Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Giải phóng con người là mục tiêu cao cả của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam thực trạng và giải pháp (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.89 KB, 71 trang )

GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài.
Xã hội loài người đã trải qua 4 hình thái kinh tế - xã hội và trong giai đoạn
hiện nay đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội để tiến tới một hình thái kinh tế - xã hội
trong tương lai – Cộng sản chủ nghĩa. Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử ấy thì
quan điểm về con người và giải phóng con người trong mỗi xã hội luôn khác nhau.
Nhưng có thể nói chưa có một xã hội nào giải thích vấn đề con người và giải
phóng con người tốt đẹp như xã hội xã hội chủ nghĩa mà hiện nay nước ta đang
xây dựng. Bởi lẽ phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn nhân loại,
đó là làn sóng văn minh thứ ba đưa loài người tới một kỷ nguyên mới, mở ra bao
kỹ năng để con người tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Ở Việt Nam,
trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt là khi đất nước bước vào thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề con người. Trên cơ sở vận
dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người tại Hội nghị lần thứ tư ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Đảng ta
đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với
tư cách là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”(1). Phát triển con người Việt
Nam toàn diện - đó cũng chính là động lực, là mục tiêu của nước ta trong thời kỳ
xây dựng chủ nghĩa xã hội vì trong giai đoạn hiện nay, người lao động nước ta
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong
sự nghiệp phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì chất lượng người lao động là nhân tố
quyết định. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại


hoá”(2). Như vậy muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì phải

Trang 1


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

giải phóng con người, làm cho đời sống con người ngày càng nâng lên. Mọi chính
sách của Đảng, Nhà nước ta phải xuất phát từ con người, vì con người và nhằm
phát triển con người.
Trên cơ sở đó tác giả chọn đề tài “Giải phóng con người là mục tiêu cao
cả của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thực trạng và giải
pháp” làm đề tài nghiên cứu của mình
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích: Tác giả nghiên cứu đề tài nhằm rút ra một số bài học cho việc
thực hiện mục tiêu giải phóng con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên tác giả đã hệ thống hóa các quan điểm
về con người qua các trào lưu triết học, qua đó khái quát, làm rõ tư tưởng của Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và giải phóng
con người là mục tiêu cao cả của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Trong đề tài tác giả nghiên cứu những vấn đề sau:
Quan điểm về con người và giải phóng con người qua các trào lưu triết học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người
và giải phóng con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nêu lên thực trạng trong quá trình giải phóng con người ở Việt Nam; qua

đó đưa ra phương hướng, giải pháp cho việc thực hiện mục tiêu giải phóng con
người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận: Trong quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác- Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam và những sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội đang
diễn ra ở Việt Nam trong những năm gần đây. Bên cạnh đó luận văn cũng sử dụng
Trang 2


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

kết quả nghiên cứu và thống kê về sự phát triển của con người Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
những phương pháp sau:
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
Phương pháp logic và lịch sử.
Phương pháp thống kê phân tích - tổng hợp.
Phương pháp đối chiếu và so sánh.
Phương pháp gắn lý luận với thực tiễn.
5. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần lời cảm tạ, mở đầu, kết luận, tài liều tham khảo, mục lục, phục
lục, luận văn gồm 2 chương 5 tiết

