Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Những khía cạnh pháp lý của hợp đồng đại diện cho thương nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.77 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN QUỲNH XUÂN

NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG
ĐẠI DIỆN CHO THƯƠNG NHÂN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN QUỲNH XUÂN

NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG
ĐẠI DIỆN CHO THƯƠNG NHÂN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 60380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Vũ Thị Lan Anh

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình và
bạn bè trong suốt khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
tới Ban giám hiệu, toàn thể quý thầy, cô, cán bộ, nhân viên trong Phòng Đào
tạo sau đại học, Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ, nhân viên
thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sỹ.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sỹ Vũ Thị Lan Anh –
người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè đã luôn ở
cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong qua trình học tập và thực hiện đề tài nghiên
cứu của mình.

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Quỳnh Xuân


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI DIỆN CHO

THƯƠNG NHÂN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI DIỆN CHO
THƯƠNG NHÂN ........................................................................................................ 6
1.1. Hoạt động đại diện cho thương nhân và vai trò của nó trong nền kinh tế
thị trường ........................................................................................................ 6
1.1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của hoạt động đại diện cho
thương nhân ................................................................................................ 6
1.1.2. Vai trò của hoạt động đại diện cho thương nhân trong nền kinh tế
thị trường ................................................................................................... 9
1.2. Hợp đồng đại diện cho thương nhân- hình thức pháp lý của quan hệ đại
diện cho thương nhân .................................................................................... 11
1.2.1. Bản chất pháp lý của hợp đồng đại diện cho thương nhân ............... 11
1.2.2. Phân biệt hợp đồng đại điện cho thương nhân và hợp đồng ủy quyền
trong dân sự .............................................................................................. 13
1.3. Khái quát pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân.................... 14
1.4. Những nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đại
diện cho thương nhân .................................................................................... 16
1.5. Pháp luật của một số nước trên thế giới về hợp đồng đại diện cho
thương nhân ................................................................................................. 17
1.5.1. Pháp luật các nước thuộc hệ thống Common-law ............................ 19
1.5.2. Pháp luật các nước thuộc hệ thống Civil-law................................... 21
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI DIỆN
CHO THƯƠNG NHÂN ........................................................................................... 23
2.1. Chủ thể của hợp đồng đại diện cho thương nhân .................................... 23
2.2. Đối tượng của hợp đồng đại diện cho thương nhân ................................ 27
2.3. Hình thức của hợp đồng đại diện cho thương nhân ................................. 30
2.4. Hiệu lực của hợp đồng đại diện cho thương nhân ................................... 31


2.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng đại diện cho thương nhân.
...................................................................................................................... 34

2.5.1. Quyền và nghĩa vụ của bên đại diện ................................................ 34
2.5.2. Quyền và nghĩa vụ của bên giao đại diện......................................... 44
2.6. Chấm dứt hợp đồng đại diện cho thương nhân ....................................... 46
2.7. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đại diện cho thương nhân................. 50
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI DIỆN
CHO THƯƠNG NHÂN ........................................................................................... 52
3.1. Thực trạng xác lập và thực hiện hợp đồng đại diện cho thương nhân ở
Việt Nam ...................................................................................................... 52
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân ... 55
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương
nhân .............................................................................................................. 59
3.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về chủ thể của hợp đồng đại diện
cho thương nhân ........................................................................................ 59
3.3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức của hợp đồng đại diện
cho thương nhân ........................................................................................ 60
3.3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng đại diện cho thương nhân. ................................................ 61
3.3.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về chấm dứt hợp đồng đại diện cho
thương nhân .............................................................................................. 62
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................67


1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại diện là một trong những hoạt động được pháp luật được ghi nhận từ
lâu và ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong xã hội hiện đại. Tại Việt Nam,

hoạt động đại diện xuất hiện trước tiên trong lĩnh vực dân sự và là cơ sở cho sự
ra đời của hoạt động đại diện trong lĩnh vực thương mại với tên gọi “đại diện cho
thương nhân”. Là một trong các hình thức của hoạt động trung gian thương mại, đại
diện cho thương nhân tuy mới được quy định tại Luật Thương mại 1997 nhưng
đang dần khẳng định được tính hữu ích của nó trong việc trợ giúp các thương nhân
hoạt động kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường. Hoạt động đại diện cho
thương nhân lần đầu tiên được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997 và tiếp
tục được hoàn thiện trong Luật Thương mại năm 2005 tạo thành khung pháp lý cho
các chủ thể khi tham gia quan hệ đại diện cho thương nhân, góp phần bảo vệ một
cách hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của các thương nhân.
Hoạt động đại diện cho thương nhân được tiến hành trên cơ sở hợp đồng
đại diện được ký kết giữa bên giao đại diện và bên đại diện. Nói cách khác, hợp
đồng đại diện cho thương nhân là hình thức pháp lý của hoạt động đại diện cho
thương nhân. Trên cơ sở các quy định chung về hoạt động đại diện cho thương
nhân, các bên tham gia quan hệ thỏa thuận những nội dung cụ thể, tạo thành các
điều khoản của hợp đồng đại diện cho thương nhân. Khi hợp đồng được giao kết
hợp pháp, các điều khoản hợp đồng không trái quy định pháp luật sẽ trở thành
những ràng buộc pháp lý buộc bên giao đại diện và bên đại diện phải thực thi và
tuân thủ, tức là trở thành luật đối với các bên giao kết. Mặc dù có những đặc
trưng pháp lý cơ bản của hợp đồng nói chung nhưng hợp đồng đại diện cho
thương nhân cũng có những điểm đặc thù riêng biệt, khiến cho thực tiễn ký kết
và thực hiện loại hợp đồng này trong thời gian qua đã và đang phát sinh một số
vướng mắc, khó khăn như: quyền và nghĩa vụ của các bên quy định chưa rõ dẫn


