Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

LUẬT LỆ CỦA WTO VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

TRANG

I. LUẬT LỆ CỦA WTO VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ BIỆN PHÁP CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ……………………………………………………2
1. Bán phá giá hàng xuất khẩu trong thương mại quốc tế…………2
2. Biện pháp chống bán phá giá và thủ tục áp dụng biện pháp chống
bán phá giá trong thương mại quốc tế…………………………………..…5
II. MỘT VÀI LIÊN HỆ ĐỐI VỚI VIỆT NAM………….……………9
III. Kết luận……………………………………………………….……13

I. LUẬT LỆ CỦA WTO VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ BIỆN PHÁP CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ
1


Hiện tượng bán phá giá có nguồn gốc khá sớm trong thực tiễn thương mại
quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước
đều coi đây là một trong những hành vi thương mại không lành mạnh. Một số
nước đã có những đạo luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế từ rất
sớm. Trên bình diện quan hệ thương mại đa biên, Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (GATT) năm 1947 là văn kiện pháp lý đầu tiên quy định về vấn
đề này (Điều VI). Năm 1967, các Bên ký kết của GATT đã thỏa thuận “Hiệp
định về thực hiện điều VI của GATT”, thường được gọi là Bộ luật chống bán
phá giá. Trong vòng đàm phán Tokyo, Hiệp định này được sửa đổi, bổ sung vào
năm 1979.
Cuối cùng, với kết quả của Vòng đàm phán Uruguay, vấn đề bán phá giá
và biện pháp chống bán phá giá được điều chỉnh bởi “Hiệp định về thực hiện
điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1994” (sau đây
gọi tắt là Hiệp định ADP). Là một trong những hiệp định thương mại đa biên


của WTO, Hiệp định này được xếp trong Phụ lục I A của Hiệp định Marrakech
thành lập Tổ chức Thương mại thế giới, có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các
nước thành viên của WTO.
Các quy định hiện hành của WTO về bán phá giá và chống bán phá giá có
thể được nhìn nhận qua các vấn đề: Các hành vi bán phá giá bị lên án, các biện
pháp chống bán phá giá có thể được áp dụng và thủ tục áp dụng các biện pháp
này.
1. Bán phá giá hàng xuất khẩu trong thương mại quốc tế
Khái quát nhất, một sản phẩm được coi là bán phá giá khi giá xuất khẩu
của sản phẩm đó thấp hơn giá thông thường của sản phẩm tương tự bán trong
nước. Về bản chất, bán phá giá trong thương mại quốc tế là hành vi phân biệt
giá cả: đối với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự, nhưng giá xuất
khẩu lại thấp hơn giá tiêu thụ nội địa. Khác với hiện tượng trợ cấp nhà nước,
bán phá giá là hành vi có tính chất doanh nghiệp. Bản thân GATT cũng như các
hiệp định của WTO sau này, bao gồm cả Hiệp định ADP là những điều ước
2


quốc tế giữa các quốc gia, do vậy không điều chỉnh trực tiếp các hành vi thương
mại tư nhân này. Tuy nhiên, xuất phát từ ý tưởng cho rằng bán phá giá là một
trong những hành vi thương mại không công bằng, bóp méo hoạt động thương
mại bình thường, GATT cũng như WTO đều cho phép các quốc gia áp dụng
những biện pháp mang tính “phòng vệ” để ngăn chặn và hạn chế hậu quả hiện
tượng này, nhằm bảo vệ nền sản xuất nội địa. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế,
việc bán phá giá không phải không đem lại những lợi ích nhất định: dưới góc độ
của nước xuất khẩu, bán phá giá tạo điều kiện cho nhà sản xuất có điều kiện
phát huy tối đa năng lực sản xuất, khả năng tăng lợi nhuận và thâm nhập thị
trường mới; dưới góc độ của nước nhập khẩu, người tiêu dùng có điều kiện
hưởng lợi về giá cả. Có lẽ đó chính là một trong những lý do mà không phải bất
cứ hành vi bán phá giá nào cũng bị lên án, theo quy định của cả GATT trước

