Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Bình Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, An
Giang, Vĩnh Long). Việc lựa chọn các địa phương mở rộng thí điểm đã đáp ứng yêu cầu của
Đề án về số lượng địa phương tham gia, có tính đại diện cho các vùng, miền có điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau. Các địa phương được lựa chọn đã xây dựng Đề án, trình Bộ Tư
pháp phê duyệt làm cơ sở thực hiện. Hiện nay, để quy định cụ thể việc thí điểm, Chính phủ
đã ban hành 02 Nghị định: Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt

động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nghị định số
135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều
của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ. Các Bộ, ngành đã ban
hành 03 Thông tư hướng dẫn thực hiện: (Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/2/2014 hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa
phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13; Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BTPNHNNVN ngày 17/01/2014 hướng dẫn việc xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát
lại tại các tổ chức tín dụng; Thông tư số 12/2014/TT-BTP ngày 26/4/2014 quy định về mẫu;
nguyên tắc cấp phát, sử dụng trang phục, Thẻ Thừa phát lại). Bên cạnh đó, trong quá trình tổ
chức, thực hiện, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành liên quan đã có nhiều văn bản hướng dẫn về
tổ chức, hoạt động của Thừa phát lại, trong đó có Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày
19/9/2014 của Bộ Tư pháp, Công văn số 138/TANDTC-KHTC ngày 13/8/2014 của Tòa án
nhân dân tối cao.
1.2.4. Cơ sở thực tiễn của xã hội hóa thi hành án dân sự
Hiện nay, việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án là thuộc trách nhiệm của
các cơ quan Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan THADS. Việc THA do các cơ quan Nhà
nước thực hiện bên cạnh những ưu điểm của nó cũng tồn tại những hạn chế, dẫn tới quyền,
lợi ích hợp pháp của người được THA không được bảo đảm, việc THA bị kéo dài. Do vậy,
chúng ta phải tính đến việc khắc phục những điểm hạn chế của việc THA từ phía các cơ


16
quan công quyền. Cụ thể là tăng cường đội ngũ Chấp hành viên; khắc phục sự quan liêu,
rườm rà, chậm chạp về thủ tục và khắc phục xu hướng lạm quyền từ người được trao quyền
lực đồng thời khuyến khích việc tự nguyện THA từ phía người phải THA và người được
THA.
Thứ nhất, có thể thấy hiện nay công tác THADS chủ yếu do cơ quan Nhà nước (cơ
quan THADS) chịu trách nhiệm thực hiện, tuy nhiên với số lượng bản án, quyết định cần
được thi hành quá lớn, các Chấp hành viên không đủ để thực hiện việc THA, khiến cho tình
trạng án chưa thi hành, thi hành chậm, không hiệu quả, biện pháp kê biên, cưỡng chế THA
khó khăn xảy ra rất nhiều. Nó đặt ra yêu cầu cần phải xã hội hóa THADS để xã hội cùng
chia sẻ với Nhà nước gánh vác trách nhiệm giúp cho công tác THA được hiệu quả hơn. Bên

cạnh đó, việc xã hội hóa hoạt động THA sẽ làm giảm bớt chi phí cho ngân sách Nhà nước,
hạn chế cơ chế “bao cấp” của Nhà nước, tiết kiệm được thời gian mà vẫn hiệu quả, đồng
thời thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Theo thống kê kết quả của toàn ngành thì công tác này vẫn còn những hạn chế, yếu
kém. Cụ thể, số việc và tiền chuyển kỳ sau vẫn còn nhiều, nhất là về tiền (248.203 việc tương
ứng với số tiền 56.127 tỷ 149 triệu 948 nghìn đồng); chưa hoàn thành chỉ tiêu giảm việc THA
chuyển kỳ sau [14]. Lượng án tồn đọng qua nhiều năm vẫn chưa được giảm mạnh. Bên cạnh
đó, việc phân loại án có điều kiện, không có điều kiện thi hành tại một số cơ quan THADS
địa phương còn thiếu chính xác.
Thực trạng trên một phần là do mặc dù toàn ngành đã được tăng cường biên chế song
số lượng cán bộ toàn ngành vẫn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo của một số cơ quan THADS địa phương còn hạn chế về năng lực
quản lý, chỉ đạo điều hành; chưa phát huy tối đa vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu
và chưa thực sự quyết liệt trong quản lý, chỉ đạo. Việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật và rèn
luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm
của một bộ phận cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ Chấp hành viên còn chưa cao, thậm
chí yếu kém; vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức chưa yên tâm gắn bó với Ngành, xin
nghỉ việc, xin chuyển công tác làm ảnh hưởng đến tính ổn định của tổ chức bộ máy cán bộ
và quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao. Tình trạng thiếu nguồn cán bộ đủ tiêu
chuẩn bổ nhiệm chức danh Tư pháp và cán bộ quản lý ở một số địa phương (một số tỉnh


