Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Thỏa thuận trọng tài theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.9 KB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THÙY LINH

THỎA THUẬN TRỌNG TÀI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI – 2014


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo
Trường Đại học Luật Hà Nội đã trang bị cho tôi và các học viên cao học khóa
20, niên khóa 2012 – 2014 những kiến thức quý báu trong quá trình đào tạo tại
Trường Đại học Luật Hà Nội.
Về mặt cá nhân tôi xin trân trọng cảm ơn thầy giáo PGS.TS Nguyễn Đức
Minh, công tác tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, người đã tận tình
hướng dẫn và đóng góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận văn này
một cách tốt đẹp.



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỎA THUẬN
TRỌNG TÀI ............................................................................................................. 7
1.1. Định nghĩa thỏa thuận trọng tài .....................................................................

7

1.2. Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài ................................................................. 9
1.3. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài vô hiệu……….. 12
1.4. Hình thức của thỏa thuận trọng tài ................................................................ 14
1.5. Nội dung của thỏa thuận trọng tài .................................................................

16

1.6. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp .................... 18
Chƣơng 2 .. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

21

PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM ........................
2.1. Cơ sở pháp lý của thỏa thuận trọng tài .........................................................

21

2.1.1. Quy định quốc tế ............................................................................................ 21
2.1.2. Qui định của pháp luật Việt Nam ..................................................................

23


2.2. Thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài...............................................

24

2.2.1. Những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại 2010 về thỏa thuận

24

trọng tài ......................................................................................................................
2.2.2. Các quy định về chủ thể của thỏa thuận trọng tài .......................................... 28
2.2.3. Các quy định về hiệu lực và điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận

34

trọng tài ......................................................................................................................
2.2.4. Các quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu ................................................

40

2.2.5. Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được ............................................. 44
2.2.6. Thỏa thuận trọng tài được ký giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ

47

và người tiêu dùng .....................................................................................................
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về thỏa thuận trọng tài .............................

48


2.3.1. Kết quả thực hiện ........................................................................................... 48
2.3.2. Những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật ………….

49


Chƣơng 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP

55

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN
TRỌNG TÀI Ở NƢỚC TA .....................................................................................
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở

55

nƣớc ta hiện nay .......................................................................................................
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận trọng tài .....................

57

3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận trọng tài ..................

59

3.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về

61

thỏa thuận trọng tài .................................................................................................

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 66


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm đầu của
thế kỷ này được diễn ra trong bối cảnh các quan hệ kinh tế phát triển theo cả
chiều rộng và chiều sâu, với tốc độ nhanh chóng chưa từng có. Tranh chấp trong
kinh tế nói chung và trong kinh doanh nói riêng với tính chất là hệ quả tất yếu
của quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại và gay gắt, phức tạp
hơn về tính chất và quy mô. Có rất nhiều cách để giải quyết tranh chấp trong
thương mại nhưng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang dần thu hút được sự
quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam.
Việc quyết định lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là một quyết
định không kém phần quan trọng. Mặc dù trọng tài đang dần dần được doanh
nghiệp Việt nam sử dụng trong hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên do
lịch sử cũng như nhận thức, trọng tài vẫn chưa trở thành phương thức giải quyết
tranh chấp phổ biến rộng rãi đối với các doanh nghiệp.
Có thể thấy đến nay, Việt Nam đã có một khung pháp lý về lĩnh vực trọng
tài khá hoàn chỉnh. Cụ thể là ngày 25/02/2003 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại và việc Việt Nam tham gia Công ước
New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài
năm 1995. Sau một thời gian áp dụng Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đã
bộc lộ những hạn chế và bất cập cho các doanh nghiệp khi sử dụng phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Trước thực trạng đó, trên cơ sở kế thừa
những điểm tiến bộ và khắc phục những điểm hạn chế của Pháp lệnh trọng tài
2003, ngày 17/06/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khóa XII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật trọng tài thương mại năm 2010, gồm


2

13 chương, 82 Điều. Luật mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 và thay
thế cho Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. Đây là một bước tiến rõ rệt
trong tiến trình hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài nói riêng
và trọng tài nói chung.
Việc lựa chọn tòa án hay trọng tài để có thể giải quyết nhanh chóng một
tranh chấp phát sinh tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Trên thực tế, các bên
thường tìm đến trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa họ, vì tính ưu việt của nó
so với tòa án như: thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng; các bên tranh chấp
được chỉ định trọng tài viên giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều
kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc về vấn đề đang tranh chấp, qua đó có điều kiện
giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, chính xác; nguyên tắc trọng tài
không công khai giúp các bên hạn chế sự tiết lộ bí mật kinh doanh, giữ được uy
tín của mình trên thương trường; trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp
của Nhà nước nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài
và phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm. Tuy nhiên để các bên có thể đạt
được mục đích của họ trong việc lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết
tranh chấp, điều bắt buộc phải có là thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là
thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát
sinh hoặc đã phát sinh. Như vậy, yếu tố cơ bản và xuyên suốt trong tố tụng trọng
tài chính là thỏa thuận trọng tài. Hiệu quả của hoạt động trọng tài cũng phụ thuộc
không nhỏ vào thỏa thuận trọng tài. Chính vì thế, một vấn đề đặt ra là phải xây
dựng một thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng có khả năng đáp ứng được đầy đủ
ý chí của các bên trong kinh doanh cũng như để trọng tài có đủ thẩm quyền khi
các bên có thỏa thuận trọng tài lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Chính vì những lý do trên có thể thấy việc tìm hiểu về thỏa thuận trọng tài,