đây và WTO hiện nay.
Để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá, nước nhập khẩu phải
chứng minh được: sự tồn tại của hành vi bán phá giá hàng nhập khẩu vào thị
trường của mình; hành vi bán phá giá đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
vật chất cho ngành công nghiệp trong nước.
Điều VI. 1 của GATT coi bán phá giá là việc “sản phẩm của một nước
được đưa vào kinh doanh trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn
giá trị thông thường của sản phẩm”. Cụ thể hơn, điều 2.1 của Hiệp định ADP
định nghĩa: “một sản phẩm bị coi là bán phá giá... nếu như giá xuất khẩu của
sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức
giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất
khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường”.
Như vậy, cốt lõi của việc xác định bán phá giá là sự so sánh biên độ chênh
lệch giữa giá xuất khẩu với giá thông thường của sản phẩm tại nước xuất khẩu.
Việc tiến hành so sánh giữa giá xuất khẩu và giá thông thường phải được tiến
hành đối với cùng loại sản phẩm hoặc đối với sản phẩm tương tự (like
product trong tiếng Anh và produit similaire trong tiếng Pháp). Theo điều 2.6
3


Hiệp định ADP, sản phẩm tương tự trong trường hợp bán phá giá được hiểu theo
nghĩa rất hẹp, là sản phẩm giống hệt, tức là có tất cả các mặt giống với sản
phẩm đang xem xét, hoặc nếu không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm
mặc dù không giống ở mọi mặt nhưng có những đặc tính rất giống (closely
resembling trong tiếng Anh và ressemblant étroitement trong tiếng Pháp) với
sản phẩm đang xem xét[3].
Trong trường hợp việc bán sản phẩm trong thị trường nội địa của nước
xuất khẩu không diễn ra theo các điều kiện thương mại thông thường (như việc
bán hàng thấp hơn giá thành sản xuất do được trợ cấp bởi chính phủ) hoặc sản
phẩm đó không được bán tại nước xuất khẩu hay được bán với số lượng không

đáng kể, biên độ chênh lệch giá có thể được xác định bằng việc so sánh giá xuất
khẩu với giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự khi xuất khẩu sang
nước thứ ba, hoặc với giá cấu thành. Giá cấu thành được tính trên cơ sở giá
thành sản xuất tại nước xuất khẩu cộng thêm một khoản hợp lý cho chi phí quản
lý, bán hàng và lợi nhuận (điều 2.2 Hiệp định ADP).
Sau khi tiến hành so sánh, nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá thông thường tại
nước xuất khẩu (hoặc thấp hơn giá xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc thấp hơn
giá cấu thành trong trường hợp không xác định được giá thông thường của sản
phẩm tương tự tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu) thì có thể khẳng định
sự tồn tại của việc bán phá giá đối với sản phẩm được xem xét. Tuy nhiên, để có
thể áp dụng biện pháp chống phá giá đối với sản phẩm này, nước nhập khẩu còn
phải chứng minh rằng việc bán phá giá đó gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại
cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước.
Khái niệm tổn hại được hiểu là thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất
trong nước hoặc ảnh hưởng vật chất làm chậm quá trình hình thành một ngành
sản xuất như vậy (điều 3 Hiệp định ADP). Điều 3 của Hiệp định ADP còn quy
định rằng việc xác định hàng nhập khẩu bán phá giá có đang làm tổn hại đến
ngành sản xuất nội địa hay không phải được thực hiện trên cơ sở mọi “yếu tố
kinh tế liên quan tác động đến tình trạng của ngành sản xuất”. Những yếu tố đó
4


gồm: sự giảm sút thực tế và tiềm tàng về sản lượng, doanh số, thị phần, lợi
nhuận, năng xuất, tỷ xuất đầu tư hoặc sử dụng công xuất; sự tác động lên giá nội
địa; tác động thực tế và tiềm tàng về chu chuyển tiền, tồn kho; việc làm; tiền
lương; tăng trưởng và năng lực huy động vốn đầu tư . Mặt khác, những thiệt hại
vật chất cho ngành sản xuất trong nước phải là hệ quả trực tiếp của việc bán phá
giá. Nói cách khác, phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
bán phá giá và những thiệt hại vật chất mà ngành sản xuất sản phẩm tương tự
trong nước phải gánh chịu. Khái niệm ngành sản xuất trong nước dùng để chỉ