17
miền núi phía Bắc, khu vực Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long…) vẫn chưa khắc phục
được; số lượng án phải thi hành tăng liên tục. Nghị quyết 37/2012/QH13 và Quyết định giao
chỉ tiêu nhiệm vụ cho hệ thống THADS năm 2015 rất nặng nề, trong khi đó biên chế không
tăng cũng đã gây áp lực lớn đối với các cơ quan THADS địa phương; chế độ đãi ngộ đối với
công chức THADS tuy đã được quan tâm nhưng chưa thật sự là động lực thu hút cán bộ tốt
vào làm việc nên một bộ phận cán bộ, công chức chưa thật sự an tâm công tác [14].
Thứ hai, vai trò quan trọng của xã hội hóa THADS đang dần được khẳng định. Xã

hội hóa THADS sẽ khuyến khích nhân dân tham gia vào lĩnh vực THADS, khuyến khích
việc tự nguyện THA từ phía người phải THA và người được THA, nâng cao tính tích cực,
tự chủ của nhân dân, chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước, góp phần tăng cường dân chủ trong
tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Xã hội hóa hoạt động THADS còn góp phần tạo
sự bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh tế, tạo động lực
cho phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, xã hội hóa THADS cũng sẽ khắc phục được sự
quan liêu, lạm quyền từ người được trao quyền lực đồng thời khắc phục sự rườm rà, chậm
chạp về thủ tục THA của cơ quan THADS.
Như vậy, việc xã hội hóa công tác THA là một việc làm cần thiết, xuất phát từ những
cơ sở lý luận và đòi hỏi thực tiễn THA. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu nội dung xã hội hóa
THADS để đề xuất những giải pháp cụ thể về xã hội hóa trong công tác THA là những vấn
đề hết sức quan trọng.
1.3.

Nội dung của xã hội hóa thi hành án dân sự
Xã hội hóa THADS là vấn đề rất có ý nghĩa đối với công tác THADS. Tuy vậy, vấn

đề đặt ra là phải xác định được chính xác các nội dung cơ bản của xã hội hóa THADS. Việc
làm này sẽ bảo đảm cho xã hội hóa THADS phát huy được tác dụng còn nếu không, kết quả
sẽ ngược lại [48, tr.46]. Như vậy, xã hội hóa THADS bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục đương sự tự nguyện THADS.
Trong THADS, các đương sự có quyền, lợi ích liên quan đến việc THA và có quyền
tự định đoạt quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Nếu các đương
sự có hiểu biết đúng về pháp luật, nhận thức đúng về các quyền và nghĩa vụ của họ trong
THADS thì họ sẽ tự nguyện thực hiện và việc THADS sẽ thuận lợi. Vì vậy, trước hết phải
xã hội hóa việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục đương sự tự nguyện THADS. Theo đó,


18
mọi cá nhân, tổ chức đều được tham gia vào việc tuyên truyền, giáo dục và thuyết phục