đặc biệt là các vấn đề liên quan đến xây dựng và thực hiện thỏa thuận trọng tài là


3

rất cần thiết. Từ đó có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam có cách hiểu đúng về
thỏa thuận trọng tài, về tầm quan trọng của nó để tránh những thiệt hại không
đáng có khi tranh chấp xảy ra trong quá trình ký kết và thực hiện các hợp đồng
thương mại.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã có một số công trình
và bài viết khoa học của các tác giả đề cập, coi đây như là một trong những
phương thức giải quyết tranh chấp được lựa chọn trong giao dịch thương mại. Ví
dụ: Luận án tiến sĩ luật học “ Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp thay thế đối với các quan hệ thương mại trong giai đoạn hiện nay của nước
ta” năm 2012; Luận án tiến sĩ luật học “ Giải quyết tranh chấp thương mại quốc
tế bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” năm
2009; Luận văn thạc sĩ luật học “Những vấn đề pháp lý về thỏa thuận trọng tài và
thực tiễn áp dụng ở Việt Nam” năm 2006 của Trần Thị Kim Liên, Luận văn thạc
sĩ luật học “ Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài” năm
2004 của Phạm Thị Hương Thủy; Sách “Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương
mại “ của TS. Đỗ Văn Đại – TS.Trần Hoàng Hải, Nxb Chính trị quốc gia năm
2011; và các quy tắc về tố tụng trọng tài của ICC, UNCITRAL,… Tuy nhiên,
việc nghiên cứu về thỏa thuận trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010 và
thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài chưa được các học giả nghiên
cứu một cách đầy đủ và toàn diện. Có thể thấy hầu hết các công trình nghiên cứu
nghiên cứu về trọng tài thương mại nói chung, trong đó phân tích về thỏa thuận
trọng tài như là một trong những nội dung mà các công trình đề cập. Hay như là
các bài viết trên các tạp chí như : “Về hình thức thỏa thuận trọng tài” của Trần
Hoàng Hải, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2011; “ Về thẩm quyền của tòa

án Việt Nam khi có thỏa thuận trọng tài nước ngoài” của Trần Hoàng Hải, Đỗ


4

Văn Đại, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2010,… thì lại chỉ nghiên cứu về
một khía cạnh nào đó liên quan đến thỏa thuận trọng tài mà thôi. Do đó, trên cơ
sở kế thừa những công trình nghiên cứu của các học giả về vấn đề này, tôi đã đi
vào làm rõ hơn, phân tích thêm một số nội dung liên quan của thỏa thuận trọng
tài theo pháp luật Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thỏa thuận trọng tài trong giải quyết
tranh chấp thương mại chứ không phải đi nghiên cứu tất cả những vấn đề liên
quan đến phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Phạm vi nghiên cứu
là những nội dung về thỏa thuận trọng tài trong pháp luật Việt Nam, chủ yếu là
trong Luật Trọng tài thương mại 2010.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận: Luận văn lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm nền tảng để đi vào nghiên
cứu, phân tích sự cần thiết cũng như phương hướng để hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về thỏa thuận trọng tài.
Để đi vào tìm hiểu và nghiên cứu nội dung của đề tài, luận văn sử dụng
một cách kết hợp các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp và phương pháp so sánh, cụ thể như sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề
dưới góc độ hiện thực khách quan trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng để tìm hiểu chi tiết các
vấn đề, từ đó rút ra kết luận khái quát về các vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu pháp luật Việt Nam và
pháp luật quốc tế về từng vấn đề nghiên cứu để tìm ra những ưu điểm cần duy