tập hợp chung các nhà sản xuất trong nước sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc
để chỉ những nhà sản xuất có tổng sản phẩm chiếm phần lớn tổng sản xuất trong
nước của sản phẩm đó, trừ một số ngoại lệ cụ thể (điều 4 Hiệp định ADP).
2. Biện pháp chống bán phá giá và thủ tục áp dụng biện pháp chống
bán phá giá trong thương mại quốc tế
Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ
nghiêm trọng nhất định là hành vi thương mại không công bằng, luật lệ của
GATT trước đây và WTO hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện
pháp có tính trả đũa, tự vệ thương mại. Trong các biện pháp hạn chế thương mại
như áp dụng hạn ngạch, hạn chế số lượng, tăng thuế, các biện pháp hạn chế có
tính kỹ thuật, phi thuế quan khác, để chống lại hành vi bán phá giá, các quốc gia
chỉ có quyền áp dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu. Nói cách khác, quốc gia bị
thiệt hại chỉ có thể áp dụng thuế bổ sung (thuế chống bán phá giá) đối với hàng
hóa nhập khẩu bị xác định là bán phá giá. Các biện pháp hạn chế số lượng hay
các biện pháp hạn chế phi thuế quan khác không được coi là hợp pháp. Quyền
áp dụng thuế bán phá giá của quốc gia bị thiệt hại thực chất là quyền có tính
ngoại lệ đối với hai nguyên tắc trong thương mại đa biên:
Thứ nhất, đó là ngoại lệ đối với nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc (MFN).
Thuế chống bán phá giá chỉ áp dụng đối với hàng hóa cụ thể của quốc gia xuất
khẩu cụ thể, đã bị xác định là đối tượng của hành vi bán phá giá;
5


Thứ hai, áp dụng thuế bán phá giá cũng là ngoại lệ đối với nguyên tắc tôn
trọng các cam kết về cắt giảm thuế. Quốc gia bị thiệt hại không có nghĩa vụ tôn
trọng giữ nguyên mức thuế đã cam kết đối với các hàng hóa nhập khẩu là đối
tượng của hành vi bán phá giá bị cấm.[4]
Việc xác định mức thuế chống bán phá giá phải dựa trên trên biên độ phá
giá của sản phẩm có liên quan. Biên độ phá giá chính là sự chênh lệch về giá
giữa giá xuất khẩu đang xem xét với giá thông thường của sản phẩm tại thị

trường nội địa, hoặc giá xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc giá cấu thành của sản
phẩm. Về bản chất, thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung, đánh vào
hàng nhập khẩu nhằm triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá đối với
sản phẩm đó (điều VI.2 của GATT). Mục đích cuối cùng của thuế chống bán
phá giá là tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa sản phẩm trong nước và sản
phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi cạnh tranh
quốc tế không lành mạnh. Cũng chính vì mục đích này mà việc áp dụng mức
thuế chống bán phá giá được yêu cầu là không vượt quá biên độ bán phá giá,
nhằm tránh tình trạng lạm dụng thuế chống bán phá giá làm công cụ bảo hộ bất
hợp pháp thị trường nội địa.
Hiệp định GATT 1947 không có các quy định về thủ tục áp dụng biện pháp
chống bán phá giá. Hiệp định mặc nhiên thừa nhận quyền tự do của các quốc
gia trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp
dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình.
Tình trạng này là nguyên nhân chủ yếu để nhiều nước lợi dụng áp dụng pháp
luật chống bán phá giá như là công cụ thực hiện chính sách bảo hộ thái quá thị
trường nội địa. Hiệp định ADP đã tiến một bước dài so với GATT 1947 về điểm
này. Bên cạnh việc đưa ra những tiêu chí cụ thể hơn để xác định hành vi bán phá
giá, có thể nói Hiệp định ADP đã có bước tiến dài trong việc hài hòa hóa hoạt
động tố tụng của các quốc gia từ việc điều tra xác định bán phá giá, đến việc áp
dụng và kiểm soát các biện pháp chống bán phá giá.
6


