Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BÀN VỀ THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH CỔ PHIẾU ĐỂ TRẢ CỔ TỨC CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.6 KB, 21 trang )

Tổng hợp
Gần đây có những quan điểm cho rằng việc các công ty công chúng và nhất là các
doanh nghiệp niêm yết thi nhau thực hiện việc chia cổ phiếu thưởng và trả cổ tức
bằng cổ phiếu, những động thái này làm tăng cung hàng hoá, có thể dẫn tới mất
cân đối cung cầu và làm ảnh hưởng tới giá cổ phiếu. Quan niệm này có lúc được
coi là có lý, nhất là khi thị trường biến động giảm. Theo quan điểm của người viết
bài này thì quan điểm trên có phần đúng, có phần không đúng nếu đánh giá trên
bình diện toàn bộ các công ty công chúng. Trước khi đưa ra những kết luận thì
chúng ta cần mổ xẻ phân tích kỹ về những vấn đề trên .

1/ Đánh giá chung về cơ cấu vốn của các công ty công chúng, các doanh nghiệp
niêm yết :

- Để cho đơn giản thì chỉ đi sâu phân tích cơ cấu vốn của những doanh nghiệp kinh
doanh hiệu quả, có tốc độ tăng trưởng liên tục .

- Trong 2 năm vừa qua, khi TTCK phát triển liên tục và ổn định hơn nhiều nếu so
với thời kỳ của 5 năm về trước. Các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả đã có nhiều
lựa chọn dễ dàng hơn trước rất nhiều trong phương thức huy động vốn :

+ Các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả luôn là mục tiêu săn đuổi của các Ngân
hàng thương mại, có thể nói việc vay vốn ngân hàng thuận lợi hơn trước rất nhiều;

+ Các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả dễ dàng và thuận lợi trong việc huy động
vốn bằng phưong thức phát hành cổ phiếu mới. Vấn đề đặt ra chỉ là phát hành cổ
phiếu theo giá nào và ở thời điểm nào để đạt được nguồn thặng dư vốn lớn, đồng
thời làm lợi cho cổ đông và tránh ảnh hưởng đến giá giao dịch trên thị trường.


+ Trả cổ phiếu bằng cổ tức hay chia cổ phiếu thưởng từ nguồn vốn thặng dư đã trở
thành 1 xu thế phổ biến, đồng thời kéo theo việc giảm tỷ lệ cổ tức chia bằng tiền


mặt . Những phương thức này cũng là 1 hình thức huy động vốn hiệu quả và nhìn
chung những phương thức này đang gần tiến dần tới thông lệ quốc tế, tuy nhiên
vẫn còn nhiều hạn chế ( sẽ phân tích ở phần sau ).

- Nhìn chung trong 2 năm qua cơ cấu vốn của nhiều doanh nghiệp kinh doanh hiệu
quả đã thay đổi cơ bản nhờ sự phát triển nhanh của TTCK :

+ Vốn đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh, vào tài sản cố định không chỉ đơn
thuần từ nguồn vốn vay hay vốn tự có như trước kia mà đã được bổ sung bằng
nguồn vốn thặng dư từ phát hành cổ phiếu mới, cơ cấu vốn vay trong đầu tư tài sản
cố định đã giảm đáng kể. Nhiều doanh nghiệp chỉ còn vay trong đầu tư tài sản cố
định chưa đến 20%, hoặc thậm chí không phải đi vay. Hoặc nếu đi vay ngân hàng
chỉ là phương án tạm thời để chờ việc phát hành cổ phiếu mới và lấy nguồn này
thay thế.

+ Nhiều doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả chỉ dùng nguồn vốn vay ngân hàng làm
vốn lưu động, thậm chí trong cơ cấu vốn lưu động thì cũng đã thay đổi khi nhiều
doanh nghiệp bổ sung bằng nguồn vốn chủ sở hữu.

+ Khi nguồn vốn của doanh nghiệp trở nên phong phú nhờ các phương thức huy
động vốn đã trình bày ở trên thì doanh nghiệp nghĩ tới việc tiếp tục đầu tư mở rộng
sản xuất, hoặc dành 1 phần nguồn vốn lưu động để đầu tư tài chính , mua sắm trụ
sở hoặc nghĩ tới việc kinh doanh các ngành khác.

- Huy động vốn dễ dàng nhưng sử dụng vốn sao cho có hiệu quả phù hợp với
trình độ quản lý trong từng doanh nghiệp, đó là 1 vấn đề cần đặt ra đảm bảo sự
phát triển bền vững của doanh nghiệp, đồng thời từng bước xây dựng được lòng tin


vững chắc cho nhà đầu tư. Đó là những vấn đề không đơn giản và đòi hỏi sự nỗ lực

lớn của các Ban quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian gần đây đã xuất
hiện hiện tượng sử dụng đồng vốn dế dãi trong 1 số doanh nghiệp như kinh doanh
ở lĩnh vực khác mà doanh nghiệp không hề có nhiều kinh nghiệm, không phát huy
được lợi thế của doanh nghiệp như việc góp vốn vào 1 số công ty chứng khoán hay
ngân hàng mới thành lập mà Bộ khung quản lý không có gì xuất sắc hoặc không có
chiến lược kinh doanh bài bản. Hiện tượng này cần phải được xem xét và cách
thức tốt nhất là các doanh nghiệp nên tập trung vào những ngành nghề truyền
thống hoặc mở rộng sản xuất sang những ngành nghề có liên quan đến doanh
nghiệp mình hoặc tăng cường chuân bị tiềm lực tài chính cho 1 xu thế mới là mua
bán sát nhập doanh nghiệp.

2/ Chia cổ phiếu thưởng, trả cổ tức bằng cổ phiếu ở tỷ lệ nào là hợp lý ?

- Trong thời gian vừa qua có 1 số doanh nghiệp thành công trong việc chia cổ
phiếu thưởng, chia cổ tức bằng cổ phiếu ở mức cao làm cho giá cổ phiếu tăng
chóng mặt và làm hài lòng các cổ đông hiện hữu :

+ Nói đến thành công ở đây là nói đến tình hợp lý của giá trị cổ phiếu sau khi chia
tách và phù hợp với thực chất kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Trả cổ phiếu thưởng ở tỷ lệ cao ( 40%, 50%, 100%, 300%) là do nguồn vốn
thặng dư lâu ngày chưa chia, đến giai đoạn chuẩn bị niêm yết thì doanh nghiệp mới
thực hiện ;

+ Giá trị cổ phiếu bị dồn nén trong khoảng thời gian dài khi TTCK kém phát triển
hoặc khi doanh nghiệp chưa có chủ trương niêm yết nên bị hạn chế thông tin biết
về doanh nghiệp.


+ VN gia nhập WTO , TTCK phát triển tạo nhiều cơ hội cho doanh nghiệp phát

triển và gia tăng nhiều lợi nhuận so với những năm trước.