đương sự tự nguyện THADS.
Thứ hai, chuyển giao một số công việc THADS không đòi hỏi phải sử dụng quyền lực
của Nhà nước cho các cá nhân, tổ chức thực hiện.
THADS phức tạp, các công việc thuộc về tổ chức THADS đòi hỏi phải sử dụng
quyền lực của Nhà nước mới thực hiện được như việc quyết định THA, cưỡng chế THA,…
thì không thể xã hội hóa. Tuy vậy, đối với một số công việc mà việc thực hiện không nhất
thiết phải sử dụng quyền lực của Nhà nước mới thực hiện được như việc xác minh tài sản,
địa chỉ của người phải THADS, bảo quản, định giá và bán tài sản kê biên,… thì có thể xã
hội hóa. Đối với những công việc đó có thể giao cho các cá nhân, tổ chức tư nhân thực hiện
và đương sự phải chi trả các chi phí cho việc thực hiện chúng.
Thứ ba, từng bước xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các điều kiện cần thiết
cho mô hình THA tư nhân (Văn phòng Thừa phát lại) chính thức đi vào hoạt động có hiệu
quả.
Để tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức tham gia tổ chức THADS có thể thiết lập
mô hình tổ chức THA bán công hoặc mô hình tổ chức THA tư nhân. Nếu theo mô hình tổ
chức THA bán công, việc tổ chức THADS sẽ do cả công chức và viên chức đảm nhiệm, thù
lao của họ trước hết lấy từ phí THA do đương sự nộp, trường hợp phí THA đương sự nộp
không đủ để chi trả thì Nhà nước hỗ trợ. Nếu theo mô hình tổ chức THA tư nhân thì việc tổ
chức THA do các văn phòng, tổ chức THADS tư nhân đảm nhiệm. Các tổ chức, văn phòng
THADS tư nhân được giao một số công việc cụ thể về THADS, tự chủ về kinh phí hoạt
động, chịu sự quản lí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn THA của mình. Hiện nay, có nhiều ý kiến
ủng hộ việc thành lập tổ chức THA tư nhân vì tính khả thi của mô hình này, một mặt THA
tư nhân thúc đẩy người dân tích cực tham gia vào hoạt động THA, nâng cao tính cạnh tranh,
từ đó làm cho hiệu quả công tác THA được tăng cường. Hơn nữa, việc giao cho tổ chức, cá
nhân thực hiện một số công việc THA sẽ giảm được sự tốn kém, quá tải cho ngân sách Nhà
nước. Ngoài ra, đối với phạm vi công việc THA, xã hội hóa đến đâu cũng là một câu hỏi mà
các nhà nghiên cứu pháp luật cần phải quan tâm và đưa ra hướng giải quyết. Như đã phân
tích ở trên, các công việc mà việc thực hiện mang tính chất kĩ thuật không nhất thiết phải sử



