Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.39 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BỘ TƢ PHÁP

TRẦN MINH SƠN

HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ PHÁP LÝ CHO DOANH NGHIỆP
TẠI VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS DƢƠNG ĐĂNG HUỆ

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, được xuất phát từ
yêu cầu phát sinh trong công việc của tôi để hình thành hướng nghiên cứu. Các
thông tin, số liệu nêu trong Luận văn có tham khảo và sử dụng một số thông tin, số
liệu từ các nguồn sách, báo cáo, các tạp chí. Các thông tin, số liệu có nguồn gốc rõ
ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc, chính xác. Kết quả trình bày trong luận văn được
thu thập trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Hà Nội, năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Minh Sơn



MỤC LỤC

Trang
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

3

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

5

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài


5

5.

Phương pháp nghiên cứu đề tài

6

6.

Điểm mới của đề tài

6

7.

Kết cấu luận văn

6

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC HỖ TRỢ PHÁP

8

LÝ CHO DOANH NGHIỆP

1.1.

Khái niệm, nhu cầu và vai trò của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh


8

nghiệp
1.1.1.

Khái niệm về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

8

1.1.2.

Nhu cầu về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

12

1.1.3.

Vai trò của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

20

1.2.

Nguyên tắc của hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

23

1.3.

Các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp


27

1.3.1.

Xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu pháp luật phục vụ hoạt động

27

của doanh nghiệp
1.3.2.

Xây dựng tài liệu giới thiệu, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật

28

cho doanh nghiệp
1.3.3.

Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp.

29

1.3.4.

Giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp.

30

1.3.5.


Tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật

31

1.3.6.

Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý cho

32

doanh nghiệp
1.4.

Pháp luật về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

34


Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HỖ TRỢ PHÁP LÝ CHO

37

DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

2.1.

Kết quả thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

37


2.1.1.

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ

37

2.1.11.

Bộ Tư pháp và Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh

37

nghiệp giai đoạn 2010-2014
2.1.1.2

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ khác có liên quan

41

2.1.2.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

42

2.1.3.

Các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp


44

2.2.

Tồn tại, hạn chế trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và

46

nguyên nhân
2.2.1

Tồn tại, hạn chế trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

46

2.2.1.1.

Công tác xây dựng cơ chế, chính sách liên quan đến công tác hỗ trợ

46

pháp lý cho doanh nghiệp
2.2.1.2.

Kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

47

2.2.1.3.


Tổ chức và đội ngũ làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

49

2.2.2.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

50

2.3.

Thực tiễn kinh nghiệm quốc tế về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh

52

nghiệp
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG

59

HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ PHÁP LÝ CHO DOANH NGHIỆP Ở VIỆT
NAM

3.1.

Hoàn thiện pháp luật hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

59


3.1.1.

Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ

59

pháp lý cho doanh nghiệp
3.1.2.

Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 12/10/2010 của

62

Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn lập dự toán, sử dụng và thanh
quyết toán kinh phí thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
3.1.3.

Tiếp tục thực hiện Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho
doanh nghiệp đến năm 2020

63


3.1.4.

Xây dựng và ban hành các kế hoạch tổ chức thực hiện và Chương trình

65

hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong phạm vi ngành, lĩnh vực và địa

phương
3.2.

Hoàn thiện về tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý cho

67

doanh nghiệp
3.2.1.

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ

67

3.2.2.

Các địa phương

68

3.2.3.

Các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp

69

3.3.

Tăng cường nguồn lực thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh


70

nghiệp
3.4.

Tăng cường cơ chế phối hợp giữa Trung ương và địa phương, các tổ

71

chức đại diện cho doanh nghiệp trong quá trình tổ chức các hoạt động hỗ
trợ pháp lý cho doanh nghiệp
KẾT LUẬN

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là việc Nhà nước quy định và thực hiện các
hình thức, nội dung hỗ trợ pháp lý; các điều kiện bảo đảm hoạt động hỗ trợ pháp lý
cho doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân kinh doanh; trách nhiệm của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc
hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là đối tượng đóng góp chủ yếu cho tổng sản phẩm quốc gia

GDP, là đòn bẩy quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm, giải quyết các vấn đề
xã hội như xóa đói, giảm nghèo, góp phần đảm bảo ổn định xã hội và lành mạnh hóa
các quan hệ xã hội. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi
để các doanh nghiệp phát triển và lớn mạnh. Điều này đã được ghi nhận trong các
văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Quan tâm và chăm lo cho sự phát
triển của doanh nghiệp Việt Nam luôn là ưu tiên của các cấp, các ngành. Định hướng
về việc hình thành và phát triển cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, có sức
cạnh tranh cao không chỉ là một nhiệm vụ trước mắt, mà còn được xác định là một
mục tiêu chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước.
Từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, hàng loạt đạo luật liên quan
đến doanh nghiệp đã được ban hành như: Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật
Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ... góp phần tạo
khung pháp lý tương đối đầy đủ và thuận tiện cho doanh hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp và từng bước khẳng định địa vị pháp lý của doanh nghiệp
tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong hoạt động của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều mặt yếu
kém, trong đó có việc thực hiện pháp luật, nhất là đối với đối tượng doanh nghiệp
nhỏ và vừa, đối tượng chiếm 97,7% trong tổng số doanh nghiệp Việt Nam1. Về vấn
Nguồn: Báo cáo đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa giai đoạn 2011-2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ngày 17/5/2014.
1