- Trong tình hình hiện nay đa phần các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả đã thực
hiện nâng vốn điều lệ lên cao hơn nhiều so với tình hình của 2 năm trước kia, tuy
nhiên nhiều doanh nghiệp vẫn còn nguồn vốn thặng dư rất lớn, thể hiện ở giá trị sổ
sách trên 1 cổ phần từ 15000 đ/cp đến 40.000 đồng / 1 cp. Việc chia thưởng cổ
phiếu 1 lần ở mức cao có lẽ không được tối ưu hoặc phù hợp lắm. Vậy chia thưởng
cổ phiếu từ nguồn vốn thặng dư, hay việc trả cổ tức bằng cổ phiếu cần theo những
căn cứ nào ? Với sự hiểu biết còn hạn chế, người viết mạnh dạn xin đưa ra những
căn cứ trong việc bàn luận về tỷ lệ chia cổ phiếu như sau :

1/ Sau khi chia tách cổ phiếu, doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo 1 nguồn vốn thặng
dư hợp lý ( nguồn vốn thặng dư còn lại bằng nguồn vốn chủ sở hữu trừ đi vốn điều
lệ mới trừ đi quỹ phúc lợi khen thưởng ) nhằm mục đích :

- Trang trải những chi phí hợp lý nhưng không được khấu trừ chi phí thuế ( nếu có
phát sinh ) ;

- Dự phòng bù đắp những khoản kinh doanh thua lỗ để trong mọi trường hợp
không ảnh hưởng đến việc làm giảm vốn điều lệ ;

- Chi cho việc nghiên cứu đầu tư và phát triển ;

- Nên hình thành 1 nguồn vốn lưu động dự trữ để mua lại cổ phiếu quỹ ở mức giá
hợp lý khi TTCK có biến động mạnh hoặc vì những lý do khác làm ảnh hưởng đến
giá cổ phiếu công ty. Tất nhiên là việc mua lại cổ phiếu quỹ phải bảo đảm hiệu quả.
Đối với các TTCK phát triển, với những cổ phiếu Blue Chip thì nguồn vốn này


khá lớn so với các BCS của ta. Các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả cũng cần

nghiên cứu những thời điểm thuận tiện để huy động vốn nhằm có nguồn thặng dư
tích luỹ cho mục đích này.

- Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có nghiệp vụ đầu tư chứng khoán
không thường xuyên, thì cũng nên dùng nguồn thặng dư để tránh những biến động
giảm giá chứng khoán có thể làm ảnh hưởng đến việc giảm vốn điều lệ hoặc ảnh
hưởng đến nguồn vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh chính.

- Việc xây dựng nguồn vốn thặng dư để lại ở mức bao nhiêu, tuỳ thuộc vào từng
loại hình doanh nghiệp. Trong trường hợp chưa huy động vốn bằng việc phát hành
cổ phiếu mới thì việc phân chia lợi nhuận sau thuế phải đảm bảo nguyên tắc có tích
luỹ, không chia hết cho cổ đông số lợi nhuận làm ra.

2/ Sau khi chia cổ phiếu thưởng hay trả cổ tức bằng cổ phiếu để hình thành vốn
điều lệ mới thì nên đảm bảo tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn điều lệ mới của
những năm tiếp theo ở mức trên 25% - 30%:

3/ Nếu thực hiện liên tục việc trả cổ tức bằng cổ phiếu nhằm huy động vốn , đồng
thời giảm tỷ lệ cổ tức bằng tiền mặt thì đối tượng phải là những cổ phiếu tăng
trưởng.

4/ Tỷ lệ trả cổ tức bằng cổ phiếu nên ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng lợi nhuận
sau thuế của doanh nghiệp. Chẳng hạn trong lĩnh vực ngân hàng đang là lĩnh vực
phát triển nhanh trong từng năm, nếu 1 ngân hàng xác định được rằng trong 3 năm
tiếp theo, mỗi năm lợi nhuận tăng được 30% thì việc trả cổ tức bằng cổ phiếu ở
mức 15% được cho là hợp lý.


Nếu sau khi thực hiện việc chia cổ phiếu thưởng mà tốc độ tăng trưởng của doanh
nghiệp tăng chậm hoặc không tăng trưởng thì việc chia cổ phiếu thuởng ở mức

không hợp lý sẽ là gánh nặng cho doanh nghiệp về mặt chia cổ tức bằng tiền mặt.

5/ Không nên chia cổ phiếu thưởng ở mức quá cao :

- Thực tế có những doanh nghiệp chia ở mức rất cao trong 1 lần, vì vậy phần thặng
dư không còn được bao nhiêu . Theo cách này thì sẽ không có của để dành và cũng
khó thực hiện được việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, hơn nữa lượng cổ tức bằng tiền
mặt tăng lên đột biến sẽ làm giảm tích luỹ lợi nhuận doanh nghiệp.

- Nên phân bổ nguồn cổ phiếu thưởng qua vài năm hoặc nhiều năm thay vì một
lần, làm như vậy doanh nghiệp sẽ tích luỹ được nguồn tiền mặt lớn qua việc giảm
tối đa tỷ lệ cổ tức bằng tiền mặt, đồng thời giảm áp lực về quản trị doanh nghiệp.

* Những hạn chế trong việc trả cổ tức bằng cổ phiếu :

- Khi TTCK phát triển thì mức cổ tức bằng tiền mặt đối với nhà đầu tư không có ý
nghĩa gì, dù là mức cao so với mệnh giá cổ phần nhưng lại là quá thấp so với thị
giá. Cái mà nhà đầu tư cần là đầu tư để hưởng chênh lệch giá .

- Qui định pháp lý về trả cổ tức bằng cổ phiếu , chia cổ phiếu thưởng còn phức tạp
và mất thời gian. Luật Chứng khoán không có loại giấy phép phát hành cổ phiếu
thưởng qua UBCKNN, thay vào đó doanh nghiệp chỉ cần thông báo đến UBCKNN
để thực hiện giám sát, tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp vẫn phải chờ 1 loại
giấy phép mới từ UBCKNN với nội dung “ UBCKNN đã nhận được hồ sơ phát
hành cổ phiếu thưởng của công ty x, UBCKNN không phản đối việc phát hành này
nhưng doanh nghiệp phải liên hệ với Trung tâm GDCK và Trung tâm lưu ký để


liên hệ” như vậy đã hình thành 1 loại giấy phép tinh vi là giấy phép không phản
đối. Các công ty chứng khoán làm dịch vụ cho doanh nghiệp lại phải lên

UBCKNN để làm thủ tục lobby cho nhanh.

- Thông lệ quốc tế thì đơn giản, không phải xin phép và việc thực hiện như cách
thức trả cổ tức bằng tiền mặt, vì vậy các doanh nghiệp có thể tiến hành trả cổ tức
bằng cổ phiếu vào 2 kỳ : giữa năm và cuối năm. Còn ở ta do thủ tục phức tạp nên
chỉ thực hiện được vào dịp cuối năm.