2

đến vi phạm, tranh chấp; việc đơn phương chấm dứt hợp đồng gặp vướng mắc
về thời hạn đại diện và quyền lợi tài chính của bên đại diện….
Để bảo vệ tối ưu quyền và lợi ích của các bên khi tham gia vào hoạt động

đại diện cho thương nhân, việc nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận
và quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại diện cho thương nhân là một vấn
đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu luận văn
thạc sỹ là: “Những khía cạnh pháp lý của hợp đồng đại diện cho thương nhân”
với mục tiêu làm rõ các quy định pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương
nhân và chỉ ra khó khăn, vướng mắc về mặt pháp luật làm cơ sở đề xuất các giải
pháp khắc phục để các quy định pháp luật điều chỉnh tốt hơn quan hệ này trong
môi trường thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hợp đồng đại diện cho thương nhân là một vấn đề pháp luật còn khá mới
mẻ. Với tư cách là một hình thức trung gian thương mại, hoạt động đại diện cho
thương nhân đã được nghiên cứu ở một số cấp độ, tuy nhiên, việc nghiên cứu
trực tiếp và toàn diện về hợp đồng đại diện cho thương nhân vẫn chưa có nhiều.
Trực tiếp liên quan đến vấn đề hợp đồng đại diện cho thương nhân hiện nay mới
chỉ có một phần trong luận án tiến sỹ luật học của TS. Nguyễn Thị Vân Anh
“Pháp luật điều chỉnh các hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam” (đã
được bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2007). Luận án tiến sĩ “Đại
diện cho thương nhân theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay” của Hồ
Ngọc Hiển (tháng 5/2012, Học viện khoa học xã hội) là công trình mới nhất
nghiên cứu về hoạt động đại diện cho thương nhân, trong đó có một số khía cạnh
liên quan đến hợp đồng đại diện cho thương nhân. Luận văn thạc sĩ “Pháp luật
Việt Nam về đại diện trong quan hệ hợp đồng” của Đỗ Hoàng Yến, khoa Luật
trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2012) cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt
động đại diện và chế định hợp đồng nhưng không nghiên cứu riêng hợp đồng đại
diện cho thương nhân mà chỉ nghiên cứu hợp đồng đại diện trong dân sự. Ngoài


3

ra cũng có một số bài viết chuyên ngành trên các Tạp chí có liên quan đến đề tài

như: “Chế định đại điện theo quy định của pháp luật Việt Nam- nhìn từ góc độ
so sánh” của tiến sĩ Ngô Huy Cương (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4 năm
2009) ; “Khái niệm, bản chất pháp lý của hoạt động trung gian thương mại” của
tiến sĩ Nguyễn Thị Vân Anh (Tạp chí Luật học số 1 năm 2006); “Các hình thức
pháp lý chủ yếu của hoạt động trung gian thương mại” của tiến sĩ Nguyễn Thị
Vân Anh (Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 3 năm 2006); “Hoạt động đại diện
cho thương nhân ở Việt Nam: một số vấn đề pháp lý” của tiến sĩ Nguyễn Thị
Vân Anh (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 8 năm 2006).
Ngoài ra, hoạt động đại diện cho thương nhân đã được đề cập đến với
những nội dung cơ bản trong giáo trình của một số cơ sở đào luật như: giáo trình
Luật thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương Mại
của Khoa luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội… Với tính chất là những giáo
trình dành cho sinh viên đại học, những nội dung được nghiên cứu trong các giáo
trình này mới dừng lại ở việc trang bị những kiến thức cơ bản về hoạt động đại
diện cho thương nhân chứ chưa có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu về dạng hợp
đồng đại diện cho thương nhân và các vấn đề thực tiễn liên quan đến loại hợp
đồng này.
Như vậy, trong số các nghiên cứu kể trên chưa có công trình nghiên cứu
nào tập trung làm rõ các vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về hợp đồng đại
diện cho thương nhân một cách toàn diện và đầy đủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ các khía cạnh pháp lý
của hợp đồng đại diện cho thương nhân, chỉ ra những vướng mắc trong quy định
pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân, từ đó tìm ra những phương
hướng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật điều
chỉnh quan hệ phát sinh từ loại hợp đồng này.
Từ mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:


4


- Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ các căn cứ của hoạt động đại diện cho
thương nhân và bản chất pháp lý của hợp đồng đại diện cho thương nhân.
- Thứ hai, phân tích thực trạng các quy định của pháp luật điều chỉnh quan
hệ hợp đồng đại diện cho thương nhân, từ đó nêu được những bất cập, hạn chế
trong quy định của pháp luật.
- Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn
đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng đại diện
cho thương nhân.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm: các quan điểm pháp lý về hợp
đồng đại diện cho thương nhân và pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân,
các văn bản pháp luật của Việt Nam và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
quy định về hợp đồng đại diện cho thương nhân, thực tiễn xây dựng và áp dụng các
quy định pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân ở Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những khía cạnh pháp lý của hợp đồng đại
diện cho thương nhân trên cơ sở lý luận cũng như các quy định liên quan đến
hợp đồng đại diện cho thương nhân trong Luật Thương mại năm 2005, các hợp
đồng đại diện chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2005 không thuộc phạm vi
nghiên cứu của luận văn này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ luận văn đặt ra, luận văn sử dụng phối hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, luật học so sánh, khảo
sát thực tiễn. Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền
tảng của phương pháp duy vật biện chứng, trên cơ sở các quan điểm, đường lối
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.