2

đề này, theo Báo cáo Thủ tướng Chính phủ năm 2008 của Bộ Tư pháp đã nêu rõ:
“Về phía doanh nghiệp, trình độ hiểu biết luật pháp và ý thức chấp hành pháp luật
của một bộ phận chủ sở hữu và người quản lý chưa cao; một số doanh nghiệp còn
làm ăn không trung thực, cố tình vi phạm quy định pháp luật; quản trị nội bộ doanh
nghiệp còn yếu, chưa minh bạch;...”.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam, nhằm
thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2008 về hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp (viết tắt là Nghị định số 66/2008/NĐ-CP), Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 5 tháng 5 năm 2010 phê duyệt Chương
trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2014 (viết tắt
là Chương trình 585), Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch
số 157/2010/TTLT/BTC-BTP ngày 12 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn lập dự toán,
thực hiện và thanh quyết toán kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp (viết tắt là Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT/BTC-BTP) và một loạt các
Chương trình hỗ trợ pháp lý trong phạm vi ngành, địa phương do các Bộ, cơ quan
ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành.
Các quy định về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã được ban hành kịp thời
nhằm đáp ứng nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp trong thời gian qua. Tuy
nhiên, sau hơn 5 năm triển khai thực hiện (năm 2008 là năm ban hành Nghị định số
66/2008/NĐ-CP), Nghị định số 66, Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTCBTP và các Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (Chương trình liên
ngành và Chương trình trong phạm vi ngành, lĩnh vực và địa phương) đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập, vướng mắc, khó khăn đặt ra nhiều vấn đề cần phải được
nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế hỗ trợ pháp lý này cho doanh nghiệp. Ngoài ra, do
được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
trên phạm vi cả nước, do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sỹ


3

của mình để góp phần hoàn thiện cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đã từ lâu nhiều nước đã thiết lập cơ

chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hầu hết các nước thuộc Cộng đồng chung
Châu Âu coi việc thông tin và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là trách nhiệm của
Nhà nước. Tại Cộng hòa Pháp, năm 1978 đã ban hành Luật số 78-753 quy định cơ
quan nhà nước có trách nhiệm trả lời chính xác mọi câu hỏi của cá nhân và doanh
nghiệp có liên quan đến các quy định pháp luật.2 Tại Hàn Quốc, Nhật Bản… việc hỗ
trợ pháp lý cho doanh nghiệp được Chính phủ đặt biệt coi trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước3. Tại nước ta, Nghị định số
66/2008/NĐ-CP được ban hành đầu tiên năm 2008 là văn bản pháp lý đầu tiên và
cao nhất của Nhà nước ta quy định một cách đầy đủ về hình thức, nội dung hỗ trợ
pháp lý, điều kiện bảo đảm hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và tổ chức, cá
nhân kinh doanh; trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp tại Việt Nam. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện Nghị định số 66/2008/NĐCP từ năm 2008 đến nay, trên thực tế đã bộc lộ nhiều vướng mắc, khó khăn và hạn
chế cần được nghiên cứu để tìm ra các giải pháp triển khai hiệu quả hơn nữa hoạt
động này trong thời gian tới, trong khi đó tuy có nhiều công trình nghiên cứu về cơ
chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (Bản thân tác giả cũng có 05 công trình nghiên
cứu) nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, đồng bộ về cơ
chế này như:
- “Cơ chế mới hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp sẽ làm thay đổi đời sống
doanh nghiệp”, của Trần Minh Sơn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 8 năm 2008;
2

Nguồn: Báo cáo của Chương trình hỗ trợ kỹ thuật của EC cho Việt Nam (ETV2) tại Hội thảo:
"Kinh nghiệm một số nước về trợ giúp pháp luật cho doanh nghiệp và nghiên cứu vận dụng tại Bộ
Tài chính" ngày 15/11/2007.
3
Nguồn: Báo cáo ngày 26/2/3013 của Bộ Tư pháp về sơ kết 2 năm thực hiện Chương trình hỗ trợ
pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2014.



4

- “Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hiện nay – một vài bất cập, nguyên nhân
và kiến nghị”, của Trần Minh Sơn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số tháng
1(214)/2010;
- “Nâng cao hoạt động hỗ trợ pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
hội viên trong hệ thống Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam”, của Nguyễn
Thanh Bình, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 12/2010;
- “Doanh nghiệp mong gì từ hỗ trợ pháp lý”, của Trương Thanh Đức, Tạp chí
dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 12/2010;
- “Vai trò của Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp trong công tác hỗ trợ pháp
lý cho doanh nghiệp”, của Trần Minh Sơn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên
đề tháng 12/2010;
- “Phát huy hiệu quả hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đối với
cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam”, của Tô Hoài Nam, Ths. Lê Anh
Văn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 5/2013;
- “Bước đột phá mới góp phần hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn khó
khăn”, của Trần Minh Sơn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề, tháng
5/2013;
- “Kết quả đáng ghi nhận của Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành
cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2014”, của TS. Đinh Trung Tụng, Tạp chí dân
chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 5/2013;
- “Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp năm 2013 và định hướng hoạt
động năm 2014”, của PGS-TS. Dương Đăng Huệ, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số
chuyên đề tháng 2/2014;
- “Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính”, của Hồ Thị
Hằng, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 2/2014;
- “Nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời
gian tới”, của Trần Minh Sơn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng
2/2014.