Trang 3



GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi
Chương 1

QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
CỦA CÁC NHÀ TƯ TƯỞNG TRONG LỊCH SỬ
1.1. Quan điểm con người qua các trào lưu triết học
Trong lịch sử phát triển loài người, qua các thời kỳ khác nhau có rất nhiều
quan điểm khác nhau về con người. Trong lịch sử triết học trước Mác, vấn đề con
người vẫn chưa được giải đáp một cách thực sự khoa học, không những chủ nghĩa
duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan, siêu hình cũng nhận thức không đúng
về con người. Mặc dù vậy, những quan điểm khác nhau về con người trong lịch sử
triết học đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc phân tích, quan sát
con người đề cao lý tính, xác lập các giá trị nhân bản học hướng con người tới tự
do. Và quan điểm về con người được giải quyết một cách khác nhau qua các trào
lưu triết học sau:
1.1.1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
Ấn Độ là một quốc gia được hình thành từ rất sớm nên triết học Ấn Độ cũng
rất phát triển chính vì thế vấn đề về con người cũng được sự quan tâm đặc biệt của
các trường phái triết học Ấn Độ. Đạo Jaina - một trong ba hệ thống triết học không
chính thống (tà giáo) cho rằng con người gồm thể xác và tinh thần bất tử. Thể xác
là nơi hạn chế khả năng vô tận của linh hồn. Muốn giải phóng linh hồn toàn năng
thoát khỏi sự hạn chế, ràng buộc bởi ham muốn, nhục dục thể xác và thế giới vật
chất, người ta phải tu luyện đạo đức: Không sát sinh, không bạo lực, khổ hạnh đến
mức không một mãnh vải che thân. Nếu Phật giáo cho rằng: đời là bể khổ thì phái
Jaina phân biệt: sống ác mới là khổ, còn sống lâu theo điều thiện sẽ có hạnh phúc.
Trong triết học Phật giáo, lấy con người làm trung tâm của hệ thống giáo lý
song con người trong Phật giáo vẫn còn là con người trừu tượng, phi lịch sử. Phật

giáo cho rằng con người được cấu thành bởi yếu tố vật chất (sắc) và tinh thần
(danh), ngay bản thân sự tồn tại của con người chẳng qua cũng là “ngũ uẩn”, 5 yếu
tố hợp lại: sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (ý thức thúc đẩy

Trang 4


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

hành động) và thức (ý thức). Theo Phật giáo, các sự vật hiện tượng cũng như con
người là không có thật, đời sống con người trên trần thế chỉ là ảo giác, hư vô. Vì
vậy, cuộc đời con người khi sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ, thác mới là nơi hạnh
phúc vĩnh cửu. Với quan niệm “đời là bể khổ, nước mắt của loài người nhiều hơn
bốn biển. Phật giáo giải thích nguồn gốc sâu xa mọi nỗi khổ của con người là do
“vô minh” và “dục vọng”.Con người chỉ có thể đạt đến Niết bàn, nơi có chân hạnh
phúc khoái lạc, bằng cách diệt trừ dục vọng, khắc phục vô minh, từ bỏ tham, sân,
si. Đây chính là nguyên nhân thúc đẩy bánh xe sinh tử luân hồi. Vì vậy, muốn
chấm dứt mọi đau khổ, người ta phải trừ khử gốc rễ chính của nó là ái dục và vô
minh, từ bỏ tham, sân, si trong cuộc sống. Diệt trừ đau khổ là hướng tới Niết bàn,
sự giải thoát cuối cùng khỏi mọi ràng buộc sinh tử, mọi phiền nảo ám ảnh. Mục
đích cuối cùng của Phật giáo là: tìm cách thoát khỏi vòng “luân hồi”, “nghiệp
báo”, đưa chúng sinh thoát khỏi bể khổ luân hồi bất tận để đạt đến trạng thái Niết
bàn. Phật nói: “Này các đệ tử, ta nói cho mà biết, nước ngoài biển khơi chỉ có một
vị mặn, đạo của ta dạy đây cũng chỉ có một vị là vị giải thoát”(3). Luận điểm nhân
sinh quan phật giáo mang tính nhân văn được thể hiện ở chổ nêu cao tinh thần
“bình đẳng giác ngộ” tức là quyền lực thể hiện sự giải thoát cho mọi “chúng sinh”.
Nhìn chung, trong triết học Phật giáo đã tìm ra được nhiều nguyên nhân gây
ra nỗi khổ của con người: nguyên nhân sinh lý và nguyên nhân tâm lý nhưng Đức