5


7. Nội dung nghiên cứu và những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã đề cập như trên, luận văn
nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng đại diện cho thương nhân và
khái quát pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân, thực trạng quy định
pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có những điểm mới sau đây:
- Làm rõ một cách tổng thể các vấn đề lý luận về hợp đồng đại diện cho
thương nhân, những đặc trưng pháp lý của loại hợp đồng này cho phép phân biệt
với hợp đồng đại diện trong dân sự cũng như phân biệt với một số dạng hợp
đồng có tính chất trung gian thương mại như hợp đồng đại lý, hợp đồng ủy thác
thương mại…
- Chỉ ra những bất cập trong cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ
hợp đồng đại diện cho thương nhân, làm rõ nguyên nhân để từ đó đề xuất một số
giải pháp hoàn hiện pháp luật để nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với
quan hệ hợp đồng đại diện cho thương nhân.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng đại diện cho thương nhân và
pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân.
Chương 2: Các quy định pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân.


6

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI DIỆN CHO

THƯƠNG NHÂN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI DIỆN
CHO THƯƠNG NHÂN

1.1. Hoạt động đại diện cho thương nhân và vai trò của nó trong nền kinh tế
thị trường
1.1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của hoạt động đại diện cho
thương nhân
Hoạt động đại diện nói chung đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử với
những hình thức sơ khai. Đầu tiên, quan hệ đại diện được thể chế hóa thành các
quy tắc ứng xử trong lĩnh vực dân sự, sau đó nâng lên thành các quy phạm pháp
luật về đại diện, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại.
Vào thời đại Hammurabi, Lưỡng Hà cổ đại, với sự phát triển của hoạt
động thương mại trong và ngoài nước, Bộ luật Hammurabi đã có một số quy
định điều chỉnh hoạt động đại diện thương mại khi thương nhân ủy quyền cho
người khác mang hàng hóa đi bán ở nơi xa. Khi thương nhân ủy quyền cho gia
nhân của họ đi bán hàng ở xa, người gia nhân có trách nhiệm vận chuyển hàng
hóa ra nước ngoài, bán hàng hóa, ghi chép cẩn thận việc mua bán hàng hóa cũng
như số tiền thu được, nộp số tiền thu được cho thương nhân. Gia nhân được ủy
nhiệm cũng có trách nhiệm phải mang lợi nhuận về cho thương nhân [17; tr.18].
Chế định hợp đồng ủy quyền cũng đã sớm xuất hiện trong pháp luật La
Mã, thể hiện mối quan hệ giữa một người (được gọi là người ủy quyền) giao cho
người khác (gọi là người được ủy quyền) thực hiện một công việc vì lợi ích của
người ủy quyền. Với chế định này, Luật La Mã cũng đồng thời quy định một số
nghĩa vụ của các bên như: người được ủy quyền có trách nhiệm thực hiện công
việc được giao một cách tỉ mỉ và cẩn trọng và phải chịu trách nhiệm trong trường
hợp có lỗi mà gây tổn thất cho người ủy quyền...người ủy quyền có trách nhiệm


7


bù đắp những tổn thất mà người người được ủy quyền phải gánh chịu trong quá
trình thực hiện các công việc vì lợi ích của người ủy quyền [23; tr.58].
Bên cạnh đó, Luật La Mã cũng quy định về ủy quyền lại, theo đó, nếu hợp
đồng không quy định bắt buộc người được ủy quyền phải thực hiện công việc thì
người được ủy quyền có thể giao cho người khác thực hiện nhưng bản thân mình
vẫn phải chịu trách nhiệm trước người ủy quyền. Về chấm dứt quan hệ ủy quyền,
Luật La Mã quy định hợp đồng ủy quyền chấm dứt khi hết thời hạn ủy quyền, khi
công việc ủy quyền hoàn thành, khi có một bên chết hoặc khi bị người ủy quyền
hủy bỏ. Hợp đồng ủy quyền cũng có thể chấm dứt do ý chí đơn phương của người
được ủy quyền, tuy nhiên, nếu người được ủy quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng mà gây thiệt hại cho người ủy quyền thì phải bồi thường [16].
Kế thừa các nội dung pháp luật dân sự về đại diện, pháp luật về đại diện
trong lĩnh vực thương mại đã được hình thành và phát triển. Trên cơ sở sự phát
triển của thương mại và đội ngũ thương nhân, đại diện thương mại ra đời, góp
phần thúc đẩy các giao dịch thương mại phát triển. Là một trong các hình thức
trung gian thương mại, cùng với đại lý mua bán hàng hóa, ủy thác thương mại,
môi giới thương mại, hoạt động đại diện cho thương nhân là mức độ phân công
lao động cao hơn trong lĩnh vực thương mại, có chức năng kết nối các thương
nhân với nhau. Với hoạt động này, hợp đồng đại diện đã sớm xuất hiện trong
lịch sử như hình thức pháp lý của hoạt động đại diện.
Ở Việt Nam, pháp luật về đại diện nói chung mới xuất hiện gần đây và chủ
yếu là tiếp nhận từ bên ngoài, không phải hình thành do nhu cầu nội tại của đời
sống kinh tế xã hội. Theo tiến sĩ Hồ Ngọc Hiển, trước năm 1975, ở Miền Nam,
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã ban hành Bộ luật Thương mại 1972, trong
đó có nhắc đến đại diện thương mại tại Điều 342 với tư cách là một hành vi
thương mại chỉ dẫn [17; tr.100]. Tuy nhiên, các quy định cụ thể hóa quan hệ đại
diện thì chưa có. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa và tập trung, bao cấp trước