19
dụng quyền lực Nhà nước mới thực hiện được thì có thể giao cho các cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác thực hiện và đương sự phải chi trả các chi phí cho việc thực hiện chúng thì có thể
xã hội hóa. Thực tiễn THADS trong những năm qua cho thấy việc giao cho các cá nhân, tổ
chức khác thực hiện các công việc đó đã vẫn có hiệu quả.
Thứ tư, khi mô hình THA tư nhân được hình thành và đi vào hoạt động, cần xây dựng
thiết chế phù hợp để kiểm tra, giám sát, kiểm sát hoạt động THADS của mô hình này.
Để đảm bảo việc THA của mô hình Thừa phát lại nhanh chóng và đúng pháp luật thì
việc kiểm tra, giám sát, kiểm sát các hoạt động THADS là rất cần thiết. Tuy vậy, hiện nay
mới chỉ thực hiện được việc kiểm tra, kiểm sát các hoạt động THADS là chủ yếu còn việc
giám sát các hoạt động THADS là rất hạn chế. Việc kiểm tra, kiểm sát các hoạt động
THADS do Viện kiểm sát, cơ quan Nhà nước khác có thẩm quyền thực hiện vừa tốn kém
cho Nhà nước mà nhiều khi không có hiệu quả. Theo đó, cần giao cho cá nhân, tổ chức có
thể trực tiếp thực hiện việc giám sát các hoạt động THADS hoặc thông qua các tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền do pháp luật quy định.
1.4. Kinh nghiệm xã hội hóa thi hành án dân sự của một số nƣớc trên thế giới
1.4.1. Cộng hòa Pháp [30]
Mô hình Thừa phát lại đã được thực hiện từ rất lâu và hiện nay rất thành công tại
Cộng hòa Pháp. Thừa phát lại vừa là ủy viên tư pháp, vừa là người hành nghề độc lập. Hai
chức năng này của Thừa phát lại kết hợp hài hòa với nhau để đảm bảo hiệu quả và an toàn
trong công tác THA. Hiện nay, Thừa phát lại Pháp được thực hiện các công việc trong cả
lĩnh vực THADS và THAHS.
* Về mặt tổ chức:
Thừa phát lại được thiết lập ở 3 cấp: Hội đồng thừa phát lại cấp tỉnh, Hội đồng thừa
phát lại cấp vùng và Hội đồng thừa phát lại quốc gia. Tuy được tổ chức theo 3 cấp, nhưng
không phải Hội đồng thừa phát lại cấp trên là người có toàn quyền quản lý, chỉ đạo đối với
hội đồng thừa phát lại cấp dưới, mà hoạt động của chúng đan xen nhau, bổ sung cho nhau,
không cạnh tranh nhau. Đối với người là thư kí trưởng, sau hai năm thực tập trong một văn
phòng Thừa phát lại, có quốc tịch Pháp, có đạo đức tốt và phải trải qua một kì thi kiểm tra

chuyên môn sẽ được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm làm Thừa phát lại. Đối với những
người đã từng là Thẩm phán, Luật sư hoặc đã có bằng cử nhân luật thì được bổ nhiệm thẳng


20
vào chức vụ Thừa phát lại. Trước khi ra quyết định bổ nhiệm, Bộ Tư pháp phải kiểm tra
năng lực chuyên môn của ứng cử viên. Thừa phát lại được bổ nhiệm có thể nhận một thư kí
trưởng và một hay nhiều thư kí để giúp việc cho mình.
Tổ chức Thừa phát lại tại Pháp có một Hội đồng Thừa phát lại. Hội đồng này có một
Chủ tịch, một Phó Chủ tịch và các ủy viên Hội đồng được bầu ra trong Đại hội Thừa phát
lại. Hội đồng Thừa phát lại được Bộ trưởng Bộ Tư pháp chuẩn y bằng Nghị định.
* Về mặt hoạt động:
Thừa phát lại có hai nhóm công việc: nhóm công việc độc quyền và nhóm công việc
không độc quyền:
Trong lĩnh vực độc quyền, Thừa phát lại là người duy nhất có thẩm quyền thực hiện
công việc tống đạt các văn bản, quyết định, giấy triệu tập ra tòa, các văn bản trong quá trình
tố tụng, bản án, quyết định của Tòa án. Ngoài ra, Thừa phát lại còn có trách nhiệm, thậm chí
nghĩa vụ phải thông báo cho công dân về các thủ tục tố tụng, ví dụ quyền và nghĩa vụ của
họ khi đi kiện, khi bản án đã được tống đạt đến cho đương sự, Thừa phát lại phải chỉ dẫn
cho họ biết các khả năng kháng cáo, khiếu nại. Tất cả các hoạt động này đều được quy định
rất cụ thể, nếu không tuân thủ các quy định đó đều bị coi là vô hiệu. Một hoạt động có tính
độc quyền thứ hai của Thừa phát lại là thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Quá trình
thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nếu việc thi hành gặp khó khăn do có hành vi chống
đối, Thừa phát lại có thể yêu cầu can thiệp của lực lượng công quyền.
Đối với lĩnh vực không nằm trong phạm vi độc quyền, Thừa phát lại làm những
công việc như: soạn thảo các văn bản tư chứng thư, tư vấn, tham gia tố tụng, gợi ý cho thân
chủ những điều nên làm như: hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong việc đề phòng các trường hợp rủi ro không thanh toán tiền, bán đấu giá tài sản, làm
các biên bản xác nhận một tình huống pháp lý xảy ra tại một thời điểm xác định,… Có thể
nói đây là các hoạt động bổ trợ cho các hoạt động khác như: Công chứng viên, luật sư. Như