- Các thành viên trong Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát thường bị xoi trong động
thái bán cổ phiếu, trong nhiều trường hợp nhiều động thái bình thường như bán 1
phần cổ phiếu để chi tiêu gia đình hay để phân tán rủi ro thì làm ảnh hưởng đến giá
cổ phiếu, vì vậy nhiều Hội đồng quản trị vẫn thích trả cổ tức bằng tiền mặt ở 1 mức
nào đó để có tiền chi tiêu. Cần có sự nhận thức lại về vấn đề này .

VF VAFI


Chia cổ tức bằng cổ phiếu là việc hết sức bình thường, phù hợp với thông lệ
quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, cổ đông lại... ép
HĐQT chia cổ tức bằng cổ phiếu nhằm kích giá cổ phiếu trên thị trường.
Chẳng hạn, trong thời kỳ thị trường chứng khoán bong bóng ở giai đoạn
2006-2007, nhiều doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả đã phát hành
được cổ phiếu với giá cao và nhờ vậy, thu về nhiều lợi nhuận. Hiện nay, tình
trạng này vẫn đang diễn ra.



Trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu thưởng là những hình thức huy
động vốn trong ngắn hạn nhằm giảm tỷ lệ trả cổ tức bằng tiền mặt trong một
vài năm với mục đích tiết kiệm vốn để tái đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh
doanh. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp lấy nguồn lợi nhuận từ đâu để chia cổ

tức bằng cổ phiếu. Trong đa số các trường hợp, phải là các doanh nghiệp
luôn kinh doanh hiệu quả mới có nguồn lợi nhuận để chia cổ phiếu. Doanh
nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ không thể có lợi nhuận để
chia cổ phiếu song cũng không hiếm doanh nghiệp cứ... lạm dụng hình thức
này.




Hết cơ hội lướt sóng?



Dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 139/2007/NĐ-CP hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, tại điểm 2, Điều 26 quy định:
"Giá trị của cổ phiếu được sử dụng để thanh toán cổ tức phải được tính theo
giá thị trường tại ngày quyết định chi trả cổ tức; và mỗi cổ đông được nhận
số cổ phiếu có giá trị tương đương với số cổ tức như trường hợp công ty chi
trả cổ tức bằng tiền mặt", nhiều ý kiến đã đồng tình rằng quy định như trên
nhằm tránh việc làm giá cổ phiếu (thông qua chi trả cổ tức bằng cổ phiếu đề
cập ở trên).



Theo các chuyên gia tài chính, việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu tính theo
mệnh giá như hiện nay chỉ có lợi cho cổ đông hiện hữu mà không tính đến
chiến lược phát triển của doanh nghiệp và cổ đông đến sau do khi nhận cổ
tức bằng cổ phiếu, cổ đông có thể bán ngay để ăn chênh lệch. Trên thực tế
thời gian qua, nhiều công ty niêm yết đứng trước áp lực của cổ đông chia cổ
tức bằng cổ phiếu mà mục tiêu của nhiều cổ đông là để giá cổ phiếu tăng

tương ứng với tỷ lệ chia, tạo cơ hội lướt sóng ngắn hạn hơn là nhằm vào
mục tiêu đầu tư lâu dài. Vì vậy, tính giá trị cổ phiếu được sử dụng (tính theo
giá thị trường tại ngày quyết định chi trả) để thanh toán cổ tức, chia cổ tức
bằng cổ phiếu, là hoàn toàn phù hợp.



Tuy nhiên, Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI) lại không đồng ý với
nội dung sửa đổi này. Theo VAFI, trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu
thưởng ở tỷ lệ hợp lý theo tình hình kinh doanh của doanh nghiệp là mong
muốn của... 100% nhà đầu tư chứng khoán, bởi lẽ tất cả nhà đầu tư đều
muốn doanh nghiệp phải liên tục tăng trưởng hoặc phải trả cổ tức bằng tiền
mặt thật cao. Đây chính là áp lực cho ban quản trị doanh nghiệp.



VAFI cho rằng trong bối cảnh TTCK đang ổn định như hiện nay, không phải
nhà đầu tư nào, đặc biệt là các nhà đầu tư tổ chức, sau khi nhận cổ phiếu
thưởng hay nhận cổ tức bằng cổ phiếu đều bán ngay mà đều nắm giữ để đầu
tư lâu dài nếu doanh nghiệp còn "đất" tăng trưởng hoặc có kế hoạch trả cổ
tức bằng tiền mặt ở mức cao trong tương lai. Chia thưởng cổ phiếu hay trả
cổ tức bằng cổ phiếu ở tỷ lệ hợp lý luôn làm tăng tính thanh khoản của cổ
phiếu, đó là đặc tính phổ biến của những thị trường mới nổi.



Xét về khía cạnh pháp lý, cũng theo VAFI, Điều 8 Luật Doanh nghiệp quy
định: "Doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh; quyền lựa chọn hình thức,
phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn...". Tại Điều 79 quy định:



"quyền của cổ đông được nhận cổ tức với mức theo quyết định của Đại hội
đồng cổ đông" hay điểm 2 Điều 93: "Cổ tức có thể được chi trả bằng tiền
mặt, bằng cổ phần của công ty hoặc bằng tài sản khác". Vì vậy, nếu đối
chiếu với những cơ sở pháp lý nêu trên thì điểm 2 Điều 26 của dự thảo là trái
luật.


Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi những tiêu cực từ việc phát hành cổ
phiếu để trả cổ tức chưa bị hạn chế, nếu dự thảo nghị định nêu trên sẽ được
xem xét thông qua, nhiều người kỳ vọng việc chia cổ tức bằng cổ phiếu
nhằm kích giá cổ phiếu trên thị trường không còn tác dụng.


Theo Phan Long (HNM)

/>Cổ tức tiền mặt và cổ tức cổ phần, cái nào tốt hơn?
( Bình chọn: 4
-- Thảo luận: 11 -- Số lần đọc: 10650)
Cổ tức tiền mặt và cổ tức cổ phần, cái nào tốt hơn?
Trước đây, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều chia cổ tức bằng tiền mặt, thuật
ngữ cổ tức cổ phần có vẻ còn khá xa lạ. Thế nhưng năm qua, cùng với sự phát triển
chóng mặt của TTCKVN, các doanh nghiệp đua nhau chi trả cổ tức bằng cổ phiếu.
Vậy, phải chăng cổ tức cổ phần tốt hơn cổ tức tiền mặt?
Để đi tìm lời giải cho câu hỏi này, chúng ta đi tìm hiểu sâu về bản chất của hai
phương thức chi trả cổ tức này.
Mục đích của việc chi trả cổ tức là doanh nghiệp muốn” san sẻ sự giàu có” trở lại
cho các cổ đông sau một khoảng thời gian hoạt động nhất định, thường là hằng
năm hay thường xuyên hơn là hằng quý. Có hai phương thức chia cổ tức chính :
cổ tức tiền mặt và cổ tức cổ phần.