8


năm 1986, hoạt động thương mại theo đúng nghĩa của nó bao gồm cả hoạt động
đại diện không được thừa nhận và điều chỉnh bởi pháp luật. Hoạt động sản xuất
kinh doanh hoàn toàn theo chỉ tiêu, pháp lệnh. Kể từ năm 1986, khi đất nước tiến
hành đổi mới, lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường, hệ thống pháp
luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, thương mại mới dần được hình thành,
trong đó có các quy định về đại diện trong lĩnh vực thương mại.
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 lần đầu tiên đã ghi nhận quan hệ đại diện
giữa chủ thể pháp nhân và người đại diện trong việc ký kết hợp đồng kinh tế với
chủ thể thứ ba. Tại Điều 9 Pháp lệnh này quy định người ký kết hợp đồng kinh tế
phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh
doanh. Đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh
doanh có thể ủy quyền cho người khác thay mình ký hợp đồng kinh tế. Người
được ủy quyền chỉ được ký hợp đồng kinh tế trong phạm vi được ủy quyền và
không được ủy quyền lại cho người thứ ba.
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự cũng đã có một số quy định về đại diện tại
Điều 6 và Điều 7 về đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Tuy nhiên,
các quy định này chỉ điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự mà không được áp
dụng cho các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại.
Cùng với việc pháp điển hóa các quy định pháp luật dân sự, pháp luật kinh
doanh thương mại, các quy định về đại diện trong lĩnh vực dân sự đã được quy
định một cách hệ thống trong Bộ luật Dân sự 1995, các quy định về đại diện
thương mại được quy định trong Luật Thương mại 1997. Do sự tách biệt giữa hai
hệ thống pháp luật dân sự và thương mại như trên cùng với việc vẫn tồn tại Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế 1989, nhìn chung, các quy định về đại diện trong lĩnh vực
thương mại tại thời điểm này chưa có sự thống nhất.
Năm 2005 đánh dấu mốc quan trọng đối với hoạt động đại diện cho
thương nhân khi Bộ luật dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 được ban hành,



9

Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực. Lúc này, hai hệ thống pháp luật dân sự
- thương mại được thống nhất dựa trên nguyên tắc mối quan hệ luật chung (Bộ
luật Dân sự) và luật chuyên ngành (Luật Thương mại và các luật chuyên ngành
khác). Pháp luật về đại diện trong lĩnh vực thương mại do đó cũng được xác định
theo nguyên tắc này. Theo đó, các quy định pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể
có liên quan đến đại diện cho thương nhân được ưu tiên áp dụng trước, nếu luật
chuyên ngành không có quy định mới áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
Hiện nay, hoạt động đại diện cho thương nhân vẫn chịu sự điều chỉnh của các
văn bản pháp luật này dựa vào nguyên tắc nêu trên.
1.1.2. Vai trò của hoạt động đại diện cho thương nhân trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận của thương nhân không chỉ có
được từ phương thức kinh doanh trực tiếp mà còn thông qua các phương thức
trung gian thương mại. Tham gia vào quan hệ đại diện cho thương nhân là một
phương thức kinh doanh đang ngày càng trở nên phổ biến, góp phần phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Vai trò của
hoạt động đại diện cho thương nhân trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở
những khía cạnh sau:
Thứ nhất, đại diện cho thương nhân là cầu nối giữa người được đại diện
và khách hàng. Đại diện cho thương nhân là một trong số các hoạt động trung
gian thương mại, cùng với môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và
đại lý thương mại. Do vậy, vai trò đầu tiên của hoạt động đại diện cho thương
nhân cũng chính là đặc trưng cơ bản của hoạt động này- là cầu nối giữa người
được đại diện và khách hàng. Điều này có nghĩa người được đại diện không trực
tiếp giao dịch, làm việc với khách hàng mà thông qua người đại diện. Đây là
điểm khác với phương thức giao dịch trực tiếp- phương thức kinh doanh truyền
thống, theo đó bên sở hữu hàng hóa hay cung cấp dịch vụ và khách hàng tự tìm
kiếm cơ hội giao kết và thực hiện hợp đồng. Với hoạt động đại diện cho thương
nhân, cơ hội giao dịch của các bên được nhân lên gấp nhiều lần thông qua người



10

đại diện. Sở dĩ như vậy là do người đại diện thường có nhiều thông tin về thị
trường, nguồn hàng hóa, các đối tác tiềm năng trong lĩnh vực họ nhận làm đại
diện nên khả năng kết nối và kết nối thành công các doanh nghiệp trong việc hợp
tác sản xuất, kinh doanh sẽ cao hơn việc các doanh nghiệp tự tìm đến với nhau.
Thứ hai, hoạt động đại diện cho thương nhân giúp mở rộng việc sản xuất,
kinh doanh của người được đại diện. Khi gia nhập vào thương trường, bất kỳ
thương nhân nào cũng có nhu cầu mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường. Tuy
nhiên, không phải thương nhân nào cũng có thể tự mình giải quyết tất cả các
công việc kinh doanh ở nhiều nơi cùng một lúc. Hoạt động đại diện cho thương
nhân cho phép họ thông qua những chủ thể khác để thực hiện các hoạt động
thương mại vì lợi ích và nhân danh chính họ. Những chủ thể này chính là người
đại diện. Bên cạnh đó, nếu thương nhân muốn tiếp cận một thị trường mới
nhưng không đủ thông tin cần thiết, gặp bất tiện trong việc đi lại, cản trở về
mặt văn hóa hay cách biệt về ngôn ngữ…, họ có thể sử dụng người đại diện là
người địa phương để tiến hành các giao dịch thương mại [21]. Bên cạnh vai trò
gia tăng cơ hội kinh doanh, thu lợi nhuận, giải pháp này còn góp phần hạn chế
bớt rủi ro cho thương nhân, đồng thời tiết kiệm chi phí rút khỏi thị trường nếu
việc kinh doanh không mang lại hiệu quả như mong muốn, nhất là khi thương
nhân muốn mở rộng việc sản xuất, kinh doanh ra thị trường nước ngoài.
Thứ ba, đại diện cho thương nhân giúp doanh nghiệp giải quyết tốt hơn
các vấn đề, lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn sâu. Trong quá trình sản xuất kinh
doanh, thương nhân thường phải giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp lý,
thuế, các giải pháp công nghệ cao... Đây là những lĩnh vực mang tính chuyên
môn sâu mà không phải thương nhân nào cũng có khả năng tài chính để thuê
nhân viên phụ trách thường xuyên. Do vậy, thương nhân có thể sử dụng chuyên
gia trong từng lĩnh vực, chính là người đại diện để tư vấn, thay mặt họ trong các