5

Tuy nhiên, do mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nghiên cứu này
cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu kết quả thực hiện, nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp và giới thiệu về các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mà
chưa nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, tổng thể về các nội dung liên quan
đến vấn đề này để từ đó đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động trong thời gian tới. Tuy vậy, đây vẫn là những tài liệu nghiên cứu quan trọng
được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp tại Việt Nam, các hình thức, nội dung hỗ trợ pháp lý, điều kiện bảo đảm hoạt
động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ
và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc hỗ trợ
pháp lý cho doanh nghiệp tại Việt Nam; nhận diện được những hạn chế, bất cập của
chế định này và các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện chúng. Từ đó, tìm ra
một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, vướng mắc, tồn tại đã nhận
diện, góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc đặt ra trong công tác hỗ trợ pháp
lý cho doanh nghiệp hiện nay.
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên
những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp như nội dung, hình thức và ý nghĩa, cơ sở của hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp; phân tích, đánh giá những hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
- Nghiên cứu tình hình thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại
Việt Nam.
- Tìm ra được một số giải pháp nhằm triển khai hiệu quả công tác hỗ trợ pháp

lý cho doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


6

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những hình thức, nội dung hỗ trợ pháp lý
cho doanh nghiệp, các quy định của pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và
thực trạng thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hiện nay.
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy vậy, do giới
hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản
nhất thuộc nội dung đề tài như những vấn đề chung về công tác hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp; cơ sở của việc pháp luật quy định các nội dung, hình thức hỗ trợ pháp lý
cho doanh nghiệp và thực tiễn thực hiện chúng trong những năm qua trên cơ sở đó
đưa ra các đề xuất, kiến nghị hiệu quả.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nước và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp thực tiễn.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên
quan đến công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Việt Nam, thể hiện ở các nội
dung cơ bản sau đây:
- Làm rõ được đặc điểm, ý nghĩa, nội dung, hình thức hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp tại Việt Nam và thực tiễn thực hiện;

- Kiến nghị, đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực
hiện hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn


7

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động hỗ trợ pháp lý
cho doanh nghiệp ở Việt Nam.


8

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC HỖ TRỢ PHÁP LÝ
CHO DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm, nhu cầu và vai trò của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Thực hiện chủ trương đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong thời gian vừa
qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng: Luật Doanh nghiệp (1999
và 2005); Luật Doanh nghiệp Nhà nước (1995 và 2003), Luật Đầu tư (2005), Luật
Hợp tác xã (2003 và 2012), Bộ luật Dân sự (2005), Luật Thương mại (2005), Luật
Cạnh tranh (2004), Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Phá sản (2004 và 2014) và
nhiều văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp. Các văn bản pháp luật này đã tạo nên một khung pháp lý tương đối đầy đủ
và thuận tiện cho các doanh nghiệp hoạt động. Trên thực tế, so với thời kỳ trước đổi
mới, các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác được thành lập ngày càng
nhiều về số lượng, đa dạng về quy mô và hình thức hoạt động 4. Kết quả hoạt động
của lực lượng doanh nhân này đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, trong hoạt động của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều mặt yếu
kém, trong đó có việc thực hiện pháp luật. Trình độ hiểu biết luật pháp và ý thức
chấp hành pháp luật của một bộ phận chủ sở hữu và người quản lý chưa cao; một số
doanh nghiệp còn làm ăn không trung thực, cố tình vi phạm quy định pháp luật;
quản trị nội bộ doanh nghiệp còn yếu, chưa minh bạch;... Sự yếu kém trong việc
4

Hiện có khoảng 348.342 doanh nghiệp được đăng ký và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp,
trong đó có tới 348,342 doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 97,7%), trên 3.000 doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, trên 20.000 hợp tác xã và trên 2,5 triệu hộ kinh doanh hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ và công nghiệp, 10 triệu hộ sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp và gần
100.000 trang trại lớn, nhỏ các loại (nguồn: Báo cáo đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Kế
hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2011-2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình
Thủ tướng Chính phủ ngày 17/5/2014).


9

thực hiện pháp luật của doanh nghiệp là do những nguyên nhân từ hai phía gây ra:
phía doanh nghiệp và phía Nhà nước.
Về phía doanh nghiệp, có những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nhận thức về vai trò, ý nghĩa của pháp luật của nhiều chủ sở hữu,
người quản lý doanh nghiệp còn hạn chế.5 Tình trạng doanh nghiệp không chú ý tới
việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật là phổ biến. Nhiều doanh nghiệp chưa có thói

quen sử dụng tư vấn pháp luật để áp dụng, thi hành pháp luật và phòng, chống rủi ro
trong kinh doanh;
Thứ hai, nhiều doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc sử dụng tư vấn
pháp luật; hoạt động hỗ trợ của các hiệp hội doanh nghiệp về vấn đề này cũng còn
nhiều bất cập. Thực tế này khó giải quyết vì tuyệt đại đa số các doanh nghiệp hiện
nay là nhỏ và vừa, tiềm lực tài chính eo hẹp;
Thứ ba, các doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận với thông tin
pháp luật. Theo kết quả điều tra của Bộ Tư pháp năm 2012 thì có khoảng 25%
doanh nghiệp được khảo sát cho rằng, việc tiếp cận với văn bản pháp luật là khó
hoặc không thể. Điều này đã ảnh hưởng đến sự hiểu biết của người quản lý doanh
nghiệp về hệ thống pháp luật kinh doanh của nhà nước ta và do đó cũng gây khó
khăn cho họ trong việc thực thi pháp luật.
Về phía Nhà nước, có những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Việc thực thi pháp luật của các doanh nghiệp khó một phần cũng do một số
nguyên nhân từ phía Nhà nước, trong đó có hai nguyên nhân chủ yếu là:
Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự quan tâm đến việc
thông tin, hướng dẫn, tổ chức thi hành pháp luật cho doanh nghiệp. Theo Luật Tổ
chức Chính phủ thì Chính phủ có nhiệm vụ bảo đảm việc thi hành pháp luật của tổ
chức, cá nhân nói chung và của doanh nghiệp nói riêng6. Luật Doanh nghiệp năm
5

Kết quả điều tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc năm 2011 cho thấy trong số 1237
doanh nghiệp được khảo sát thì có khoảng 70 đến 80% số doanh nghiệp không hiểu hoặc hiểu
không đầy đủ các quy định pháp luật cơ bản về kinh doanh; có nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức về pháp luật.
6
Khoản 2, Điều 8, Luật Tổ chức Chính phủ.