Cổ tức tiền mặt là dạng cổ tức mà công ty lấy ra từ lợi nhuận có được chia cho nhà
đầu tư dưới dạng tiềnMnA.jpg mặt ( hoặc chuyển khoản). Cổ tức tiền mặt làm
chuyển giao giá trị kinh tế từ công ty sang cho các cổ đông thay vì công ty sử dụng
tiền đó cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra một sự giảm
mạnh trong giá cổ phần của công ty một lượng đúng bằng cổ tức được chia. Ví dụ,
nếu công ty công bố chi trả cổ tức tiền mặt là 5% giá chứng khoán thì các cổ đông
cũng sẽ nhìn thấy có sự sụt giảm đúng bằng 5% trong giá trị cổ phần của mình.


Điều này là kết quả của sự chuyển giao giá trị kinh tế. Tình huống khác của chi trả
cổ tức tiền mặt đó là các cổ đông nhận được cổ tức tiền mặt sẽ phải đóng thuế trên
giá trị được chia đó, do vậy giá trị được nhận cuối cùng sẽ ít hơn mức cổ tức công
bố.
Mặt khác, Cổ tức cổ phần là một sự gia tăng một lượng cổ phần của doanh nghiệp
với các cổ phần mới được chia cho các cổ đông. Ví dụ, nếu một công ty quyết định
trả cổ tức cổ phần 5%, nó sẽ gia tăng số lương cổ phần lên 5%. Nếu doanh nghiệp
có 1 triệu cổ phần, có nghĩa là doanh nghiệp sẽ có thêm 50.000 cổ phần nữa. Nếu
bạn sở hữu 100 cổ phần trong công ty, bạn sẽ nhận được 5 cổ phần tăng thêm nữa.
Tuy nhiên, cũng giống như cổ tức tiền mặt, cổ tức cổ phần không làm gia tăng giá
trị của công ty. Nếu một cổ phần doanh nghiệp có giá là 10 USD một cổ phần, thì
giá trị công ty sẽ là 10 triệu USD. Sau khi cổ tức cổ phầnđược chia, giá trị doanh
nghiệp vẫn như cũ, nhưng giá trị mỗi cổ phần sẽ giảm xuống 9.52 USD một cổ
phần để điều chỉnh cho khoản cổ tức đã được chia. Lợi thế của cổ tức cổ phần ở
đây chỉ 510902.jpgđơn giản là mang đến cho cổ đông sự lựa chọn. Các cổ đông có
thể giữ cổ phần và hi vọng công ty sẽ có thể sử dụng tiền đó để tạo ra một tỷ suất
sinh lợi tốt hơn hoặc các cổ đông có thể bán một số cổ phần mới để tạo ra cổ tức
tiền mặt cho riêng mình. Lợi ích lớn nhất của cổ tức cổ phần là các cổ đông không
bị đánh thuế trên giá trị cổ tức nhận được.
Cổ tức cổ phần được cho là tốt hơn so với cổ tức tiền mặt nếu chúng không đi kèm
với quyền chọn cổ tức tiền mặt. Điều này đơn giản chỉ bởi chúng ta đang so sánh

giữa cổ tức cổ phần và cổ tức tiền mặt. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là cổ
tức tiền mặt không tốt, đơn giản là cổ tức tiền mặt không có sự lựa chọn nào ngoài
việc bạn phải nhận tiền mặt. Cổ đông vẫn có thể tái đầu tư từ cổ tức tiền mặt vào
công ty thông qua các dự án tái đầu tư từ cổ tức. Ưu điểm lớn nhất của tiền mặt
là tính thanh khoản rất cao, cầm tiền mặt trong tay bao giờ cũng chắc chắn hơn là
bạn cầm cổ phiếu trong tay. Hơn nữa, việc đánh thuế trên cổ tức tiền mặt được
nhận vẫn chưa được thực hiện tại Việt Nam. Nếu bạn là nhà đâu tư ngại rủi ro và
muốn chắc chắn thì có lẽ bạn sẽ yêu thích cổ tức tiền mặt hơn, vì giá trị của chúng
rất chắc chắn. Và các doanh nghiệp chi trả cổ tức bằng tiền mặt có thể là một sự
lựa chọn của bạn.
Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam không có tính thống nhẩt trong phương
thức chi trả cổ tức. Phần lớn các doanh nghiệp đều trả cổ tức hai lần một lần, có thể
kể đến như: Công ty cổ phần TM-XNK Thiên Nam (TNA), Công ty cổ phần Sữa
Việt Nam (VNM), CTCP Khách sạn Sài Gòn (SGH), Công ty cổ phần Khoáng sản
Bình Định (BMC), Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh (BMP)… Có doanh nghiệp


lại chia cổ tức 3 lần một năm như CTCP Đầu tư Thương mại SMC (SMC), Công ty
Cổ phần Phát triển Nhà Thủ Đức. Và cũng có những doanh nghiệp chỉ chi trả cổ
tức theo năm như CTCP Vật liệu xây dựng Lâm Đồng (LBM) hay CTCP Nhựa Đà
Nẵng (DPC), Công ty cổ phần Nước giải khát Sài Gòn (TRI), Công ty cổ phần Khu
công nghiệp Tân Tạo (ITA), Công ty CP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT,…
Tính từ đầu năm 2007 cho đến nay, số lượng doanh nghiệp trả cổ tức bằng tiền mặt
gần gấp đôi số doanh nghiệp trả cổ tức bằng cổ phiếu. Đồng thời cũng có những
doanh nghiệp thực thiện cùng lúc cả hai hình thức chi trả cổ tức. Nhà đầu tư cá
nhân Việt Nam trong thời gian gần đây dường như ưa thích dạng trả cổ tức bằng cổ
phần. Lý do cơ bản có lẽ là do phần nhà đầu tư Việt Nam tham gia theo hình thức
kinh doanh ngắn hạn, ưu tiên có cổ phiếu để giao dịch mua đi bán lại kiếm chênh
lệch ngay. Với nhà đầu tư tổ chức, cổ tức bằng tiền mặt lại có những ưu điểm riêng
do phương thức đầu tư của những đối tượng này thường có tính dài hạn, cổ tức tiền

mặt mang lại một nguồn doanh thu nhất định.
==============
Bài viết www.saga.vn hợp tác với báo Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần số 206 ngày
13/7/2007
==============
Khi doanh nghiệp chia cổ tức bằng cổ phiếu thì
tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông là
không thay đổi, do đó công ty cổ phần đó sẽ có
mức độ ổn định nhất định. Còn nếu trả cổ tức
bằng tiền mặt sau đó lại huy động bằng cách phát hành mới thì
công ty sẽ có thêm những cổ đông mới và có thể có ảnh hưởng
sự ổn định của công ty.
Ưu điểm chính của phương pháp này là gọn gàng và nhanh hơn do không phải làm
công việc phát hành mới. Trong lần phát hành mới thì Đại hội cổ đông phải thông
qua xem có phát hành mới ra ngoài bổ sung không, nếu có thì tỷ lệ so với cổ đông
hiện tại bao nhiêu?
Sự khác biệt là tăng qua thưởng là mức tăng có giới hạn bên trong, do chỉ tương
ứng với lượng tăng tối đa là mức lợi nhuận để lại. Còn chia cổ tức ra mới tăng, thì
quyết định tăng có thể lớn vượt.