vấn đề pháp lý khi ký kết hợp đồng, giải quyết tranh chấp, liên hệ với cơ quan


11

nhà nước có thẩm quyền... Bằng cách này, thương nhân có thể vừa tiết kiệm chi
phí, vừa đạt được hiệu quả công việc như mong muốn.
Thứ tư, hoạt động đại diện cho thương nhân góp phần hình thành chuyên
môn hóa, chuyên nghiệp hóa trong lĩnh vực thương mại. Như đã đề cập, hoạt động
đại diện ra đời xuất phát từ việc thương nhân không đủ thời gian, điều kiện về
năng lực... để thực hiện nhiều công việc cùng một lúc. Họ thường sử dụng người
đại diện thay mặt mình tiến hành công việc ở một lĩnh vực nhất định như thực
hiện các nghiệp vụ thị trường, pháp luật, thuế, chứng khoán, bất động sản... Do
vậy, người đại diện chỉ có thể thực hiện có hiệu quả công việc của mình, thu
được phí dịch vụ đại diện nếu am hiểu các lĩnh vực chuyên sâu, thông thạo thị
trường địa phương cũng như thị trường sản phẩm. Nói cách khác, người đại diện
phải thực sự là những chuyên gia trong lĩnh vực của mình, có khả năng mang lại
lợi ích cho người được đại diện. Bởi vậy, có thể nói hoạt động đại diện cho
thương nhân có vai trò tích cực trong việc chuyên môn hóa, chuyên nghiệp lĩnh
vực thương mại.
1.2. Hợp đồng đại diện cho thương nhân- hình thức pháp lý của quan hệ đại
diện cho thương nhân
1.2.1. Bản chất pháp lý của hợp đồng đại diện cho thương nhân
Hoạt động đại diện cho thương nhân được thực hiện trên cơ sở hợp đồng
đại diện cho thương nhân, nói cách khác, hợp đồng đại diện cho thương nhân
chính là hình thức pháp lý để thực hiện hoạt động đại diện cho thương nhân.
Luật Thương mại 2005 đã đưa ra khái niệm về hoạt động đại diện cho thương
nhân tại Điều 141: “Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận ủy
nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để
thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương

nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện”. Theo quy định tại Điều 388 Bộ
luật Dân sự năm 2005, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Từ các định nghĩa trên có


12

thể đưa ra khái niệm hợp đồng đại diện cho thương nhân như sau: “Hợp đồng đại
diện cho thương nhân là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền
và nghĩa vụ của các bên, trong đó một bên (bên đại diện) thực hiện các hoạt
động thương mại với danh nghĩa và theo sự chỉ dẫn của bên kia (bên giao đại
diện) để hưởng thù lao”.
Hợp đồng đại diện cho thương nhân có các đặc điểm pháp lý nổi bật như sau:
Thứ nhất, hợp đồng đại diện cho thương nhân là một dạng của hợp đồng
dịch vụ. Tính chất dịch vụ thể hiện ở việc bên đại diện thực hiện các hoạt động
thương mại cho bên giao đại diện để nhận thù lao đại diện. Khi ký kết hợp đồng
đại diện, lợi ích bên giao đại diện được hưởng chính là lợi nhuận kiếm được từ
các hoạt động thương mại mà bên đại diện thực hiện nhân danh họ, còn lợi ích
bên đại diện được hưởng là thù lao đại diện theo thỏa thuận. Xét dưới khía cạnh
pháp lý, khoản tiền này chính là thù lao dịch vụ mà bên giao đại diện phải thanh
toán cho bên đại diện do sử dụng dịch vụ đại diện của bên đại diện.
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng đại diện cho thương nhân phải là thương
nhân. Theo khái niệm về hoạt động đại diện được đưa ra tại Luật Thương mại
2005, không những bên đại diện phải là thương nhân mà ngay cả bên giao đại
diện cũng phải đáp ứng được yêu cầu này. Do vậy, quan hệ hợp đồng đại diện
cho thương nhân chỉ có giá trị pháp lý nếu cả hai bên chủ thể của hợp đồng (bên
đại diện và bên giao đại diện) đều là thương nhân. Đây là đặc điểm để phân biệt hợp
đồng đại diện cho thương nhân và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa hay hợp
đồng môi giới- đều là những dạng hợp đồng mang tính chất trung gian thương mại.
Đối với hai loại hợp đồng sau, pháp luật chỉ yêu cầu một bên chủ thể của hợp đồng

(bên nhận ủy thác, bên môi giới) phải là thương nhân còn bên ủy thác, bên được
môi giới có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân.
Thứ ba, bên đại diện phải dùng danh nghĩa của bên giao đại diện để thực
hiện các hoạt động thương mại cho bên giao đại diện. Đặc điểm này là biểu hiện