10


1999 cũng như Luật doanh nghiệp năm 2005 cũng có các quy định, theo đó, việc
thông tin, phổ biến và tổ chức thi hành các văn bản pháp luật là một trong các nội
dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp7. Trách nhiệm của Bộ và Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh trong hướng dẫn, tổ chức thực hiện pháp luật cũng đã được quy định
tại Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 5/11/2002 của Chính phủ về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ8 (được thay thế
bằng Nghị định số 178/2007/NĐ-CP và nay là Nghị định số 36/2012/NĐ-CP) và
Nghị định số 171/2004/NĐ-CP, của Chính phủ, ngày 29/9/2004 quy định tổ chức
các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương9 (được thay thế bằng Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và nay là Nghị
định 24/2014/NĐ-CP). Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước trong lĩnh vực này được đánh giá là còn nhiều bất cập. Các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, nhất là tại các địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa
gặp nhiều gặp khó khăn trong tiếp cận với pháp luật;
Thứ hai, nhiều thắc mắc của doanh nghiệp về nội dung các quy định pháp
luật và việc áp dụng pháp luật chưa được các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm giải
đáp kịp thời, do đó cũng làm cho việc thực thi pháp luật của doanh nghiệp gặp khó
khăn. Thực tế thời gian qua cho thấy tình trạng doanh nghiệp yêu cầu cơ quan quản
lý nhà nước giải đáp pháp luật nhưng không nhận được trả lời, hoặc trả lời không
kịp thời còn phổ biến. Những bất cập này đã không tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
thực hiện tốt pháp luật nhằm giảm thiểu rủi ro và kinh doanh có hiệu quả.
Những nguyên nhân từ hai phía trên đây đã làm cho công tác quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp còn kém hiệu quả. Pháp luật được ban
hành nhưng chưa được tổ chức thi hành tốt đã ảnh hưởng tới việc xây dựng môi
trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội.
Đối với doanh nghiệp, cùng với những hạn chế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm, thị
trường..., việc hiểu biết pháp luật hạn chế đã làm cho năng lực cạnh tranh của

7


Điều 162, Luật doanh nghiệp 2005.
Khoản 4, Điều 4 và khoản 1, Điều 13.
9
Khoản 6, Điều 4.
8


11

doanh nghiệp Việt Nam đã thấp lại càng thấp hơn gây bất lợi cho doanh nghiệp
nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay10.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp, thiết lập cơ chế thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp,
quy định cụ thể hình thức, nội dung hỗ trợ pháp lý và trách nhiệm của các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp; điều kiện bảo đảm hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 585/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hỗ trợ
pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010-2014, định hướng đến
năm 2020, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số
157/2010/TTLT-BTP-BTC hướng dẫn lập, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí
dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; các Bộ, cơ quan ngang Bộ và
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành các
Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong phạm vi Bộ, ngành và địa
phương như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Quốc phòng… Ủy ban nhân dân TP. Hà
Nội, TP. Hồ Chí Minh, Sóc Trăng, Bình Phước, Phú Thọ, Quảng Ngãi... Sự ra đời
của các văn bản quy phạm pháp luật và các Chương trình hỗ trợ nêu trên đã thể hiện
nhất quán chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp, đánh dấu bước chuyển về chất và lượng, đưa công tác hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn đất

nước.
Khái niệm hỗ trợ được hiểu là “Sự giúp đỡ nhau, giúp thêm vào” 11. Sự hỗ trợ
thường được thực hiện khi đối tượng hỗ trợ yếu hoặc chưa đủ mạnh ở một góc độ
nào đó. Việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là một nhiệm vụ quản lý nhà nước
trong nền kinh tế thị trường. Nhiệm vụ ấy càng quan trọng hơn khi hiện nay các
10

Thực tế cho thấy, trong 5 năm (2007-2012) gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, sức
cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới chưa được cải thiện đáng kể, sức
cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn còn thấp, độ ổn định chưa cao. Nguồn: Trang tin Bộ Ngoại giao.
11
Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998, trang
835.