Điều này dẫn tới quyền lợi cổ đông là được chia toàn bộ số định tăng, chứ không
có thêm cổ đông bổ sung. Việc tính giá cũng là thống nhất bên trong cổ đông; chứ
không đợi thêm một tham số nữa là bên ngoài thị trường và cổ đông tương lai nghĩ
gì về cổ phiếu sau khi đã phát hành bổ sung.
Về nguyên lý thì giá trị chẳng có gì thay đổi cả. Trường hợp duy nhất thay đổi là
khi mà quốc gia nào đó có luật qui định cho trường hợp tái đầu tư kinh doanh được
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhưng đó không phải là trường hợp của Việt
Nam.
Nhiều công ty đại chúng đang phải suy xét thận trọng đối với vấn đề trả cổ tức cho

năm tới bằng cổ phiếu hay bằng tiền mặt? Vào “mùa” đại hội cổ đông của các công
ty niêm yết. Qua một số đại hội cổ đông, câu trả lời của rất nhiều cổ đông là khá rõ
ràng: trả bằng tiền mặt và không chấp nhận việc trả bằng cổ phiếu, nhất là trong
thời điểm thị trường chứng khoán đang suy giảm.
Tuy nhiên, quan điểm của bài viết là: nên trả cổ tức bằng cổ phiếu thay cho tiền
mặt!
Thị trường lên, cổ đông muốn cổ tức bằng cổ phiếu
Thị trường chứng khoán Việt Nam được coi là bước vào giai đoạn “hoàng kim” từ
cuối năm 2006, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO. Với sự tham
gia mạnh mẽ mang tính xúc tác của khối đầu tư nước ngoài, giá của tất cả cổ phiếu
niêm yết tăng nhanh chóng, VN-Index lên điểm mạnh mẽ, từ khoảng 500 điểm lên
đến đỉnh 1.179,32 điểm ngày 12/3/2007. Diễn biến của thị trường chứng khoán trở
thành tâm điểm trên rất nhiều mặt báo cũng như các mạng truyền thông khác (thậm
chí cho đến nay).
Tranh thủ cơ hội trên, việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn cũng được nhiều
công ty niêm yết, công ty chứng khoán và công ty đại chúng khác tận dụng tối đa.
Nhiều công ty trong vòng 1 năm đã tổ chức 2 lần phát hành thêm cổ phiếu.
Tại thời điểm đó, thì việc tăng vốn nói chung, dù được thực hiện để làm gì (tài trợ
cho các dự án, xây nhà máy mới, mua tàu biển mới... hay chỉ cần lý do là tăng vốn
điều lệ) hay dưới hình thức nào đi chăng nữa (phát hành cổ phiếu thưởng, trả cổ
tức bằng cổ phiếu hay phát hành quyền mua cổ phiếu mới) đều được cổ đông ủng
hộ nhiệt liệt, đơn giản là cổ phiếu cho dù được điều chỉnh giảm theo tỷ lệ phân
phối thì cũng vẫn tiếp tục tăng giá. Mức cổ tức bằng tiền mặt không thể nào bằng
mức lãi do chênh lệch giá.


Tuy nhiên, khi thị trường biến động thì nhà đầu tư càng nắm nhiều cổ phiếu càng
lỗ. Cắt lỗ là mục tiêu hàng đầu, nhưng đôi khi trong các đợt phát hành, nhà đầu tư
nếu còn nắm cổ phiếu (thực tế có mấy ai hoàn toàn cắt được lỗ?) trước ngày chốt
sổ cổ đông thì buộc phải nhận (hoặc mua) cổ phiếu mới, nếu không phải chịu thêm

khoản lỗ do điều chỉnh giá tham chiếu.
Ngoài ra, các cổ phiếu mới phải mất 1-2 tháng mới về tài khoản, do đó lỗ càng
thêm nặng. Cổ tức bằng tiền mặt, tuy ít những cũng trở thành một khoản thu nhập
thật sự. Do đó nhiều người từ chối việc phát hành thêm cổ phiếu, và họ thấy rằng
cùng nhau phản đối tại các cuộc họp đại hội cổ đông mới có hy vọng khiến cho đợt
phát hành không được thực hiện.
Chúng tôi cho rằng, ở đây có mâu thuẫn trong việc theo đuổi quyền lợi giữa đôi
bên: doanh nghiệp và cổ đông. Mâu thuẫn này xuất phát từ sự khác biệt trong
chính mục tiêu đầu tư giữa các cổ đông lớn (vốn gắn liền lợi ích của doanh nghiệp
với lợi ích của chính mình trong dài hạn) và cổ đông nhỏ (vốn chỉ là cổ đông “tạm
thời” – do “lướt sóng”, hay đầu tư ngắn hạn) của cùng một công ty, và sâu xa hơn,
nó xuất phát từ sự “ngộ nhận” của nhiều nhà đầu tư cũng như sự “nuông chiều”
của thị trường chứng khoán Việt Nam trong hơn 1 năm qua.
Cổ tức cao không phải lúc nào cũng tốt
Trong thời gian qua, nhà đầu tư Việt Nam có vẻ quan tâm đến các thông tin về trả
cổ tức hơn là các thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bản thân
các công ty cũng nhận thức được tầm quan trọng đó và họ thường đưa ra các mức
cổ tức cao làm “mồi câu” trước khi thực hiện việc phát hành thêm.
Đó là ngộ nhận thứ nhất! Không phải lúc nào cổ tức cao cũng là điều tốt.
Cổ tức là một trong những chính sách quan trọng của bất cứ công ty cổ phần đại
chúng nào trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Lãnh đạo doanh nghiệp luôn cân
nhắc thận trọng về chính sách này vì nó phải đáp ứng đồng thời 3 mục tiêu: làm hài
lòng các cổ đông qua việc trả cổ tức định kỳ, đảm bảo luôn có tái đầu tư để phát
triển doanh nghiệp, mức trả cổ tức phải ổn định để dự phòng cho cả những năm
kinh doanh không như mong đợi (vì một khi đã trả cổ tức cao trong 1 hay vài năm
trước, doanh nghiệp sẽ “khó ăn nói” với cổ đông nếu năm sau hạ mức cổ tức
xuống). Trong 3 mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai là quan trọng nhất.
Bản thân doanh nghiệp, hay nói cách khác là ban lãnh đạo doanh nghiệp – hơn ai
hết hiểu rõ những lợi thế và khó khăn của mình. Họ biết lúc nào công ty cần vốn và
cần giữ lại lợi nhuận để bổ sung cho nguồn vốn của mình, cũng như lúc nào mới

bắt đầu tăng thêm cổ tức cho cổ đông.