Để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá, Hiệp định ADP yêu cầu
nước nhập khẩu hàng hóa phải tiến hành điều tra. Hoạt động điều tra này nhằm
mục đích xác định “có sự tồn tại việc bán phá giá không cũng như xác định
mức độ và hậu quả của trường hợp bị nghi ngờ là bán phá giá” (điều 5.1 Hiệp
định ADP). Cuộc điều tra này được tiến hành trên cơ sở đơn yêu cầu của ngành
sản xuất trong nước hoặc của người đại diện của ngành sản xuất trong nước chịu

thiệt hại do hành vi bán phá giá gây ra.[5]Đơn yêu cầu phải đưa ra các bằng
chứng về việc bán phá giá, sự tổn hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân
quả giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại mà ngành sản xuất trong
nước phải gánh chịu (điều 5.2 Hiệp định ADP). Ngoài ra, để đảm bảo việc điều
tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá được ủng hộ bởi số lớn các nhà sản
xuất nội địa, Hiệp định ADP còn đề ra hai tiêu chí bổ sung khác:
Thứ nhất, đơn yêu cầu chỉ được coi là đại diện cho ngành sản xuất trong
nước nếu như được ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản
lượng của sản phẩm tương tự làm bởi các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến phản đối
hoặc tán thành đơn yêu cầu đó.
Thứ hai, cuộc điều tra chỉ được tiến hành khi các nhà sản xuất ủng hộ đơn
yêu cầu chiếm ít nhất 12% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành
sản xuất nội địa làm ra (điều 5.4 Hiệp định ADP). Quá trình điều tra bán phá giá
cũng phải tuân thủ những điều kiện cụ thể, được quy định trong Hiệp định ADP:
về thời hạn, một cuộc điều tra không kéo dài hơn 12 tháng. Trong trường hợp
đặc biệt, thời hạn này cũng không thể vượt quá 18 tháng; Hoạt động điều tra
phải đảm bảo quyền được trình bày ý kiến, quyền cung cấp chứng cứ của các
bên đương sự; Cơ quan tiến hành điều tra có thể tham khảo ý kiến của các bên
có liên quan, bao gồm cả thông tin và ý kiến từ phía người tiêu dùng.
Trong quá trình điều tra, nếu đã có kết luận ban đầu về việc bán phá giá và
thiệt hại do việc bán phá giá mang lại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện
pháp tạm thời. Các biện pháp tạm thời bao gồm áp đặt thuế chống phá giá tạm
thời hoặc yêu cầu đảm bảo bằng tiền mặt tương đương với mức thuế chống bán
7


phá giá dự tính. Các biện pháp này nhằm mục đích ngăn chặn các tổn hại diễn
ra trong quá trình điều tra. Các biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là
60 ngày kể từ khi cuộc điều tra chống bán phá giá bắt đầu và tồn tại không quá
4 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, biện pháp tạm thời có thể được kéo dài đến

9 tháng (điều 7 Hiệp định ADP).
Hoạt động điều tra có thể bị đình chỉ hoặc chấm dứt mà không cần áp dụng
bất cứ biện pháp tạm thời hay thuế chống phá giá nếu các nhà xuất khẩu đưa ra
cam kết về giá. Đây là trường hợp nhà xuất khẩu cam kết tăng giá hàng xuất
khẩu, xóa đi khoản chênh lệch về giá tương đương với biên độ phá giá được sơ
bộ xác định. Việc đưa ra cam kết về giá của nhà xuất khẩu chỉ được chấp nhận
khi cơ quan điều tra thấy rằng thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước đã
được loại bỏ và bản thân hành động cam kết về giá cũng không đương nhiên
chấm dứt hoạt động điều tra.
Theo quy định của Hiệp định ADP, cũng như thực tiễn của tất cả các nước,
hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá
thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp. Để đảm bảo tính công bằng của các
hoạt động này, bên cạnh việc quy định vấn đề chống bán phá giá có thể trở
thành đối tượng của tranh chấp thương mại theo thủ tục của WTO nói chung,
Hiệp định ADP còn quy định tại điều 13 về rà soát tư pháp. Theo quy định của
Điều này, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo rằng các hoạt động về
đánh giá hành vi bán phá giá, áp dụng các biện pháp chống phá giá phải được
kiểm soát bởi các cơ quan tư pháp, hoạt động độc lập với các cơ quan đã đưa ra
quyết định trong lĩnh vực chống bán phá giá. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện
pháp chống bán phá giá cũng được đảm bảo bởi nhiều các quy định thủ tục
khác: theo quy định tại Điều 10 của Hiệp định ADP, thuế chống bán phá giá
không có giá trị hồi tố; thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá không vượt quá
5 năm, trừ trường hợp mở cuộc điều tra mới (điều 11.3 Hiệp định ADP).
II. MỘT VÀI LIÊN HỆ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
8