12

doanh nghiệp Việt Nam đang yếu, rất yếu và thiếu kiến thức, hiểu biến pháp luật
(trong số gần 350.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động hiện nay thì 97,7% doanh
nghiệp nhỏ và vừa, nhiều doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ). Tuy nhiên, Nhà nước
không phải là chủ thể duy nhất có thể hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, mà còn có
các thiết chế khác như các hiệp hội doanh nghiệp, câu lạc bộ, luật sư… cũng có thể
cùng Nhà nước thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhưng Nhà nước đóng vai
trò chính, quản lý nhà nước, điều phối, chi phối, phân công các nhiệm vụ thực hiện
cho thống nhất, hiệu quả.
Theo quy định của Nghị định số 66/2008/NĐ-CP thì có thể hiểu: hỗ trợ pháp
lý là việc Nhà nước có các hình thức, nội dung hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, quy
định các điều kiện bảo đảm hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và tổ chức,
cá nhân kinh doanh; trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc hỗ trợ pháp lý cho doanh

nghiệp.
Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là công tác, lĩnh
vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện hỗ trợ
pháp lý cho doanh nghiệp (xây dựng chương trình, kế hoạch; triển khai chương
trình, kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua việc áp dụng các hình
thức, nội dung hỗ trợ; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện
chương trình, kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp).
Hiểu theo nghĩa rộng, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được hiểu là việc thực
hiện các hoạt động của các tổ chức được Nhà nước giao chức năng thực hiện hỗ trợ
pháp lý cho doanh nghiệp dưới nhiều hình thức nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho
doanh nghiệp hình thành ở họ ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật trong kinh
doanh, góp phần bảo vệ pháp chế, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế
tranh chấp và vi phạm pháp luật.
1.1.2. Nhu cầu về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp


13

1.1.2.1. Nhu cầu tiếp cận thông tin pháp luật
Đối với các doanh nghiệp, việc nắm bắt kịp thời những thông tin, thực hiện
đúng những quy định của pháp luật là hết sức cần thiết và tùy vào từng loại hình
kinh doanh, chiến lược phát triển và nhu cầu của người quản lý mà nhu cầu tiếp cận
về pháp luật có mức độ khác nhau. Việc tiếp cận văn bản pháp luật, am hiểu và thực
thi theo đúng pháp luật của doanh nghiệp tác động rất lớn đến chiến lược phát triển,
giúp doanh nghiệp phòng, tránh rủi ro trong kinh doanh, đảm bảo quyền lợi của
người lao động và người sử dụng lao động. Qua khảo sát của Bộ Tư pháp năm 2011
cho thấy, những loại văn bản và nội dung pháp lý mà doanh nghiệp cho là ảnh
hưởng trực tiếp và lớn nhất đến kinh doanh, sản xuất đó chính là những Thông tư,
Chỉ thị, văn bản hướng dẫn… của các đơn vị có liên quan như tài chính, kế hoạch
đầu tư, thuế, các quy định của ngân hàng, hải quan. Vì đây là những loại văn bản

giúp doanh nghiệp định hướng, thực hiện trong quá trình kinh doanh, sản xuất và
nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện như khai báo thuế, đóng thuế, thủ tục hải
quan…
Như vậy, nắm vững và tuân thủ những quy định pháp luật ngay từ khi thành
lập và trong quá trình hoạt động là điều kiện rất quan trọng để doanh nghiệp tồn tại
và phát triển, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời
góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, có rất nhiều doanh nghiệp
chưa chú trọng đến đội ngũ chuyên trách pháp lý, từ đó cho thấy doanh nghiệp chưa
thực sự chú trọng đến việc áp dụng, thực hiện pháp luật để phòng tránh rủi ro trong
kinh doanh, đảm bảo quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động.
Bên cạnh việc các doanh nghiệp phải tự trang bị kiến thức về pháp luật như bố
trí bộ phận pháp chế doanh nghiệp, thuê luật sư tư vấn… thì rất cần sự hỗ trợ về
pháp lý từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Có thể nói song song với nhu cầu hỗ
trợ về vốn, thông tin, mặt bằng sản xuất kinh doanh; hỗ trợ về đào tạo, xúc tiến đầu
tư, xúc tiến thương mại thì nhu cầu về hỗ trợ pháp lý cũng là một trong những yêu
cầu cấp thiết của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập. Bởi vì những quy định


14

trong các văn bản giúp doanh nghiệp chấp hành đúng chính sách quản lý kinh tế của
nhà nước, không vi phạm luật kinh doanh, đồng thời giúp doanh nghiệp nắm rõ
những chủ trương, chính sách phát triển kinh tế vĩ mô của đất nước để từ đó có định
hướng phát triển rõ ràng hơn và tránh được những rủi ro trong kinh doanh, sản xuất.
Trong số doanh nghiệp được khảo sát theo kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp năm
2012 cho thấy, có 53% doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ tiếp cận thông tin, các văn bản
pháp luật, 39% là cần được hỗ trợ, 4.6% ít cần và 3.7% không cần đến sự hỗ trợ.
Trong số doanh nghiệp cần được hỗ trợ tiếp cận thông tin, văn bản quy phạm pháp
luật, tập trung ở nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa với 87%, doanh nghiệp siêu nhỏ và
lớn lại có mức độ quan tâm ít hơn.