Do đó, nếu doanh nghiệp đang làm ăn tốt, thì nên giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư.
Bản thân cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi ích cho dù không nhận cổ tức, vì khoản
lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của doanh nghiệp,
và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai.
Nếu phải trả cổ tức trong khi thực tế doanh nghiệp lại đang rất cần vốn, công ty có
thể trả cổ tức bằng cổ phiếu thay cho tiền mặt. Bản chất của việc trả cổ tức bằng cổ
phiếu là một cam kết tái đầu tư của cổ đông để sau đó chính cổ đông sẽ thu được
nhiều hơn nữa lợi nhuận trong tương lai.
Trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng làm giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán được
điều chỉnh giảm xuống và trở nên “rẻ hơn nữa” trong con mắt của nhà đầu tư, đặc
biệt khi thị trường đang lên.
Cổ tức trả bằng tiền không giúp doanh nghiệp bớt khó khăn
Thị trường chứng khoán hơn một năm qua đã giúp cho rất nhiều doanh nghiệp huy
động thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đó là lợi ích rất lớn mà doanh
nghiệp được hưởng. Tuy nhiên, việc huy động vốn dần dần trở nên quá đà, một
phần cũng từ sự “nuông chiều”, “dễ dãi” của nhà đầu tư và cả thị trường chứng
khoán.
Đứng từ góc độ đầu tư, khi giá cổ phiếu đang tăng thì cổ đông (tên gọi khác của
nhà đầu tư, ở đây không kể đến dân “lướt sóng”) rất dễ dàng chấp nhận việc tăng
vốn của doanh nghiệp mà không quan tâm mấy đến hiệu quả sử dụng vốn tăng
thêm đó.
Đứng từ góc độ chủ doanh nghiệp, đây là cơ hội quá lớn để thu hút thêm tiền vốn
mà không phải trả lãi vay. Đứng từ góc độ quản lý thị trường, Ủy ban Chứng khoán
đã “dễ dãi” khi chỉ bắt công ty công bố bản cáo bạch mà không bắt buộc họ phải
công bố bản báo cáo khả thi của việc sử dụng vốn.
Vậy rủi ro là gì? Đó là rủi ro “loãng giá cổ phiếu” do doanh nghiệp phát hành quá
mức, cũng như rủi ro cho chính doanh nghiệp do sau này phải dành thêm rất nhiều

tiền để trả cổ tức do số cổ phiếu tăng lên quá nhanh và quá nhiều.
Khi thị trường chứng khoán “đảo chiều”, nhà đầu tư còn gánh thêm rủi ro do việc
“cắt lỗ không thành công” do cổ phiếu mới phát hành chưa kịp về đến tài khoản để
bán đi. Do đó, họ sẽ không chấp nhận việc công ty phát hành thêm cổ phiếu, cho
dù chỉ để trả cổ tức (trường hợp này nhà đầu tư không phải nộp tiền giống như phát
hành quyền).


Đó là ngộ nhận thứ hai. Trả cổ tức bằng tiền mặt không giúp nhà đầu tư mấy
trong việc giảm lỗ mà còn khiến cho doanh nghiệp thêm khó khăn!
Lý do thứ nhất là nền kinh tế nước ta năm nay rõ ràng là gặp nhiều khó khăn.
Doanh nghiệp không tránh được tình trạng vật giá đầu vào leo thang, sản xuất đầu
ra gặp trở ngại do sức tiêu thụ giảm, thị trường xuất khẩu đang chịu tác động bởi tỷ
giá và khả năng suy thoái kinh tế toàn cầu... Nguồn vốn huy động từ thị trường
chứng khoán bị thu hẹp do nhà đầu tư phản đối, đi vay ngân hàng thì lãi suất cao...
Do đó, lợi nhuận chưa phân phối từ các năm trước trở thành nguồn vốn hết sức
quan trọng và cần được giữ lại để tái đầu tư hay dự phòng cho những khó khăn sắp
tới.
Đây là điều mà nhiều doanh nghiệp đang nhận thức rất rõ. Vì vậy, trả cổ tức bằng
tiền mặt khiến cho doanh nghiệp càng thêm khó khăn khi đi tìm thêm nguồn vốn.
Lý do thứ hai là đối với các doanh nghiệp vẫn đang thực sự “ăn nên làm ra” (cho
dù có thể không bằng năm trước) nhưng giá cổ phiếu đang bị giảm mạnh, việc trả
cổ tức bằng cổ phiếu, tuy hơi khó khăn nhưng sẽ mang lại lợi ích cho cả đôi bên:
doanh nghiệp và cổ đông.
Trả cổ tức bằng cổ phiếu vẫn giúp doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư,
tăng vốn điều lệ để mở rộng thêm các hạn mức cho vay hay huy động vốn (đối với
ngành ngân hàng), đồng thời giúp cho giá cổ phiếu trở nên “rẻ hơn nữa” và mang
lại tâm lý không thể “down” thêm được trong giới đầu tư.
Sâu xa hơn, việc trả cổ tức này sẽ gia tăng giá trị cho cổ đông trong tương lai, căn
bản vẫn dựa trên hiệu quả kinh doanh của chính doanh nghiệp.

Do đó, trừ một số công ty có tốc độ tăng trưởng thấp hay đầu tư dàn trải vào tài
chính, chứng khoán hay bất động sản, chúng tôi mạnh dạn cho rằng doanh nghiệp
hoàn toàn vẫn có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu. Chỉ có điều, các chi tiết của việc
phát hành thêm cổ phiếu cần được doanh nghiệp cân nhắc thận trọng cho phù hợp
với tình hình mới. Lãnh đạo công ty cũng cần minh bạch và công khai nhiều thông
tin hơn cho các cổ đông để họ tin tưởng vào tương lai doanh nghiệp cũng như giá
trị cổ phiếu.
/>%C4%91%C3%A0nSinhVi
%C3%AAn/tabid/54/forumid/19/postid/605/scope/posts/Default.aspx