13

bản chất của hoạt động đại diện cho thương nhân. Khi tiến hành công việc đại
diện, bên giao đại diện không được dùng danh nghĩa của mình mà phải hoàn
toàn nhân danh bên giao đại diện trong mọi hoạt động với bên thứ ba. Điều này
cũng có nghĩa bên thứ ba sẽ không trực tiếp gặp gỡ bên giao đại diện nhưng về
pháp lý họ vẫn giao dịch với bên giao đại diện. Đặc điểm này hoàn toàn trái
ngược với quan hệ hợp đồng đại lý thương mại. Trong hợp đồng đại lý, bên đại
lý phải dùng chính danh nghĩa của mình để thực hiện việc mua bán hàng hóa cho
bên giao đại lý.
1.2.2. Phân biệt hợp đồng đại diện cho thương nhân và hợp đồng ủy quyền
trong dân sự
Như đã phân tích ở trên, xét về mặt lịch sử, hoạt động đại diện cho thương
nhân có nguồn gốc và dựa trên nền tảng của quan hệ đại diện trong lĩnh vực dân
sự. Do vậy, có thể có sự nhầm lẫn giữa hai loại quan hệ đại diện này. Từ góc độ
lịch sử và quy định pháp luật thực tế, có thể thấy rằng, đại diện cho thương nhân
là một dạng của quan hệ đại diện theo ủy quyền quy định trong Bộ luật Dân sự
nhưng được thực hiện trong lĩnh vực thương mại. Cũng như quan hệ đại diện
theo ủy quyền phát sinh trên cơ sở hợp đồng ủy quyền (được quy định thành một
mục riêng trong Bộ luật Dân sự), hợp đồng đại diện cho thương nhân chính là cơ
sở pháp lý làm phát sinh quan hệ đại diện cho thương nhân. Nói cách khác, hợp
đồng đại diện cho thương nhân là hình thức pháp lý của quan hệ đại diện cho
thương nhân.
Với tính chất là một dạng đặc biệt của hợp đồng ủy quyền trong dân sự,

hợp đồng đại diện cho thương nhân mang dấu hiệu đặc trưng của hợp đồng ủy
quyền, là sự thỏa thuận giữa người đại diện và người được đại diện, theo đó
người đại diện thực hiện công việc nhân danh người được đại diện. Tuy vậy, hợp
đồng đại diện cho thương nhân cũng có những điểm khác cơ bản so với hợp
đồng ủy quyền, là dấu hiệu để phân biệt hai loại quan hệ đại diện trong hai lĩnh
vực, cụ thể:


14

- Về mặt chủ thể tham gia hợp đồng: trong hợp đồng đại diện cho thương
nhân, các bên của hợp đồng đều phải là thương nhân (Khoản 1 Điều 141 Luật
Thương mại 2005); trong hợp đồng ủy quyền, chủ thể của hợp đồng có thể là bất
cứ ai miễn là đáp ứng đủ các điều kiện về năng lực chủ thể theo quy định của Bộ
luật Dân sự. Do vậy, quan hệ đại diện cho thương nhân không bao gồm quan hệ
đại diện mà một trong các bên không có tư cách thương nhân và quan hệ đại diện
do thương nhân cử người của mình làm đại diện cho mình. Quan hệ đại diện do
thương nhân cử người của mình làm đại diện cho mình là quan hệ theo đó
thương nhân cử người trong nội bộ của mình, có thể là người lao động do mình
tuyển dụng hoặc do mình ra quyết định bổ nhiệm làm người đại diện. Hai loại
quan hệ đại diện này áp dụng quy định chung về ủy quyền của Bộ luật Dân sự.
- Về tính chất của hợp đồng: hợp đồng đại diện cho thương nhân là hợp
đồng luôn có tính chất song vụ, đền bù còn hợp đồng ủy quyền theo Bộ luật Dân
sự không nhất thiết có yếu tố này. Bên đại diện trong hợp đồng ủy quyền dân sự
chỉ phải trả thù lao cho bên được ủy quyền nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp
luật có quy định.
- Về hình thức của hợp đồng: hợp đồng đại diện cho thương nhân bắt buộc
phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương.; hình thức của hợp đồng ủy quyền trong dân sự do các bên thỏa thuận,
trừ trường hợp pháp luật có quy định bắt buộc phải lập thành văn bản.

1.3. Khái quát pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương nhân
Quan hệ hợp đồng đại diện cho thương nhân hiện nay chịu sự điều chỉnh
của nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Với ảnh hưởng từ hệ thống pháp luật
Châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại diện cho thương
nhân có nguồn pháp luật chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm
các văn bản pháp luật về dân sự được quy định tập trung tại Bộ luật dân sự, các
văn bản pháp luật về thương mại được quy định tập trung tại Luật Thương mại,


15

trong đó Bộ luật dân sự được xác định là luật chung còn Luật Thương mại được
xác định là luật chuyên ngành. Tuy nhiên, khác với nhiều quốc gia thuộc hệ
thống pháp luật Châu Âu lục địa, ở Việt Nam, án lệ chưa được thừa nhận là một
loại nguồn của pháp luật. Vì thế, pháp luật về hợp đồng đại diện cho thương
nhân cũng không có nguồn là các án lệ.
Với đặc điểm trên, có thể chia các văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng
đại diện cho thương nhân thành hai nhóm cơ bản như sau:
* Nhóm các quy định chung về hợp đồng, trong đó có hợp đồng đại
diện cho thương nhân: nhóm các quy định này quy định những vấn đề chung,
mang tính nguyên tắc về mọi loại hợp đồng, trong đó có hợp đồng đại diện cho
thương nhân. Hiện nay, các quy định chung về hợp đồng nằm trong Bộ luật Dân
sự 2005.
Bộ luật Dân sự 2005 có các quy định chung liên quan đến hợp đồng đại
diện cho thương nhân sau đây:
- Giao dịch dân sự (Chương VI): các điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự, các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu và xử lý hậu quả của giao dịch
dân sự vô hiệu.
- Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự (Chương XVII, Chương XVIII); các
biện pháp bảo đảm thực hiên nghĩa vụ dân sự, chuyển giao quyền và nghĩa vụ dân

sự; trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự; các vấn đề liên quan đến hợp
đồng dân sự nói chung như giao kết, thực hiện hợp đồng, thanh lý, đình chỉ, hủy
bỏ việc thực hiện hợp đồng, thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng.
- Đại diện (Chương VII) và Hợp đồng ủy quyền (mục 12 chương XVIII):
quy định chung về đại diện, đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền, hợp
đồng ủy quyền, thời hạn ủy quyền, ủy quyền lại, quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng ủy quyền, đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền, chấm dứt
hợp đồng ủy quyền.