Việc mở cửa nền kinh tế, tham gia ngày càng tích cực vào thị trường khu
vực và quốc tế đang đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam nhiều vấn đề của thương
mại quốc tế, trong đó có vấn đề bán phá giá. Việt Nam vừa có nguy cơ là đối

tượng của hành vi bán phá giá của các nước xuất khẩu khác, đồng thời cũng có
nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu ra
nước ngoài.
Một mặt, về việc thị trường nội địa Việt Nam bị thiệt hại do hành vi bán
phá giá của hàng nhập khẩu nước ngoài: với đặc điểm là nền kinh tế chuyển đổi,
đang trong quá trình hoàn thiện các thiết chế của kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp sản xuất của Việt Nam còn rất yếu kém trong hoạt động cạnh tranh, đặc
biệt cạnh tranh trong thương mại quốc tế. Tình trạng này dẫn đến việc hàng hóa
nước ngoài có thể dễ dàng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam thông qua cơ chế giá.
Hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu ở lĩnh
vực hàng công nghiệp, đặc biệt các mặt hàng điện tử dân dụng; cơ khí dân
dụng; đồ mỹ phẩm; thuốc chữa bệnh; nước giải khát; đồ may mặc... Nguy cơ
này thực sự đến gần khi Việt Nam sẽ tiếp tục cắt giảm đối thuế đối với gần 700
mặt hàng nhập khẩu xuống còn từ 0 đến 5% trong nửa cuối năm 2003 này,
nhằm thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA giữa các nước ASEAN. Đặc
biệt, do cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam và các nước ASEAN
tương đối giống nhau, trong khi đó nền kinh tế của các nước này lại có rất nhiều
lợi thế so với nền kinh tế Việt Nam, do vậy nguy thị trường Việt Nam phải chịu
những thiệt hại do cạnh tranh không lành mạnh trong cơ chế giá là rất lớn.
Mặt khác, với những ưu thế về lực lượng lao động trẻ, đông về số lượng, rẻ
về giá thành, trong bối cảnh thực hiện chính sách tăng cường xuất khẩu, hàng
hóa Việt Nam đang và sẽ là đối tượng chịu sự áp đặt các biện pháp chống bán
phá giá của nhiều thị trường khác. Trong bối cảnh các rào cản thương mại có
tính chất số lượng, thuế quan ngày càng bị ngăn cấm, cắt giảm, các nước có xu
hướng tăng cường bảo hộ thị trường nội địa của mình thông qua các biện pháp
kỹ thuật, phi thuế quan. Một trong những biện pháp đó là hiện tượng lạm dụng
9