5

trì, phát triển và những hạn chế cần khắc phục, loại trừ trong xây dựng và áp
dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam trong thì gian sắp tới.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài: nhằm góp phần cung cấp cơ sở khoa
học, luận cứ cho việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài
và thực tiễn thực hiện các quy định đó.
Nghiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài “ Thỏa thuận trọng tài theo quy
định của pháp luật Việt Nam” là:
- Giải quyết một số vấn đề lý luận về thỏa thuận trọng tài;
- Đánh giá đúng đắn thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài cũng như
thực tiễn áp dụng các quy định đó;
- Thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các
quy định về thỏa thuận trọng tài đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về thỏa thuận trọng tài đồng thời tìm giải pháp khắc phục những
khiếm khuyết thường gặp trong thỏa thuận trọng tài, chủ động xây dựng những
thỏa thuận trọng tài có tính khả thi cao. Thông qua đó góp phần đưa trọng tài đến
gần hơn với các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian sắp tới.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Qua quá trình tìm hiểu pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế về
thỏa thuận trọng tài, thực tiễn soạn thảo thỏa thuận trọng tài, luận văn góp phần
làm rõ thêm, làm phong phú thêm về một số nội dung của thỏa thuận trọng tài
như sau:
- Luận văn trình bày một cách khoa học và có hệ thống những vấn đề lý
luận cơ bản về thỏa thuận trọng tài: khái niệm, đặc điểm, hình thức, hiệu lực,…


6


- Luận văn tham khảo pháp luật và thông lệ quốc tế, trên cơ sở đó để tìm
hiểu, phân tích, đánh giá đúng đắn các ưu điểm, nhược điểm của pháp luật Việt
Nam về thỏa thuận trọng tài;
- Đồng thời luận văn gợi mở một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về thỏa thuận trọng tài và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở nước ta.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thỏa thuận trọng tài
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về thỏa thuận trọng tài và một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thỏa
thuận trọng tài ở nước ta.


7

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỎA THUẬN
TRỌNG TÀI
1.1. Định nghĩa thỏa thuận trọng tài
Trong quan hệ kinh doanh thương mại, tranh chấp là vấn đề không ai
mong muốn xảy ra và đó là điều không thể tránh khỏi. Về phương diện pháp lý,
khi có tranh chấp phát sinh, các bên trong quan hệ tranh chấp có nhiều phương
thức lựa chọn để giải quyết tranh chấp, trong đó có hình thức giải quyết tranh
chấp thông qua trọng tài. Giải quyết tại trọng tài là một trong bốn hình thức giải
quyết tranh chấp được quy định tại Luật Thương mại 2005. Là một phương thức
giải quyết tranh chấp với nhiều ưu điểm vượt trội, trọng tài thương mại ngày

càng không còn mấy xa lạ đối với các nhà kinh doanh thương mại trong nền kinh
tế thị trường như hiện nay. Thông qua thỏa thuận trọng tài các bên gián tiếp thỏa
thuận khước từ thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia, lựa chọn cho mình hình
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tuy nhiên, thỏa thuận trọng tài không
thay thế các phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống khác như trung
gian, hòa giải. Như vậy, yếu tố cơ bản nhất trong phương thức trọng tài phải là
yếu tố thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận trọng tài sẽ không có trọng tài.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại trước đây và Luật Trọng tài thương mại
Việt Nam hiện hành đều có định nghĩa về thỏa thuận trọng tài.
Theo khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại, “ Thỏa thuận trọng
tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh
chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại”.


8

Khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Thỏa thuận trọng
tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể
phát sinh hoặc đã phát sinh”.
Như vậy, về cơ bản khái niệm về thỏa thuận trọng tài không thay đổi giữa
Pháp lệnh trọng tài thương mại và Luật Trọng tài thương mại.
Điều 7.1 Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa
thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh
hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ
hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có thể dưới
hình thức điều khoản trọng tài trọng hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận
riêng.”
Điều II.1 Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành các phán
quyết của trọng tài nước ngoài quy định về thỏa thuận trọng tài như sau:
“1. Mỗi quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản

theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể
phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng
hay không, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết được bằng trọng
tài.
2. Thuật ngữ “thỏa thuận bằng văn bản” bao gồm điều khoản trọng tài
trong một hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng tài được các bên ký kết hoặc
được ghi trong thư tín trao đổi.
Trong khoa học pháp lý người ta thường nói đến hai loại thỏa thuận trọng tài
sau đây: Loại thứ nhất là thỏa thuận được xác lập trước khi tranh chấp phát sinh.
Loại thứ hai là thỏa thuận trọng tài được xác lập sau khi tranh chấp phát sinh,
thường được gọi là đệ trình thỏa thuận trọng tài. Những thỏa thuận này thường
được soạn thảo cẩn thận vì các bên đã biết rõ tranh chấp xảy ra. Pháp luật Việt