16

* Nhóm các quy định chuyên ngành về hợp đồng đại diện cho thương
nhân: Nếu các quy định của Bộ luật Dân sự liên quan đến hợp đồng đại diện cho
thương nhân mang tính chất là luật chung thì Luật Thương mại 2005 với tư cách là
luật chuyên ngành chứa đựng rất nhiều các quy định điều chỉnh trực tiếp loại hợp
đồng này như: quy định về điều kiện chủ thể tham gia hợp đồng đại diện cho
thương nhân, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, chấm dứt hợp đồng
đại diện cho thương nhân, chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm hợp đồng
trong hoạt động thương mại, trong đó có hợp đồng đại diện cho thương nhân.
Bên cạnh Luật Thương mại, hợp đồng đại diện cho thương nhân có thể
được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành khác, ví dụ: Luật Sở hữu trí
tuệ 2005 có quy định về đại diện sở hữu công nghiệp với tư cách là một loại hình
dịch vụ thương mại (Chương XI Luật Sở hữu trí tuệ 2005). Dịch vụ đại diện sở
hữu công nghiệp do doanh nghiệp, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức dịch vụ
khoa học và công nghệ được thành lập, hoạt động hợp pháp, đáp ứng được các
điều kiện quy định tại Điều 154 Luật Sở hữu trí tuệ thực hiện. Nếu bên được đại
diện là thương nhân thì đây chính là một dạng của hoạt động đại diện cho thương
nhân được thực hiện trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Như vậy, quan hệ hợp đồng đại diện cho thương nhân đồng thời chịu sự

điều chỉnh của nhiều quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau. Để có thể
áp dụng pháp luật đúng đắn cần nắm vững nguyên tắc áp dụng phối hợp các văn
bản pháp luật. Trong mối quan hệ với Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại được
xác định là luật riêng, luật chuyên ngành còn Bộ luật Dân sự là luật chung. Do
vậy, theo nguyên tắc áp dụng giữa luật chung, luật chuyên ngành, nếu Luật
Thương mại có quy định về hợp đồng đại diện cho thương nhân thì ưu tiên áp
dụng các quy định này trước, những vấn đề Luật Thương mại không quy định sẽ
áp dụng quy định chung về hợp đồng tại Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, nếu có luật
chuyên ngành khác quy định về đại diện cho thương nhân trong lĩnh vực cụ thể
(ví dụ Luật Sở hữu trí tuệ) thì Luật Thương mại lại trở thành luật chung trong


17

mối quan hệ với luật chuyên ngành đó và luật chuyên ngành được ưu tiên áp
dụng trước Luật Thương mại.
1.4. Những nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đại
diện cho thương nhân
Hợp đồng đại diện cho thương nhân giống như các loại hợp đồng nói
chung, có nội dung cơ bản là tổng hợp những điều khoản mà hai bên chủ thể
(bên đại diện và bên giao đại diện) đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định
những quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong hợp đồng. Đây cũng chính là
điều khoản cần phải có trong một hợp đồng đại diện cho thương nhân. Tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ hợp đồng đại diện
cho thương nhân tạo thành pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đại diện cho
thương nhân. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đại diện cho thương nhân
có những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề chủ thể của hợp đồng
đại diện cho thương nhân. Nội dung này của pháp luật xác định điều kiện để các
bên trở thành chủ thể của hợp đồng đại diện cho thương nhân (Điều 141 Luật

Thương mại 2005), theo đó, hai bên chủ thể của hợp đồng bắt buộc phải là
thương nhân. Đây cũng là điểm đặc trưng về chủ thể của hợp đồng đại diện cho
thương nhân. Để làm rõ hơn phạm vi chủ thể của hợp đồng đại diện cho thương
nhân, Luật Thương mại cũng chỉ rõ trường hợp thương nhân cử người của mình
làm đại diện cho mình thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự.
Thứ hai, các quy phạm pháp luật điều chỉnh đối tượng của hợp đồng. Hợp
đồng đại diện cho thương nhân là một dạng của hợp đồng cung ứng dịch vụ
trong lĩnh vực thương mại, do vậy, đối tượng của hợp đồng này không phải là
một tài sản hữu hình mà là một công việc- công việc đại diện. Công việc này có
thể được mô tả việc một thương nhân nhận ủy nhiệm của thương nhân khác để
thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa và theo sự chỉ dẫn của
thương nhân đó để được hưởng thù lao về việc đại diện. Các hoạt động thương