vậy, với thiết chế Thừa phát lại, có thể nói vấn đề xã hội hóa THADS ở Pháp đã được thực
hiện một cách sâu rộng. Nó không chỉ thể hiện ở cơ cấu tổ chức, mà còn thể hiện ở nội dung
hoạt động, trách nhiệm của xã hội, trực tiếp là của các bên đương sự đối với hoạt động
THA. Với mô hình này, THADS đã hoàn toàn giao cho cá nhân, tổ chức phi Nhà nước thực
hiện với tính chất là dịch vụ công. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Nhà nước vẫn tạo ra các điều


21
kiện cần thiết đảm bảo tính quyền lực Nhà nước trong hoạt động này. Về phần mình, các
đương sự vừa có trách nhiệm đồng thời thực hiện được các quyền của mình theo phán quyết
của Tòa án ở giai đoạn THA.
Về trách nhiệm, như trên đã nêu, thừa phát lại hành nghề theo qui chế tự do, độc lập
với chính quyền, không phải tuân thủ cấp trên hay một nhà chức trách nào trong thi hành
nhiệm vụ. Thừa phát lại chỉ chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm trước toà án và Viện công tố
bên cạnh toà án nhân dân sơ thẩm có thẩm quyền rộng bởi những sai phạm trong chuyên
môn.Trong khi thi hành nhiệm vụ, nếu thừa phát lại gây thiệt hại cho đương sự thì phải bồi
thường. Nếu thừa phát lại có hành vi không trung thực, vi phạm pháp luật thì có thể bị đuổi
việc hay xử lí về hình sự.
Như vậy, với thiết chế thừa phát lại, có thể nói vấn đề xã hội hoá thi hành án dân sự ở
Pháp đã được thực hiện một cách sâu rộng. Nó không chỉ thể hiện ở cơ cấu tổ chức, mà còn
thể hiện ở nội dung hoạt động, trách nhiệm của xã hội, trực tiếp là cuả các bên đương sự đối
với hoạt động thi hành án. Với mô hình này, thi hành án dân sự đã hoàn toàn giao cho cá
nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện với tính chất là dịch vụ công. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
nhà nước vẫn tạo ra các điều kiện cần thiết đảm bảo tính quyền lực nhà nước trong hoạt
động này. Về phần mình, các bên đương sự vừa có trách nhiệm đồng thời thực hiện được
quyền của mình theo phán quyết của toà án ở giai đoạn thi hành án. Trách nhiệm ở chỗ, họ
phải trả các chi phí, thù lao cho việc thực hiện công việc này với tính chất là chi trả cho một
dịch vụ công; quyền hạn ở chỗ, họ có quyền yêu cầu thi hành phán quyết của toà án và khi
được yêu cầu, thừa phát không được từ chối yêu cầu đó, đồng thời trong quá trình thi hành
án, nhà nước, trực tiếp là toà án, Công tố... giám sát, can thiệp nhằm đảm bảo hiệu lực cũng

như tính đúng đắn trong hoạt động thi hành
1.4.2. Nhật Bản [31]
* Về mặt tổ chức:
Ở Nhật Bản, việc THADS trước đây do Thừa phát lại đảm nhận (theo Luật số 51
năm 1890 ban hành kèm theo Quy chế Thừa phát lại, Quy chế thu lệ phí Thừa phát lại). Đến
năm 1966, khi Luật Chấp hành viên ra đời, chế định Thừa phát lại không còn, thay vào đó là
chế định Chấp hành viên. Hiện nay, cơ quan THA Nhật Bản gồm hai bộ phận: Tòa THA và
Chấp hành viên. Tòa THA là một bộ phận của Tòa án sơ cấp, quản lý các hoạt động THA


×