Theo kết quả này, có đến 98.2% doanh nghiệp rất cần và cần tiếp cận thông
tin, văn bản có nội dung về chính sách thuế (bao gồm thuế doanh nghiệp và thuế thu
nhập cá nhân), 60.4% có nhu cầu tiếp cận chính sách trợ vốn, 40.1% có nhu cầu tiếp
cận văn bản về thủ tục hải quan và 36.9% có nhu cầu tiếp cận luật, quy định, thông
lệ quốc tế.
Sự thay đổi nội dung văn bản pháp luật cũng tác động đến sự phát triển của
doanh nghiệp, do đó có đến 77% doanh nghiệp muốn được cung cấp kịp thời các văn
bản pháp luật mới. Tỷ lệ thuận với ý kiến này thì phần lớn các doanh nghiệp đều
muốn tiếp cận các văn bản pháp luật ngay khi có nhu cầu mà không xác định cụ thể
thời gian (chiếm 74.2%), tiếp cận theo định kỳ hàng tháng chiếm 13.8%, hàng tuần
chiếm 5.1%, hàng ngày chiếm 3.7% và không cần chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 1.8%.
Cũng theo các doanh nghiệp, văn bản của các Bộ, ngành là phương tiện phổ
biến pháp luật hiệu quả nhất (chiếm 57.1%), sau đó là thông qua website của Bộ,
ngành (chiếm 34.1%), qua các phương tiện truyền thông đại chúng (chiếm 14.3%),
tại các hiệp hội (chiếm 4.1%) và cuối cùng là Hệ thống Đối thoại doanh nghiệp
(chiếm 3.2%). Qua đây cũng cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp vẫn sử dụng
“kênh thông tin” truyền thống để tìm hiểu, tiếp cận văn bản pháp luật là văn bản của
các Bộ, ngành. Tuy nhiên, sự phát triển của công nghệ thông tin, internet cũng góp


15

phần phổ biến văn bản pháp luật đến doanh nghiệp, nhưng mức độ truy cập, cập nhật
của doanh nghiệp vào các trang web của Bộ, ngành chưa cao (chiếm 34.1%). Bên
cạnh đó cũng cho thấy, các tổ chức hiệp hội còn yếu kém, hoạt động mang tính hình
thức, chưa làm cầu nối để văn bản pháp luật đến với doanh nghiệp tốt hơn (số doanh
nghiệp lựa chọn phương án này chỉ chiếm 4.1%).
Về hình thức thông tin pháp luật đến doanh nghiệp có hiệu quả nhất là văn thư
của các Bộ, ngành đến doanh nghiệp (chiếm 78.3%); hội họp, gặp gỡ trao đổi giữa
các doanh nghiệp (chiếm 19.4%), đội tuyên truyền của các ngành đến doanh nghiệp

(chiếm 5.5%), tổ chức các mô hình trò chơi trên truyền hình (chiếm 1.8%) và tổ
chức cuộc thi giữa các doanh nghiệp (chiếm 1.4%) do khâu chuẩn bị và thực hiện
mất nhiều thời gian.
Như đã phân tích ở trên, có đến 17% doanh nghiệp không thể tiếp cận và 29%
doanh nghiệp khó tiếp cận văn bản pháp luật. Ngược lại, chỉ 1% doanh nghiệp dễ
dàng tiếp cận và 34% có thể tiếp cận được với văn bản pháp luật. Trong khi đó,
doanh nghiệp siêu nhỏ và lớn lại có mức độ quan tâm ít hơn. Những số liệu đó cho
thấy việc tiếp cận với văn bản pháp lý của doanh nghiệp chưa dễ dàng như mong
muốn của những người làm chính sách.
1.1.2.2. Nhu cầu được bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh
Đa phần hoạt động pháp lý do chính chủ doanh nghiệp thực hiện nên phần lớn
tự tìm kiếm thông tin trên mạng internet hoặc trên báo chí và khó sàng lọc thông tin,
dẫn đến việc có những quyết định mang nhiều tính tâm lý nên rủi ro cao. Vì vậy,việc
được tiếp cận và được bồi dưỡng thêm kiến thức pháp luật giúp doanh nghiệp nâng
cao hiệu quả và phòng tránh, giảm rủi ro pháp luật trong kinh doanh. Những kiến
thức pháp luật doanh nghiệp muốn bồi dưỡng chủ yếu có nội dung liên quan trực
tiếp đến quản lý, điều hành, hoạt động trong kinh doanh và sản xuất như: sở hữu,
thực hiện quyền sở hữu đối với vốn góp trong doanh nghiệp; đất đai; cạnh tranh; các
loại thuế và miễn giảm; thương mại quốc tế, hội nhập kinh tế; giải quyết tranh chấp


16

lao động; soạn thảo, ký kết và thực hiện hợp đồng; kế toán, kiểm toán; đăng ký giao
dịch bảo đảm cho doanh nghiệp...
Tuy nhiên, qua khảo sát của Bộ Tư pháp năm 2011 cho thấy, chỉ có 9% doanh
nghiệp thường xuyên được chính quyền mời tham dự các chương trình phổ biến
pháp luật, các buổi đối thoại, trong khi đó có đến 39% doanh nghiệp thỉnh thoảng
được mời, 30% ít khi được mời và có đến 22% doanh nghiệp chưa bao giờ được
chính quyền mời tham dự. Khi nhận được thư mời tham dự các chương trình này thì

rất nhiều doanh nghiệp tích cực tham gia (82%) và có 11,5% không tham gia vì thời
gian không phù hợp.
Tuy doanh nghiệp rất quan tâm đến các chương trình phổ biến pháp luật, cũng
như tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nhưng họ chưa thực sự được hỗ
trợ sâu rộng bởi chính quyền và các cấp có liên quan. Qua đây, cũng cho thấy các
cấp chính quyền, cũng như các Bộ, ban, ngành cần đẩy mạnh hơn nữa chương trình
phổ biến pháp luật, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao kiến thức pháp luật.
1.1.2.3. Nhu cầu được giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp
Quy định pháp luật tuy được thể hiện với văn phong đơn nghĩa nhưng là sản
phẩm của khoa học pháp lý và quản lý nhà nước, vì vậy không dễ hiểu với tất cả mọi
người. Từ đó, giải đáp pháp luật là nhu cầu phát sinh từ những người thực hiện luật
dù ở vị trí chủ động (công chức thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước) hay bị động
(doanh nghiệp). Do đó, xét về mặt lý thuyết, doanh nghiệp có nhu cầu được công
chức nhà nước hướng dẫn, giải đáp pháp luật. Kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp năm
2011 cũng đưa đến nhận định như trên.
Trong các doanh nghiệp được khảo sát, số lượng doanh nghiệp “rất cần được
giải đáp pháp luật” chiếm tỉ lệ cao nhất với 49.8%, gần một nửa số doanh nghiệp trả
lời. Kế đến, 41.5% doanh nghiệp “cần được giải đáp pháp luật”, 5.5% “ít cần” và số
“không cần” chỉ chiếm 2.8%. Như vậy là, với 96.8% doanh nghiệp có nhu cầu được
giải đáp pháp luật đòi hỏi phải có sự đáp ứng từ phía cơ quan chức năng nhằm thực
hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật. Bởi lẽ, doanh nghiệp không thể có sự tự giác