thuế chống bán phá giá để bảo hộ sản phẩm trong nước. Theo số liệu thống kê,

những nước đạt kỷ lục về sử dụng biện pháp thuế chống phá giá lại chính là
những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam như Cộng đồng châu Âu,
Hoa Kỳ, Trung Quốc, Úc, Ca-na-đa. Gần đây nhất, nhiều mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam đã không ngừng bị áp dụng các thủ tục và biện pháp chống phá
giá tại thị trường EU, Mỹ như mặt hàng cá da trơn đông lạnh, tôm đông lạnh,
bật lửa gaz, giầy dép....
Đứng trước hiện trạng và những nguy cơ trên, liên quan đến hoạt động
chống bán phá giá, quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vừa phải đảm bảo
ngăn chặn và xử lý các hành vi bán phá giá của hàng nhập khẩu nước ngoài
nhằm bảo vệ thị trường nội địa, vừa đấu tranh chống lại sự lạm dụng các biện
pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của Việt Nam nhằm giữa vững và tăng
cường hoạt động xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Để đáp ứng được hai
yêu cầu song hành đó, bên cạnh việc tìm kiếm các biện pháp tăng cường sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung, thì việc xây dựng và
hoàn thiện chính sách và pháp luật về chống bán phá giá nói riêng và pháp luật
về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài
đối với Việt Nam. Có thể đưa ra một số nhận xét, kiến nghị ban đầu như sau:
Thứ nhất, chúng ta cần sớm ban hành văn bản ở cấp độ luật về vấn đề
chống bán phá giá trong thương mại quốc tế. Cho đến hiện nay, Việt Nam còn
rất thiếu các văn bản pháp luật quy định về các biện pháp có tính tự vệ thương
mại, chống lại các hành vi thương mại thiếu lành mạnh, không công bằng nhằm
bảo vệ thị trường nội địa. Gần đây nhất, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh về tự
vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam. Pháp lệnh này quy định
về các biện pháp tự vệ và thủ tục áp dụng các biện pháp đó trong trường hợp
nhập khẩu hàng hóa quá mức vào Việt Nam gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản
xuất trong nước (điều 1). Như vậy, đối tượng áp dụng của Pháp lệnh không phải
là tình trạng nhập khẩu hàng hóa quá mức, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước
do hành vi cạnh tranh không công bằng về giá của nhà xuất khẩu nước ngoài
10



(hiện tượng bán phá giá), cũng không phải là hiện tượng cạnh tranh không công
bằng của hàng hóa nước ngoài do được chính phủ nước xuất khẩu trợ giá (hiện
tượng trợ cấp chính phủ).
Về vấn đề bán phá giá, ngày 26/4/2001 UBTVQH đã thông qua Pháp lệnh
Giá, tại khoản 3 điều 4 có định nghĩa: “Bán phá giá là hành vi bán hàng hóa,
dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để
chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi
ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và lợi ích của Nhà
nước”. Pháp lệnh cũng đưa ra các thủ tục, biện pháp điều tra và xử lý chống bán
phá giá. Tuy nhiên, Pháp lệnh này chỉ có thể điều chỉnh các hành vi bán phá giá
của các tổ chức cá nhân nước ngoài, khi họ “hoạt động sản xuất kinh doanh tại
Việt Nam” (khoản 2 điều 1 Pháp lệnh Giá). Do vậy, Pháp lệnh không điều chỉnh
được các hành vi bán phá giá đối với hàng nhập khẩu nước ngoài vào Việt Nam.
Khoản 2 Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu quy định áp dụng thuế bổ sung đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam “với giá bán quá thấp so với giá thông thường do được bán phá giá”.
Như vậy, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một văn bản pháp lý quy định
cụ thể về vấn đề điều tra chống bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá
hàng nước ngoài vào Việt Nam. Trong thời gian gần, việc ban hành một Pháp
lệnh về vấn đề này là rất cấp bách. Đáp ứng các yêu cầu về hội nhập kinh tế
quốc tế, các quy định của pháp lệnh này có mục đích cao nhất là bảo vệ thị
trường nội địa, nhưng cũng cần tính tới các chuẩn mực và thông lệ của WTO,
mà cụ thể là của Hiệp định ADP. Đồng thời, việc ban hành pháp lệnh về chống
bán phá giá hàng nhập khẩu cũng cần tính đến sự đồng bộ, thống nhất với các
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam nói chung như các quy định về thuế,
về quản lý giá, cạnh tranh, về tự vệ trong thương mại và chống trợ cấp đối với
hàng nhập khẩu...
Thứ hai, để chống lại hiện tượng lạm dụng thủ tục chống bán phá giá nhằm
hạn chế hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, nhiều chính sách, biện pháp đồng bộ