18

mại có thể được các thương nhân ủy quyền xác định theo Khoản 1 Điều 3 Luật
Thương mại, tuy nhiên, điều kiện đủ là những hoạt động này phải nằm trong
phạm vi hoạt động của bên giao đại diện (Điều 143 Luật Thương mại 2005).
Thứ ba, các quy phạm pháp luật về hình thức của hợp đồng đại diện cho
thương nhân. Theo quy định hiện hành, hợp đồng đại diện cho thương nhân phải
được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương
(Điều 142 Luật Thương mại 2005). Các hình thức có giá trị tương đương văn
bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (là thông tin được tạo ra,
được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử) và các hình
thức khác theo quy định của pháp luật (Khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại).
Thứ tư, các quy phạm pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đại
diện cho thương nhân. Giống như các loại hợp đồng nói chung, hợp đồng đại
diện cho thương nhân được pháp luật quy định có hiệu lực khi đáp ứng được bốn
điều kiện: người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội

dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức
xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; hợp đồng tuân thủ đúng
quy định pháp luật về hình thức.
Thứ năm, các quy phạm pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng đại diện cho thương nhân. Đây là nội dung quan trọng của pháp luật
điều chỉnh quan hệ hợp đồng đại diện cho thương nhân, tạo thành cơ sở pháp lý
để các bên thực hiện được hợp đồng. Luật Thương mại 2005 từ Điều 145 đến
Điều 149 đã quy định chi tiết về vấn đề này.
Thứ sáu, các quy phạm pháp luật về chấm dứt hợp đồng đại diện cho
thương nhân. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005,
hợp đồng đại diện cho thương nhân chấm dứt trong các trường hợp: thời hạn đại
diện cho thương nhân chấm dứt; công việc đại diện cho thương nhân đã hoàn
thành; bên giao đại diện và bên đại diện thỏa thuận chấm dứt hợp đồng; bên giao
đại diện hoặc bên đại diện chấm dứt hoạt động; bên giao đại diện hoặc bên đại


19

diện đơn phương chấm dứt hợp đồng. Luật Thương mại đặc biệt chú trọng điều
chỉnh quyền và nghĩa vụ về tài chính của các bên trong trường hợp đơn phương
chấm dứt hợp đồng.
Thứ bảy, các quy phạm pháp luật về trách nhiệm của các bên do vi phạm
hợp đồng đại diện cho thương nhân. Khi bên giao đại diện hoặc bên đại diện vi
phạm hợp đồng đại diện cho thương nhân đã ký kết, theo quy định chung về
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng tại Chương VII Luật Thương mại 2005, các
bên phải chịu một trong các hình thức trách nhiệm sau: buộc thực hiện đúng hợp
đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng,
đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng và các biện pháp khác do các bên
thỏa thuận không trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật.
1.5. Pháp luật của một số nước trên thế giới về hợp đồng đại diện cho

thương nhân
1.5.1. Pháp luật các nước thuộc hệ thống Common law
Các nước thuộc hệ thống Common law, điển hình là Anh và Mỹ có nguồn
pháp luật chủ yếu và quan trọng nhất là án lệ. Do vậy, hệ thống án lệ về đại diện,
bao gồm đại diện thương mại ở Mỹ và Anh là rất đồ sộ. Viện Pháp luật Hoa Kỳ
(American Law Institute-ALI) đã ban hành một bộ tập hợp hóa các quy tắc được
thừa nhận chung về đại diện là Restatement of Law, Agency, trong đó bao gồm các
quy định, phân tích, bình luận, diễn giải, dẫn chiếu án lệ về đại diện [17, tr.38].
Một điểm đặc trưng của pháp luật Mỹ và Anh là các nước này không có
những khái niệm riêng cho từng hoạt động trung gian thương mại. Thuật ngữ
“agent” (thường được dịch là đại lý hoặc đại diện) được dùng để chỉ chung cho
những người trung gian tiến hành hành vi theo sự ủy quyền của người ủy thác.
Mặt khác, pháp luật Mỹ và Anh đều không có sự phân biệt giữa đại diện trong
thương mại và đại diện trong lĩnh vực dân sự. Đại diện trong lĩnh vực dân sự và
đại diện trong lĩnh vực thương mại đều chịu sự điều chỉnh pháp luật như nhau.


20

Đại diện thương mại (commercial agency) chỉ được đề cập đến trong các công
trình khoa học pháp lý, các giáo trình về luật [17; tr.41].
Pháp luật về đại diện ở các nước thuộc hệ thống Common-law, trong đó
có Anh, Mỹ điều chỉnh quan hệ đại diện về các vấn đề sau:
Thứ nhất, về định nghĩa và xác định quan hệ đại diện. Nhìn chung, hệ
thống pháp luật Anh-Mỹ định nghĩa quan hệ đại diện là quan hệ dựa trên sự
đồng ý giữa các bên, theo đó một người (gọi là người đại diện) nhân danh và vì
lợi ích của một người khác (gọi là người được đại diện) để xác lập, thực hiện
giao dịch với người thứ ba. Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch thuộc
về người được đại diện và người thứ ba.
Thứ hai, về các loại người đại diện và quan hệ đại diện. Pháp luật Anh,

Mỹ có nhiều tiêu chí để phân định các loại người đại diện, ví dụ: căn cứ vào tính
chất ủy quyền lại hay không, người đại diện được phân loại thành người đại diện
nguyên cấp và người đại diện thứ cấp; căn cứ vào tính độc lập hay phụ thuộc vào
người được đại diện, người đại diện được phân loại thành người đại diện phụ
thuộc và người đại diện độc lập. Về phân loại quan hệ đại diện, pháp luật Anh Mỹ phân loại quan hệ đại diện gồm quan hệ đại diện do có sự thỏa thuận, quan hệ
đại diện do phê chuẩn, quan hệ đại diện không thể phủ nhận hay mặc nhiên, quan
hệ đại diện theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đại diện. Nhìn
chung, pháp luật Anh và Mỹ khá tương đồng khi quy định người đại diện có các
nghĩa vụ sau: nghĩa vụ trung thành; nghĩa vụ cẩn trọng; nghĩa vụ tuân thủ; nghĩa
vụ giải thích và ghi chép các khoản chi phí; nghĩa vụ thông tin. Người được đại
diện có các nghĩa vụ: nghĩa vụ thanh toán thù lao; nghĩa vụ hoàn trả chi phí và
bồi thường; nghĩa vụ không gây trở ngại; ngoài ra, tùy thỏa thuận, người được
đại diện có thể có nghĩa vụ cung cấp các thông tin cần thiết.


×