9

Nam thừa nhận cả hai loại thỏa thuận này, cụ thể tại khoản 2 Điều 3 Luật Trọng
tài thương mại. Trên thực tế loại thứ nhất là phổ biến, thông thường thỏa thuận
trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản và đưa ngay vào trong
hợp đồng chính. Sở dĩ như vậy bởi vì khi đã có tranh chấp phát sinh, khi quyền
lợi của các bên đã ảnh hưởng, thậm chí có thể là mâu thuẫn giữa các bên đã đạt
đỉnh điểm gay gắt thì việc các bên ngồi lại với nhau cùng bàn bạc, thỏa thuận lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp là điều không mấy dễ dàng gì. Do đó,
loại thứ hai thường tỏ ra ít hiệu quả hơn loại thứ nhất, trong trường hợp đó thì
tranh chấp thường được giải quyết theo quy định của pháp luật, một bên khởi
kiện ra tòa án mà không cần có sự đồng ý thỏa thuận của bên kia.
1.2. Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài
Là yếu tố tiên quyết để hình thành việc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, thỏa thuận trọng tài có những đặc điểm sau:
Thứ nhất về bản chất, thỏa thuận trọng tài là giao dịch dân sự

Với các quy định của pháp luật, thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận của
hai hay nhiều bên về việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Theo
Điều 121 Bộ luật Dân sự: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý
đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Theo đó, có thể thấy thỏa thuận trọng tài không thể là một hành vi pháp lý đơn
phương được bởi “thỏa thuận” đòi hỏi phải có ít nhất hai chủ thể tham gia. Vậy
liệu thỏa thuận trọng tài có phải là hợp đồng hay không? Theo Điều 388 Bộ luật
Dân sự: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Trong quan hệ trọng tài, khi các bên đã
thỏa thuận chọn trọng tài thì các bên phải tuân thủ thỏa thuận đó, một bên không
thể yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp nếu bên kia phản đối. Thỏa thuận trọng
tài làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thỏa thuận. Ở đây,


10

có sự ràng buộc pháp lý nên có thể coi là đã tồn tại quan hệ giữa nghĩa vụ dân sự
giữa các bên.
Như vậy, có thể coi thỏa thuận trọng tài là một dạng giao dịch dân sự.
Thỏa thuận trọng tài thể hiện sự thống nhất ý chí, tự nguyện và đồng thuận của
các bên có liên quan trong việc giải quyết tranh chấp về việc đưa tranh chấp ra
giải quyết tại một tổ chức trọng tài. Điều này cũng có nghĩa là thỏa thuận trọng
tài chưa hình thành nếu chỉ là ý chí chủ quan của một bên hoặc thỏa thuận trọng
tài sẽ vô hiệu nếu có sự áp đặt, không tự nguyện của một bên.
Thứ hai, mục đích của sự thỏa thuận là lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài
Khác với tố tụng tòa án, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chỉ được đặt
ra nếu các bên tranh chấp đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp đó theo thủ tục
trọng tài. Đối với tố tụng trọng tài khi có tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp
chỉ có thể đưa vụ tranh chấp ra trung tâm trọng tài để giải quyết khi đã có sự thỏa

thuận về việc này. Theo đó, dù là trước hay sau khi tranh chấp xảy ra các bên
đều có thể thỏa thuận về việc lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh
chấp. Nhưng nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài thì không thể đưa tranh
chấp đó ra trọng tài được. Chính vì vậy, thỏa thuận trọng tài là điều kiện để giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu không có thỏa thuận, sẽ không có trọng tài.
Khái niệm “thỏa thuận” trong tên gọi của điều khoản trọng tài đã nói lên
bản chất của nó đó là tôn trọng ý chí của các bên liên quan. Nếu như đơn khởi
kiện chỉ thể hiện ý chí của nguyên đơn yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc của
mình thì thỏa thuận trọng tài thể hiện ý chí của các bên liên quan trong việc lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tuy nhiên, để có thể đạt
được mục đích của sự thỏa thuận thì thỏa thuận trọng tài phải có giá trị pháp lý,
hay nói cách khác là phải đáp ứng được những yêu cầu pháp luật quy định.


11

Thứ ba, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài không phụ thuộc vào hiệu lực
của hợp đồng, từ đó phát sinh quan hệ tranh chấp
Cũng như pháp luật trọng tài của nhiều nước, nguyên tắc này cũng được
ghi nhận trong pháp luật Việt Nam. Theo Điều 11 Pháp lệnh Trọng tài thương
mại: “Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng”. Tương tự như vậy theo
Điều 19 Luật Trọng tài thương mại, “Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với
hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc
không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”.
Như vậy, ngay cả khi hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ, hết hiệu lực thì thỏa
thuận trọng tài vẫn có giá trị. Dù được thể hiện dưới hình thức một điều khoản
nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng
chính thì thỏa thuận trọng tài cũng chính là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác
biệt và có giá trị độc lập với hợp đồng chính. Chúng ta có thể hiểu điều khoản
trọng tài là “một hợp đồng trong một hợp đồng”.

Thứ tư, hình thức của thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản
Cả Công ước New York và Luật Mẫu UNCITRAL đều quy định hình thức
của thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản. Pháp luật Việt Nam về trọng tài đã
ghi nhận điều này ngay từ Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, tuy nhiên đến
Luật Trọng tài thương mại 2010 thì nội hàm của “văn bản” đã được mở rộng hơn.