17

thực hiện khi chính họ không hiểu các quy định pháp luật. Vì vậy, ngay trong Nghị
định 66/2008/NĐ-CP đã có hẳn Điều 10 của Chương II để nói về việc giải đáp pháp
luật cho doanh nghiệp, các hình thức và thời gian, cách thức giải đáp pháp luật cho
doanh nghiệp.
Việc không thống nhất giữa các cơ quan chức năng trong việc áp dụng luật

cũng được 17.1% doanh nghiệp cho là có ảnh hưởng xấu tới hoạt động của mình.
Chỉ 4.6% doanh nghiệp nhận thấy sự chênh giữa luật Việt Nam và luật pháp quốc tế.
Kết quả này khá hợp lý vì đối tượng doanh nghiệp được hỏi đa số là nhỏ và vừa mà
hoạt động xuất nhập khẩu không phải là thế mạnh nên chưa có nhiều cảm nhận về
luật pháp quốc tế.
Kết quả cho thấy dù có đến 47% doanh nghiệp hài lòng với việc giải đáp của
các cơ quan chức năng nhưng vẫn là một con số thấp so với nỗ lực cải thiện chất
lượng dịch vụ công thuộc chương trình cải cách hành chính của Nhà nước. 39.6% số
doanh nghiệp cho rằng giải đáp khi có khi không và 10.6% thì cho rằng chỉ giải đáp
qua loa, thậm chí dù là cá biệt nhưng có đến 2.3% doanh nghiệp nói rằng cơ quan
chức năng chẳng giải đáp trước khi xử phạt cũng là điều nên lưu tâm.
Như vậy, việc giải đáp, hướng dẫn thực hiện các văn bản dưới Luật như Nghị
định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị… cần được các cơ quan nhà nước chú ý hơn. Vì
như kết quả khảo sát năm 2012 của Bộ Tư pháp, với hệ thống pháp lý và pháp chế
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế hiện nay, các doanh nghiệp luôn cần sự trợ giúp của
cơ quan chức năng và sự trợ giúp này chưa được nhiều doanh nghiệp đánh giá tốt.
Khoảng 2/3 số doanh nghiệp (từ 70.5% - 76.0% tổng số doanh nghiệp được
Bộ Tư pháp khảo sát năm 2011) cho rằng, trong thời gian qua, các phương tiện giải
đáp bằng văn bản của Sở ngành, từ website Sở ngành, từ các phương tiện truyền
thông lẫn hệ thống đối thoại doanh nghiệp đều không đạt hiệu quả cao. Đặc biệt, hầu
hết doanh nghiệp của cuộc khảo sát (đến 96.3%) đánh giá việc giải đáp pháp luật
qua hiệp hội là không đạt hiệu quả.


18

Ở đây, cần phân tích sâu từng phương tiện để nhận diện những vấn đề phản
ánh kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp. Ở phương tiện giải đáp pháp luật thông qua hệ
thống website của các Sở ngành, tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá không đạt hiệu quả
chiếm đến 70.5%. Trên thực tế, nếu khảo sát mức độ hiệu quả của các website Sở

ngành sẽ cho thấy đánh giá của các doanh nghiệp là hoàn toàn có cơ sở. Điểm qua
một số website Sở, ngành có liên quan nhiều đến hoạt động kinh doanh như Sở Kế
hoạch và đầu tư, Sở Công thương, các Sở, ngành khác đều trả lời chủ yếu cho cá
nhân và theo các vụ việc chung chung, không hiệu quả. Có thể nói, hiện hệ thống
Chính phủ điện tử của nước ta vẫn chưa phát triển đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp, nhất là trong việc giải đáp, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Đây cũng là
vấn đề đặt ra cho việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong giai đoạn sắp tới khi
giải đáp qua mạng điện tử là một trong bốn cách thức giải đáp pháp luật cho doanh
nghiệp mà Nghị định 66/2008/NĐ-CP quy định.
Giải đáp pháp luật là nhu cầu lớn nhất của doanh nghiệp khi có tới 96.8% lựa
chọn. Trong số những doanh nghiệp gặp khó khăn với thủ tục hành chính, chiếm đa
số là những doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 50 người, đồng thời không có
nhân viên pháp chế và không tham gia vào hội nghề nghiệp nào. Như vậy có thể
thấy, nếu doanh nghiệp có sự đầu tư phù hợp cho nhân viên pháp chế và tham gia
hoạt động hội thì khó khăn này sẽ giảm đi rất nhiều.
1.1.2.4. Nhu cầu kiến nghị và được tiếp nhận kiến nghị
Một hệ thống pháp luật hiệu quả khi quá trình xây dựng và áp dụng đối với xã
hội luôn mang tính chất mở, không đóng khuôn, luôn được cập nhật, điều chỉnh để
đáp ứng với thực tiễn phát triển của nền kinh tế, xã hội. Quá trình vận hành phát
triển không ngừng của nền kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi được chỉnh sửa, bổ sung của
hệ thống quy định của pháp luật. Trong giai đoạn đổi mới, quá trình xây dựng hệ
thống văn bản pháp lý của nước ta có những thay đổi tiến bộ và dần mang tính văn
hóa đối thoại khi được các Bộ ngành, địa phương thực hiện cơ chế góp ý, kiến nghị
với nhiều hình thức khác nhau như tổ chức hội nghị đối thoại doanh nghiệp, doanh