11


cần phải được tiến hành: một mặt, cần đẩy mạnh quá trình gia nhập WTO của
Việt Nam. Việc gia nhập này sẽ mang đến những thách thức, khó khăn lớn, tuy
nhiên cũng đem lại những cơ hội kinh tế và pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Liên quan đến việc hạn chế sự lạm dụng thủ tục chống bán phá giá đối
với hàng xuất khẩu của nước ta, tham gia WTO sẽ đem lại những lợi thế như:
các nước nhập khẩu khi xem xét vấn đề bán phá giá đối với hàng xuất khẩu từ
Việt Nam sẽ phải tôn trọng những quy định của WTO về vấn đề này; có thể sử
dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để chống lại những nước nhập khẩu
sử dụng thuế chống bán phá giá nhằm đối xử phân biệt hoặc hạn chế hàng xuất
khẩu từ Việt Nam; tham gia WTO sẽ đương nhiên đem lại cho Việt Nam quy
chế “nền kinh tế thị trường”, hạn chế được sự bất lợi cho hàng xuất khẩu của
Việt Nam khi bị nước nhập khẩu xem xét vấn đề bán phá giá. Mặt khác, khi
tham gia ký kết các hiệp định thương mại song phương, Việt Nam cũng cần có
những thỏa thuận thích đáng về các vấn đề tự vệ thương mại, trợ cấp chính phủ
và bán phá giá, trên cơ sở các chuẩn mực thương mại quốc tế, tránh tình trạng
để bên ký kết nước ngoài tự do đơn phương áp dụng pháp luật của họ. Hơn nữa,
trong pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam cũng cần quy định nguyên
tắc có đi có lại và nguyên tắc áp dụng trả đũa đối với những nước đối xử bất
bình đẳng và phân biệt đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, để đồng thời chống lại hiện tượng bán phá giá tại thị trường Việt
Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt
Nam tại thị trường nước ngoài thì công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và
tổ chức các nhà sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Xuất phát từ hiện trạng kinh nghiệm và vốn kiến thức kinh doanh quốc tế
của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, việc tuyên truyền pháp luật
Việt Nam về thương mại quốc tế, về các quy định và thực tiễn của các thiết chế
kinh tế thương mại quốc tế, cũng như các quy định pháp luật nội địa của các thị

trường nước ngoài quan trọng sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm
kiến thức để tự bảo vệ mình. Đồng thời, trong hoạt động chống bán phá giá,
12


việc tổ chức các nhà sản xuất, xuất khẩu thành các tổ chức, hiệp hội nghề
nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Sự liên kết, thống nhất giữa các nhà sản xuất,
xuất khẩu theo ngành, nghề sẽ tạo thành tiếng nói chung có giá trị pháp lý để
bảo vệ quyền lợi của chính họ.
III. Kết luận
Là một trong những biện pháp có tính chất tự vệ trong thương mại quốc tế,
việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu của các quốc
gia được GATT trước đây và WTO hiện nay thừa nhận. Mục đích cao nhất của
thuế chống bán phá giá là nhằm hạn chế và loại bỏ những thiệt hại do hành vi
bán phá giá của hàng hóa nước ngoài, nhằm giữ vững thế cân bằng trong cạnh
tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa. Tuy nhiên, trên thực tế
cũng có những trường hợp nước nhập khẩu lạm dụng thuế chống bán phá giá để
bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Chính vì vậy, Hiệp định ADP của WTO đã
có những quy định chi tiết hóa các điều kiện, thủ tục về điều tra và áp dụng thuế
chống bán phá giá trong thương mại quốc tế.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, với đặc điểm là nền kinh tế
chuyển đổi, đang phát triển, Việt Nam đồng thời phải đối mặt với tình trạng bán
phá giá của hàng hóa nước ngoài tại thị trường nội địa và tình trạng hàng hóa
xuất khẩu bị áp dụng các biện pháp bảo hộ tại thị trường nước ngoài, trong đó
có biện pháp lạm dụng thuế bán phá giá. Trong bối cảnh đó, nhu cầu cấp bách
đặt ra là Việt Nam sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại
nói chung và pháp luật về chống bán phá giá nói riêng, trên cơ sở hài hòa hóa
với các quy định và thực tiễn của thương mại quốc tế.

13




×