Thứ năm, về thời điểm xác lập quan hệ thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập trước khi xảy ra tranh chấp hoặc
sau khi xảy ra tranh chấp giữa các bên trong quan hệ tranh chấp. Trên thực tế,
hầu như thỏa thuận trọng tài được xác lập trước khi xảy ra tranh chấp, bởi lẽ sau
khi đã có tranh chấp xảy ra thì việc các bên có thể ngồi lại và đi đến được một
thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là điều không dễ.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam ghi nhận cả hai thời điểm xác lập thỏa thuận


12

trọng tài này. Như vậy, thỏa thuận trọng tài khác các sự kiện làm phát sinh quan
hệ tố tụng (khởi kiện) chính ở chỗ thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập ngay
từ khi chưa có tranh chấp.
Thứ sáu, thỏa thuận trọng tài có thể phát sinh để giải quyết tranh chấp từ
hợp đồng hoặc tranh chấp ngoài hợp đồng.
1.3. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Như đã đề cập ở trên thỏa thuận trọng tài là một hợp đồng trong đó các
bên đồng ý đệ trình các tranh chấp đang tồn tại hoặc các tranh chấp phát sinh
trong tương lai của mình ra trọng tài mà không phải ra tòa án.
Thỏa thuận trọng tài có hiệu lực độc lập với hiệu lực của hợp đồng chính.
Nguyên tắc này đã được nhiều nước thừa nhận trong pháp luật về trọng tài của
mình [20, Đ7], [ 24, Đ17]. Ở Việt Nam, được ghi nhận rõ ràng tại Điều 19 Luật
Trọng tài thương mại 2010: “Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp

đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể
thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”.
Điều 16 khoản 1 Luật Mẫu của UNITRAL quy định: “Hội đồng trọng tài
có thể quyết định về thẩm quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý kiến phản
đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài. Vì mục đích này,
điều khoản trọng tài trở thành bộ phận của hợp đồng sẽ được coi là thỏa thuận
độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng. Quyết định của hội đồng trọng tài
về hợp đồng vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài vô hiệu theo”.
Khác với tòa án, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu
trước đó đã có thỏa thuận trọng tài. Do đó, việc xác định thỏa thuận trọng tài độc
lập với hợp đồng chính có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết tranh chấp, đặc
biệt là các trường hợp hợp đồng chính bị vô hiệu. Sở dĩ như vậy là vì không phải
lúc nào nguyên nhân làm cho hợp đồng chính vô hiệu cũng trùng với nguyên


13

nhân làm cho điều khoản trọng tài vô hiệu. Ví dụ, trong trường hợp hợp đồng
chính bị vô hiệu vì một điều khoản bất kỳ của nó trái quy định pháp luật thì thỏa
thuận trọng tài vẫn có hiệu lực bình thường và trọng tài vẫn có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, sự vô hiệu của hợp đồng
chính sẽ làm cho điều khoản trọng tài cũng trở nên vô hiệu, nhất là trong trường
hợp nguyên nhân làm cho hợp đồng chính vô hiệu trùng với nguyên nhân làm
cho điều khoản trọng tài vô hiệu; chẳng hạn như trường hợp thỏa thuận trọng tài
nằm trong một hợp đồng được ký kết bởi một trong các chủ thể không có thẩm
quyền và năng lực ký kết hợp đồng hoặc vi phạm nguyên tắc tự nguyện ký kết
hợp đồng. Nói cách khác, nếu những nhân tố làm cho hợp đồng chính vô hiệu
toàn phần cũng là những nhân tố làm vô hiệu của thỏa thuận trọng tài thì trong
trường hợp đó thỏa thuận trọng tài vô hiệu, nhưng không phải do hợp đồng chính
quyết định, mà do thỏa thuận trọng tài không đáp ứng được điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

Ví dụ: trong một hợp đồng thương mại được ký kết giữa thương nhân A
và thương nhân B, đại diện của thương nhân A không có thẩm quyền ký kết, do
đó đã dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu. Người ký kết hợp đồng chính cũng là người
ký kết thỏa thuận trọng tài, bởi vậy thỏa thuận trọng tài cũng vô hiệu. Tuy nhiên,
trường hợp thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu này không phải là vì hợp đồng vô hiệu
theo Điều 127 Bộ luật dân sự 2005 mà thỏa thuận trọng tài trên vô hiệu theo quy
định tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại.
Điều 18 Luật Trọng tài thương mại đã quy định cụ thể về các trường hợp
thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Theo đó, có thể hiểu thỏa thuận trọng tài vô hiệu là
trường hợp các bên thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng
thỏa thuận đó không được công nhận hiệu lực. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu sẽ
dẫn đến hậu quả là vụ việc không được giải quyết tại trọng tài. Nếu các bên
không thỏa thuận lại về thỏa thuận trọng tài thì tranh chấp đó sẽ được giải quyết