Trả cổ tức bằng tiền mặt hoặc cổ phiếu: Loại nào hơn?
“Mùa” đại hội cổ đông đang bắt đầu và các công ty cổ phần cũng đang rục
rịch tổ chức đại hội để báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2008,
trình kế hoạch 2009 đồng thời đưa ra dự kiến phân chia lợi nhuận đạt được…
Có một điểm nổi bật trong việc chia cổ tức năm nay đó là hầu hết các công ty đều
hướng đến việc chia cổ tức bằng tiền mặt trong khi hơn 1 năm trở về trước, chính
các doanh nghiệp này lại ưa dùng phương thức chia cổ tức bằng cổ phiếu hơn.
Trở lại với thời hoàng kim của thị trường chứng khoán Việt Nam, khoảng hơn 1
năm trở về trước, cùng với sự phát triển chóng mặt của TTCKVN, các doanh
nghiệp đua nhau chi trả cổ tức bằng cổ phiếu và các cổ đông cũng hân hoan đón
nhận khoản cổ phiếu này. Lý do căn bản mà hầu hết các nhà đầu tư (chủ yếu là nhà
đầu tư cá nhân) lúc đó ưa thích dạng trả cổ tức bằng cổ phần là do phần lớn trong
số họ tham gia thị trường theo hình thức kinh doanh ngắn hạn, ưu tiên có cổ phiếu
để giao dịch mua đi bán lại kiếm chênh lệch ngay.
Tuy nhiên, từ khoảng cuối năm 2008 trở lại đây, khi thị trường chứng khoán Việt
Nam bước vào thời kỳ đen tối, VnIndex rơi từ ngưỡng hơn 1.100 điểm xuống dưới
300 điểm, việc chia cổ tức bằng tiền với tỷ lệ cao lại đang được nhiều nhà đầu tư
hưởng ứng.
Đơn giản, bởi trong tình hình hiện nay, khi giá cổ phiếu đã xuống quá thấp còn chỉ

còn một phần ba hay một phần tư thời cao điểm (điều này cũng có nghĩa là 1 đồng
vốn bây giờ bằng 4 đồng vốn của những năm trước) thì việc tăng tỷ lệ trả cổ tức
bằng tiền mặt sẽ góp phần cải thiện thu nhập của nhà đầu tư. Ngoài ra, trả cổ tức
bằng tiền mặt sẽ tạo điều kiện cho cổ đông tận dụng nhiều cơ hội tái đầu tư vào thị
trường chứng khoán khi mà giá nhiều cổ phiếu quá rẻ, giúp cho họ cân bằng lại giá
vốn đầu tư. Được biết, đến thời điểm hiện tại, đã có khá nhiều công ty đại chúng
công bố trả cổ tức bằng tiền mặt tỷ lệ 10% đến 25%, đáng kể đến là Vitranschast,
Vosco, …
Trên thực tế, cần phải nói rằng, mục tiêu cơ bản của bất kỳ công việc kinh doanh
nào là tạo ra cho những chủ sở hữu của nó, và cổ tức là cách thức quan trọng nhất
để việc kinh doanh thực hiện được nhiệm vụ này.
Khi công việc kinh doanh của công ty tạo ra lợi nhuận, một phần lợi nhuận được
tái đầu tư vào việc kinh doanh và lập các quỹ dự phòng, gọi là lợi nhuận giữ lại,
phần lợi nhuận còn lại được chi trả cho các cổ đông, gọi là cổ tức. Và trả bằng tiền
mặt hay trả bằng cồ phiếu đều là hình thức chi trả cổ tức của doanh nghiệp hay nói


dễ hiểu hơn là san sẻ lợi nhuận của doanh nghiệp cho cổ đông sau một khoảng thời
gian hoạt động nhất định.
Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính (VAFI) cho biết, từ năm 2004 đến năm 2007, nhà
đầu tư ít quan tâm đến việc trả cổ tức bằng tiền mặt, cũng như mức chi trả cổ tức.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc trả cổ tức bằng cổ phiếu được ưa chuộng và
phát triển. Đó là động thái thường thấy, khi thị trường chứng khoán phát triển.
Tuy nhiên, trong thời điểm này, việc trả cổ tức bằng tiền mặt với mức hợp lý, bảo
đảm tình hình tài chính lành mạnh của doanh nghiệp sẽ có tác dụng thu hút nhiều
nhà đầu tư mới tham gia vào thị trường chứng khoán và VAFI khuyến nghị các
doanh nghiệp nên thực hiện chi trả cổ tức bằng tiền mặt.
Gửi vào 28/03/09 01:01

Nguồn đọc thêm: />name=News&file=article&sid=111766#ixzz15FN9Hu8n

/>Doanh nghiệp đua trả cổ tức bằng tiền mặt
Hàng loạt doanh nghiệp niêm yết sẽ tiến hành tạm ứng cổ tức đợt một năm
2010 vào cuối tháng 8 này. Trong bối cảnh ảm đạm của thị trường chứng
khoán, nhiều công ty ưu tiên trả cổ tức bằng tiền mặt thay vì cổ phiếu.
Không lâu sau khi kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm được công bố, nhiều doanh
nghiệp niêm yết trên 2 sàn Hà Nội và TP HCM đã bắt đầu rục rịch chuẩn bị kế
hoạch trả hoặc tạm ứng cổ tức đợt một năm 2010. Bên cạnh đó, một số doanh
nghiệp khác như Hoàng Anh Gia Lai (HAG), Khoáng sản Bắc Kạn (BKC), Thủy
điện Ry Ninh II (RHC)... hoàn tất việc trả cổ tức cho năm 2009.


Nhiều cổ đông muốn nhận cổ tức bằng cả 2 hình thức: tiền và cổ phiếu. Ảnh minh
họa: Hoàng Hà
Tính đến giữa tháng 8, điểm đáng chú ý là trong số vài chục doanh nghiệp công bố
kế hoạch trả cổ tức là hầu hết đều chia bằng tiền mặt cho cổ đông. Số doanh nghiệp
trả cổ tức bằng cổ phiếu chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Trung bình các doanh nghiệp đều tạm ứng cổ tức với mức 1.000 đồng trên mỗi cổ
phiếu, tương đương 10% mệnh giá. Với một số doanh nghiệp có kết quả kinh
doanh kém khả quan hơn, cổ tức tạm ứng vẫn đạt trung bình khoảng 500 - 700
đồng. Trong khi đó, một số doanh nghiệp làm ăn tốt trong 6 tháng đầu năm như
Công ty Vận tải bia Sài Gòn (SBC) hay Công ty sữa Vinamilk (VNM), cổ tức có
thể đạt 1.500 - 3.000 đồng.
Tham gia đầu tư chứng khoán khoảng 5 năm, chị Kim Oanh, một nhà đầu tư tại
quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) cho biết chưa năm nào chị thấy các doanh nghiệp tạm
ứng cổ tức bằng tiền mặt nhiều như năm nay: “Như mọi năm thì nhà đầu tư thích
được chia cổ phiếu hơn, vì cơ hội sinh lời của cổ phiếu sẽ cao hơn. Nhưng thị
trường đợt này khó, cầm được tiền cũng tốt”, chị Oanh chia sẻ.
Anh Thăng, một nhà đầu tư có kinh nghiệm khác thì cho rằng ở thời điểm hiện tại,
khi giá cố phiếu thấp, việc doanh nghiệp mua cổ phiếu quỹ sẽ không hiệu quả bằng
chia lợi nhuận bằng tiền cho nhà đầu tư: “Phân phối như vậy vừa hỗ trợ thanh

khoản cho cổ phiếu, vừa giữ chân được cổ đông, nhất là cổ đông lớn”, nhà đầu tư
này khẳng định.