19

nghiệp gửi văn bản kiến nghị trong quá trình hoạt động hay tổ chức các hoạt động
đóng góp dự thảo các văn bản luật liên quan từ các Bộ, ngành, địa phương dành cho

doanh nghiệp, lấy ý kiến hay kiến nghị phản hồi từ hệ thống hiệp hội ngành nghề…
trong giai đoạn những năm gần đây trên phạm vi cả nước là minh chứng cho một cơ
chế đối thoại tiến bộ của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Điều cần khẳng định là sự thay đổi này đã đem lại những lợi ích tích cực, góp phần
nâng cao chất lượng xây dựng văn bản pháp luật và dần tạo lập một môi trường
mang tính văn hóa đối thoại thể hiện tính dân chủ trong xã hội, đồng thời giải quyết
và nhận diện nhanh chóng những bất cập khi áp dụng hệ thống quy định pháp luật
trong thực tiễn hoạt động doanh nghiệp.
Tuy nhiên, theo các kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp năm 2012, trong quá
trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, nhiều cơ quan chức năng vẫn chưa
quan tâm lấy ý kiến của doanh nghiệp – vốn là đối tượng chịu tác động trực tiếp của
các văn bản này. Trên trang thông tin điện tử của các cơ quan chức năng tuy có mục
lấy ý kiến nhưng nhưng lại cung cấp thông tin không đầy đủ hoặc không đăng tải các
dự thảo để doanh nghiệp xem và đóng góp ý kiến. Hơn nữa, không có sự phản hồi
với những kiến nghị đó khiến số doanh nghiệp không hài lòng khi gửi kiến nghị là
khá cao. Doanh nghiệp cho rằng các hoạt động mang tính đối thoại để góp ý kiến
hay kiến nghị còn mang tính hình thức, cơ quan chức năng không giải quyết các ý
kiến, kiến nghị đó hoặc kéo dài thời gian. Chính những điều này gây nên tâm lý
“mất lòng tin” nơi doanh nghiệp khi thực hiện việc kiến nghị, đóng góp ý kiến. Hơn
nữa, nhiều doanh nghiệp, nhất là nhóm siêu nhỏ, nhỏ, thuộc hệ thống bán lẻ… ít có
sự quan tâm đến quy định và văn bản pháp luật nên cũng ít có kiến nghị đến cơ quan
chức năng.
Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp có thường tham dự các hoạt động đối thoại,
trao đổi ý kiến hay phổ biến pháp luật mà các cơ quan chức năng tổ chức hay
không? Kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp năm 2012 cho thấy những chỉ số khá bất
ngờ khi chỉ có 8.8% doanh nghiệp thường xuyên tham dự các chương trình hay buổi


20


đối thoại của chính quyền, trong khi đó có 21.7% doanh nghiệp chưa bao giờ tham
dự. Còn lại, số doanh nghiệp thỉnh thoảng tham dự các hoạt động này chiếm một tỷ
lệ tương đối trong số doanh nghiệp được khảo sát là 39.6% và có đến 30% số doanh
nghiệp ít khi tham dự. Trong tổng số đó có đến 82% nhận được thư mời tham dự các
hoạt động này nhưng chỉ 8.8% đến dự là một điều hết sức đáng lưu tâm.
Ở đây vấn đề là các doanh nghiệp không nhận thấy sự cần thiết của các hoạt
động mang tính đối thoại này hay cho rằng chất lượng của các hoạt động này mang
tính hình thức cần được làm rõ thêm. Các kết quả khảo sát tiếp theo cho thấy, doanh
nghiệp (chủ doanh nghiệp) chỉ tham gia đối thoại và kiến nghị với cơ quan chức
năng khi nào chính bản thân doanh nghiệp gặp vấn đề pháp lý ảnh hưởng đến hoạt
động mà thôi.
Kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp năm 2012 cho thấy, tương quan giữa mức
độ hài lòng với không hài lòng của các doanh nghiệp được khảo sát khi gửi kiến
nghị là tương đương nhau (38.2% - 40.1%), đặc biệt có đến 21.7% doanh nghiệp
được hỏi không trả lời. Điều này cho thấy, mức độ hài lòng của doanh nghiệp trong
việc kiến nghị đối với hệ thống cơ quan chức năng ở mức không khả quan.
Việc giải quyết khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp ở cấp Sở sẽ còn khó
khăn hơn do phân cấp thấp hơn kéo theo sự co giãn chính sách cũng sẽ kém hơn,
chưa kể nhiều việc phải chờ ý kiến từ Bộ.
1.1.3. Vai trò của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Pháp luật là phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành
bình thường của xã hội nói chung và của nền kinh tế nói riêng. Pháp luật không chỉ
là một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho các
doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh trong xu hướng hội nhập hóa toàn cầu.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp
luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây
dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát



×