14

theo một trong ba hình thức giải quyết tranh chấp còn lại theo luật tố tụng, đó là:
thương lượng, hòa giải, tòa án. Tuy nhiên phụ thuộc vào từng giai đoạn của quá
trình giải quyết tranh chấp mà việc thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu có thể dẫn tới
những hậu quả pháp lý khác nhau, cụ thể:
- Khi xem xét thụ lý đơn kiện: nếu có cơ sở để khẳng định thỏa thuận trọng
tài vô hiệu thì tổ chức trọng tài từ chối thụ lý vụ việc. Trường hợp các bên không
xác lập được một thỏa thuận trọng tài mới có hiệu lực thì một bên tranh chấp có
thể khởi kiện tranh chấp ra tòa án.
- Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp mà phát hiện thỏa
thuận trọng tài vô hiệu mà các bên tranh chấp không đạt được thỏa thuận trọng
tài mới có hiệu lực thì Hội đồng trọng tài phải ra quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ việc. Trong trường hợp này một bên tranh chấp có thể khởi kiện vụ việc
ra tòa án có thẩm quyền.

- Khi Hội đồng trọng tài đã ra quyết định cuối cùng mà có một bên yêu cầu
tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài thì trong quá trình xem xét đơn yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài, nếu tòa án phát hiện thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu thì
tòa án ra quyết đinh hủy phán quyết trọng tài. Trong trường hợp này, các bên
tranh chấp có thể thỏa thuận với nhau để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết.
Nếu các bên tranh chấp không đạt được thỏa thuận trọng tài mới thì một bên có
quyền đưa vụ tranh chấp đó ra tòa án giải quyết.
Do đó, bản thân sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài là chưa đủ. Để trọng tài
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thì thỏa thuận trọng tài đó phải có giá trị
pháp lý ở thời điểm phát sinh tranh chấp.
1.4. Hình thức của thỏa thuận trọng tài
Pháp luật của nhiều nước quy định thỏa thuận trọng tài được lập bằng văn
bản. Điều II Công ước New York quy định yêu cầu thỏa thuận trọng tài được thể


15

hiện dưới hình thức văn bản. Quy định này cũng được Luật Mẫu đề cập đến ở
Điều 7.2. Pháp luật Việt Nam về trọng tài nói riêng, pháp luật về trọng tài đa số
các quốc gia nói chung đều xây dựng dựa vào các quy định của Luật Mẫu
UNCITRAL về hình thức thỏa thuận trọng tài. Cụ thể, điều này đã được ghi
nhận ngay từ Pháp lệnh trọng tài thương mại [5, k1 Đ 9] và được khẳng định lại
tại khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại.
Khái niệm văn bản đã được mở rộng hơn trong Luật Trọng tài thương mại
so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Theo khoản 1 Điều 9 Pháp lệnh Trọng tài
thương mại: “Thỏa thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện
tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh
chấp bằng trọng tài được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản.”
Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Thỏa thuận trọng
tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng

được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax,telex,
thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các
bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi
chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d)Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận
trọng tài như hợp đồng,chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của
thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận”.
Như vậy, với việc khái niệm “văn bản” của thỏa thuận trọng tài được mở
rộng hơn đã tạo điều kiện cho việc thừa nhận giá trị của thỏa thuận trọng tài,


16

giảm thiểu khả năng xảy ra tranh chấp về hình thức của thỏa thuận trọng tài trên
thực tế.
Khi xét về nội hàm của khái niệm “văn bản”, có thể thấy nhận Luật Mẫu
UNCITRAL quy định rộng hơn so với Công ước New York. Cụ thể, Điều II
Công ước New York quy định “Thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng hoặc thỏa
thuận trọng tài được ký kết giữa các bên hoặc chứa đựng trong các thư tín là văn
bản”. Như vậy, Công ước quy định chỉ có hai trường hợp khi thỏa thuận trọng tài
được xem ký kết bằng văn bản:
(i)Thỏa thuận trọng tài được ký kết trực tiếp bởi các bên;
(ii)Thỏa thuận trọng tài chứa đựng trong các thư tín do các bên trao đổi.
Trong khi đó, Luật Mẫu UNCITRAL quy định 5 trường hợp khi thỏa
thuận trọng tài được xem là được ký kết bằng văn bản. Đó là các trường hợp:
(i)Thỏa thuận trọng tài được các bên ký kết trực tiếp;