Tuy vậy, theo đại diện một doanh nghiệp dự kiến có mức trả cổ tức rất cao vào cuối
tháng 8 này, quyết định về hình thức phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp rất ít
phụ thuộc vào diễn biến của thị trường chứng khoán tốt hay xấu.
“Chia cổ tức theo hình thức nào, chia thành bao nhiêu đợt, tỷ lệ bao nhiêu… thực
ra đã được quyết định trong đại hội cổ đông thường niên. Công ty chúng tôi có
dòng tiền luân chuyển tốt nên thường chia cổ tức bằng tiền cho cổ đông. Tuy vậy,
nhà đầu tư vẫn có thể tăng khối lượng sở hữu trong những đợt phát hành cổ phiếu
thưởng”, đại diện này cho biết.
Bên cạnh đó, theo ông Phạm Vĩnh Thành, Phó tổng giám đốc Công ty chứng khoán
Kim Long, các doanh nghiệp thường cố thói quen chia cổ tức bằng tiền trong đợt
tạm ứng giữa năm, còn việc phân phối cổ phiếu có thể được xem xét khi năm tài
chính kết thúc.
Ngoài ra, ông Thành cũng cho rằng việc chia cổ tức theo hình thức nào, tỷ lệ bao
nhiêu… phải căn cứ vào tình hình tài chính của từng doanh nghiệp. Nếu quá lạm
dụng, có thể làm ảnh hưởng đến nguồn vốn cho các dự án đầu tư cũng như sức
khỏe tài chính của bản thân doanh nghiệp.
/>"Tôi sẽ bảo vệ đến cùng ý tưởng trả cổ tức theo thị giá"
Đầu tư Chứng khoán điện tử - 29/05/2010 9:05:00 SA

-

Trong Dự thảo sửa đổi Nghị định 139 hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp
đang lấy ý kiến lần cuối để chuẩn bị ban hành có một quy định thu hút sự
quan tâm của TTCK, đó là chi trả cổ tức theo thị giá.
Mặc dù nội dung này vấp phải sự không đồng tình của không ít DN và NĐT,
nhưng TS. Nguyễn Đình Cung, đại diện Ban soạn thảo, Phó viện trưởng Viện

Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương khẳng định: "Tôi sẽ bảo vệ đến cùng ý
tưởng trả cổ tức theo thị giá".
Đâu là những lý lẽ để bảo vệ đến cùng ý tưởng trên, thưa ông?


Sau khi tiếp thu ý kiến của các bên liên quan, sở dĩ Ban soạn thảo vẫn bảo lưu quy
định: "Giá trị của cổ phiếu được sử dụng để thanh toán cổ tức phải được tính theo
giá trị trường tại ngày quyết định chi trả cổ tức; mỗi cổ đông được nhận số cổ
phiếu có giá trị tương đương với số cổ tức như trường hợp công ty chi trả cổ tức
bằng tiền mặt", là bởi nhiều lý do.
Trước hết là xuất phát từ mô hình quản trị công ty. Theo đó, lợi ích của cổ đông chỉ
được đảm bảo trên cơ sở lợi ích bền vững của DN được duy trì và ngày càng phát
triển. Điều này có nghĩa là lợi ích của cổ đông luôn gắn rất chặt với lợi ích của DN
và nó được chứng minh qua thực tiễn: DN làm ăn có lãi mới có thể chia cổ tức, nếu
không thì ngược lại.
Hơn nữa, nếu chia cổ tức theo mệnh giá thì vừa dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền
của cổ đông nhằm "rút ruột" DN, vừa tác động xấu đến kế hoạch phát hành thêm
cổ phần để tăng vốn của DN. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của
DN, qua đó tác động tiêu cực đến quyền lợi của chính các cổ đông. Cách chia cổ
tức theo mệnh giá đang "ủng hộ" nhà đầu cơ lướt sóng, trong khi chia cổ tức theo
thị giá nhằm hướng đến mục tiêu ngược lại, qua đó đảm bảo lợi ích hợp lý cho cả
NĐT, DN, cũng như Nhà nước, ngay cả khi giá trị cổ phiếu bị pha loãng.
Như phân tích của ông, nếu chia cổ tức theo mệnh giá thì sẽ làm ảnh hưởng tiêu
cực đến khả năng phát hành thêm cổ phần để huy động vốn của DN, trong khi đó
nhiều DN lại có ý kiến ngược lại. Ông giải thích ra sao về mâu thuẫn này?
Không loại trừ tâm lý "thích" chia cổ tức theo mệnh giá để phục vụ cho mục đích
"bòn rút" giá trị của DN càng nhanh càng tốt của một số đối tượng. Bởi vậy, với tư
cách là nhà xây dựng luật, chúng tôi phải bảo vệ các giá trị để giúp DN phát triển
bền vững.
Tôi khẳng định, nếu chia cổ tức theo mệnh giá sẽ khuyến khích NĐT chạy theo các



lợi ích ngắn hạn, ảnh hưởng đến nỗ lực gia tăng sức mạnh nội tại, nhất là tiềm lực
tài chính của DN. Trong khi đó, cách chia này rất có hại cho DN, bởi ảnh hưởng
tiêu cực đến khả năng phát hành thêm cổ phần tăng vốn của DN.
Nếu chia cổ tức theo thị giá sẽ giúp DN có nhiều cơ hội phát hành cổ phần để tăng
vốn, bởi khi thị giá cổ phiếu cao, DN có thể chọn phương án phát hành cổ phần
mới, hoặc đem bán số cổ phần thặng dư từ việc chia cổ tức theo thị giá ra thị
trường với giá cao. Hơn nữa, khi nhận thấy tiềm năng phát triển tốt, ban lãnh đạo
DN hoàn toàn có thể thuyết phục cổ đông giữ lại cổ tức, để giúp DN có thêm
nguồn lực cho mục tiêu phát triển hiệu quả hơn.
Theo ông, làm thế nào để xác định được thị giá cổ phiếu khi chứng khoán niêm yết
có 3 mức giá là giá trần, giá sàn và giá tham chiếu?
Chọn mức giá nào trong 3 loại giá trên cũng đảm bảo yếu tố thị trường. Bởi vậy,
lấy mức giá nào làm căn cứ tính tỷ lệ chi trả cổ tức là hoàn toàn phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của DN tại ngày quyết định chi trả cổ tức.
Hữu Hòe
/>


×