(ii)Thỏa thuận trọng tài chứa đựng trong các thư tín;
(iii)Thỏa thuận trọng tài được ký kết bằng việc áp dụng các phương tiện liên lạc
có khả năng đảm bảo việc xác định thỏa thuận đó;
(iv)Thỏa thuận trọng tài được ký kết bằng cách trao đổi đơn kiện và trả lời đơn
kiện;
(v)Trong trường hợp trong hợp đồng có viện dẫn sang một tài liệu có chứa đựng
thỏa thuận trọng tài.
1.5. Nội dung của thỏa thuận trọng tài
Để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì thỏa thuận trọng tài phải chứa
đựng các thỏa thuận cụ thể về việc giải quyết tranh chấp. Để được coi là một
thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận của các bên phải có nội dung giao việc giải
quyết tranh chấp cho trọng tài. Nếu các bên thống nhất giao việc giải quyết tranh


17

chấp cho cơ quan tài phán nhà nước như tòa án thì đây không phải là thỏa thuận
trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài là sự đồng ý của các bên về việc sử dụng trọng tài
như một trong số các hình thức giải quyết tranh chấp, hoặc đồng ý chọn trọng tài
để giải quyết. Như vậy, thỏa thuận trọng tài không nhất thiết phải xác định hình
thức trọng tài, tổ chức hay trung tâm trọng tài cụ thể.
Nội dung của thỏa thuận trọng tài nói đến việc xác định trình tự, thủ tục,
thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải quyết những tranh
chấp, bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng chính. Hiện nay pháp luật
trọng tài nước ta có quy định một số điều khoản mang tính cơ bản đối với một
thỏa thuận trọng tài như hình thức trọng tài, lựa chọn ngôn ngữ trọng tài, cách
tính toán chi phí, lệ phí,…Ngoài những điều khoản cơ bản thì thỏa thuận trọng
tài còn được xác lập thêm một số điều khoản khác tùy thuộc vào lợi ích của các
bên tranh chấp với mục đích tạo thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp về sau.

Nếu như những quan hệ pháp luật khác, khi có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra thì
một bên (nguyên đơn) sẽ gửi đơn khởi kiện đến tòa án để tòa án thụ lý và giải
quyết. Nội dung đơn khởi kiện gồm: tên Tòa án nhận đơn khởi kiện; tên, địa chỉ
của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền và lợi ích được bảo vệ (nếu
có), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (nếu có),người làm chứng (nếu có);
những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết với bị đơn, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan. Khác với quan hệ pháp luật mà ở đó luật tố tụng mang tính
chất quyền lực nhà nước rất cao thì trong quan hệ thương mại, mà đặc biệt là
trong lĩnh vực trọng tài thì luật tố tụng, trọng tài viên lại phụ thuộc vào sự lựa
chọn của các bên, đây chính là nội dung thỏa thuận của các bên trong điều khoản
trọng tài cũng chính là sự khác biệt giữa thỏa thuận trọng tài và đơn khởi kiện.


18

Hầu hết pháp luật các nước chỉ đơn thuần quy định điều khoản trọng tài
phải thể hiện thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài. Thỏa thuận này có thể được
lập trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Ngoài ra, luật pháp các nước không
quy định chi tiết nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài. Điều đó để các bên tự
quyết định, miễn là phải thỏa mãn yêu cầu là một “thỏa thuận” theo luật pháp về
hợp đồng của nước có liên quan và phù hợp với yêu cầu của pháp luật nước đó.
1.6. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài là cơ sở để tranh chấp được giải quyết bằng
con đường trọng tài. Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại quy định rõ
tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài.
Như vậy, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát
sinh thẩm quyền của trọng tài. Sẽ không có trọng tài và việc giải quyết tại trọng
tài nếu không có thỏa thuận trọng tài. Quy định này khác với tố tụng tòa án, ở đó
khi xảy ra tranh chấp thì bất kỳ bên nào cũng có quyền yêu cầu tòa án xem xét
giải quyết mà không cần được bên kia đồng ý vì thẩm quyền của tòa án là đương

nhiên và tòa án có quyền và nghĩa vụ phải thụ lý, nếu có đơn khởi kiện. Nhưng
với trọng tài thì không phải như vậy, nếu các bên không có thỏa thuận giải quyết
bằng trọng tài thì trọng tài không có thẩm quyền gì. Không những vậy, thỏa
thuận trọng tài còn là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ hoạt động trọng tài, kể từ
khi đưa tranh chấp thương mại ra trọng tài cho đến khi công nhận và thi hành
phán quyết trọng tài.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài cho phép loại trừ thẩm quyền của tòa án.
Pháp luật Việt Nam cũng như nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới đều
ghi nhận nguyên tắc, khi các bên có thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì tòa án
không có thẩm quyền xét xử và thẩm quyền này thuộc trọng tài mà các bên đã
thỏa thuận. Theo Luật Trọng tài thương mại, “Tranh chấp được giải quyết bằng


19

trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài” và “Trong trường hợp các bên
tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án
phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận
trọng tài không thể thực hiện được”. Thực ra tinh thần của các quy định này đã
tồn tại từ trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế vì theo khoản 5 của
Pháp lệnh này, “Tòa án trả lại đơn kiện trong những trường hợp sự việc đã được
các bên thỏa thuận là phải giải quyết theo thủ tục trọng tài”.
Như vậy, một khi các bên đã đồng ý lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thì tòa án không còn thẩm quyền nữa và phải từ chối thụ lý vụ án khi
một bên khởi kiện tại tòa, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không
thể thực hiện được [4, Đ 6]. Thông qua đó giúp giảm tải công việc xét xử của tòa
án, chuyển bớt các tranh chấp cho các chế định xã hội, cụ thể là trọng tài để giải
quyết.
Mặc dù loại trừ thẩm quyền xét xử của tòa án nhưng hoạt động trọng tài
cần sự hỗ trợ và đôi khi cả sự can thiệp của tòa án. Bởi vì, là một chế định tài

phán tư, trong quá trình hoạt động, trọng tài không có quyền lực Nhà nước để ra
các quyết định có tính cưỡng chế thi hành, ngoại trừ phán quyết trọng tài. Các
bên vẫn cần phải có sự hỗ trợ của tòa án khi có khiếu nại về thỏa thuận trọng tài
vô hiệu, yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, chỉ định trọng tài viên
(adhoc) và khi có căn cứ pháp luật để đề nghị tòa án hủy quyết định trọng tài.
Điều này sẽ là không cần thiết nếu các bên tranh chấp có thiện chí trong việc giải
quyết tranh chấp và trọng tài không để sai sót cơ bản trong tố tụng.
Thứ ba, việc tự do thỏa thuận lựa chọn các yếu tố trong quá trình giải
quyết các tranh chấp bằng trọng tài hình thành những điều kiện tốt nhất để tiến
hành hoạt động trọng tài và việc thi hành phán quyết trọng tài được thuận lợi
hơn.


20

Thứ tư, thỏa thuận trọng tài là điểm chốt tiếp theo trong việc xác định
thẩm quyền của trọng tài, bởi vì không có thỏa thuận trọng tài thì không thể có
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài thì
trọng tài không có thẩm quyền cho dù tranh chấp có thể được giải quyết bằng
phương thức trọng tài. Điều này khẳng định giá trị của thỏa thuận trọng tài, ý
nghĩa quyết định của sự tự nguyện biểu thị ý chí của các bên khi ký kết hợp
đồng. Thỏa thuận tự nguyện là nguyên tắc nền tảng trong việc xác định thẩm
quyền của trọng tài, là cơ sở cho sự phát triển của trọng tài.
Tóm lại, thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt và có vai trò
quyết định đối với việc áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài. Với nội dung chính là sự thỏa thuận của các bên về các yếu tố của luật tố
tụng đặt nền tảng cho sự hình thành và thực thi toàn bộ tiến trình trọng tài, do đó
hiệu quả của hoạt động tố tụng trọng tài phụ thuộc một phấn rất lớn vào nội dung
của thỏa thuận trọng tài.
Với các đặc trưng riêng và ý nghĩa quan trọng trong giải quyết tranh chấp

bằng trọng tài như đã phân tích ở trên, pháp luật Việt Nam đã quy định như thế
nào về thỏa thuận trọng tài? Đâu là giới hạn của sự tự do thỏa thuận, đâu là điều
kiện các bên cần tuân thủ để đảm bảo hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Đây là
những nội dung chính sẽ được đề cập tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích cụ thể tại
chương tiếp theo của luận văn.


21

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM
2.1. Cơ sở pháp lý của thỏa thuận trọng tài
2.1.1. Quy định quốc tế
Công ước New York
Vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài
được Việt Nam và toàn thể các quốc gia trên thế giới quan tâm. Chúng ta đã ký
kết nhiều Hiệp định song phương với các nước và tham gia một số Điều ước
quốc tế về vấn đề này trong đó điển hình nhất là Công ước New York 1958 về
công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài. Việt Nam gia
nhập Công ước New York năm 1995.
Theo Công ước New York 1958, Công ước được áp dụng đối với quyết
định của Trọng tài nước thành viên tham gia Công ước và đối với cả trường hợp
quyết định của Trọng tài được tuyên ở ngoài phạm vi lãnh thổ các nước tham gia
Công ước, nhưng được yêu cầu công nhận và thi hành trên lãnh thổ của một
nước tham gia Công ước. Tuy nhiên, mỗi nước có quyền tuyên bố không áp
dụng Công ước đối với trường hợp quyết định của Trọng tài được tuyên ngoài
phạm vi lãnh thổ của các nước tham gia Công ước.
Nội dung của Công ước được áp dụng đối với các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực kinh tế, buôn bán của cá nhân và pháp nhân, nhưng không loại trừ

trường hợp tranh chấp có một bên tham gia là Nhà nước, cơ quan Nhà nước.
Công ước New York mô phỏng những nguyên tắc chính sau:


×