Phật lại không thấy được mọi nỗi khổ đó còn có một nguyên nhân nữa là; nguyên
nhân quan hệ xã hội, do áp bức của giai cấp thống trị. Phật giáo đề cập tới giải
thoát nhưng không đề cập đến những yếu tố giải thoát cho con người đó là yếu tố
về kinh tế. Lực lượng giải thoát theo phật giáo là tự mình giải thoát, con đường
giải thoát là con đường tích đức, tâm linh giải thoát ở kiếp sau chứ không phải ở
kiếp này. Trong khi đó, theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: thì phải là “vô
sản các nước đoàn kết lại”.
Cùng với triết học Ấn Độ, triết học Trung Hoa cổ đại cũng tập trung vào vấn
đề con người và xã hội, thể hiện một màu sắc nhân văn và sự tu dưỡng đạo đức,
coi trọng hành vi cá nhân, hướng tới sự thống nhất hài hòa giữa vũ trụ và xã hội.
Trang 5


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

Có thể nói, “con người” là đối tượng nhận thức cơ bản, chủ yếu của triết học
Trung Hoa cổ đại. Chỉ từ “con người”, người ta mới xem xét vũ trụ, thế giới ngoài
con người và cũng từ việc giải quyết vấn đề “số phận con người”, “vận mệnh con
người” triết học mới có thể đi tới mục tiêu nhận thức của mình và giải quyết vấn
đề “tồn tại người” là mục tiêu hiện thực của triết học. Một số quan điểm về con
người trong triết học Trung Hoa cổ đại:
Khổng Tử (tên Khâu, tự Trọng Ni, 551- 479 TCN), là người khai sáng ra học
thuyết Nho giáo, nhà tư tưởng vĩ đại của Trung Hoa thời cổ. Ông cho rằng “mệnh
trời” như một lực lượng có ý chí, chi phối vận mệnh của con người và xã hội,
không có gì xảy ra trong đời sống xã hội không có sự áp đặt của mệnh trời. Rằng,
quyết định sự thành bại trong hoạt động cũng như cuộc sống của con người.
Khổng Tử khuyên mọi người nên phục tùng ý chí của trời và coi việc hiểu biết nó
như điều kiện tất yếu để trở thành một con người hoàn thiện, quan niệm đó dẫn

đến thuyết “sống chết có mạng, giàu sang tại trời”(4).
Khổng Tử sống trong thời kỳ mà xã hội Trung Hoa có sự loạn lạc, chiến
tranh liên miên, chư hầu nổi loạn. Vì thế, ông mơ tưởng khôi phục lại trật tự xã hội
theo kiểu nhà Chu, đó là xã hội có trật tự tôn ti, từ thiên tử đến các chư hầu lớn
nhỏ, quý tộc, bình dân, ai có phận nấy, có quyền lợi và nghĩa vụ sống hòa hảo với
nhau, giữ chữ tín với nhau, không xâm phạm nhau, một xã hội người trên dưới đều
yêu thương theo phận vị của mình. Xã hội mà ông mơ ước là một xã hội trong đó
quan hệ giữa con người với con người là tốt đẹp: cha hiền con thảo, anh tốt em
ngoan, chồng biết điều, vợ nghe lẽ phải, bề trên rộng rãi bề dưới kính thuận, vua
nhân tôi trung. Muốn vậy, con người phải được giáo dục, phải học “Lễ” để biết
kính thờ cha mẹ, trung với vua và vợ chồng anh em bạn bè, biết cách đối xử với
nhau sao cho không xa rời nhân nghĩa
Trong hệ thống quan điểm của khổng Tử, chữ “Nhân” được ông đề cập với ý
nghĩa sâu rộng nhất. Chữ “Nhân” trong triết học Khổng Tử bao hàm nhiều mặt
trong đời sống con người và chỉ những đức tính tốt của con người. Theo quan
điểm của Khổng Tử gốc của chữ “Nhân” là hiếu lễ, bao gồm các tiêu chuẩn đạo
Trang 6


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

đức khác: trung hiếu, thật thà, khiêm tốn,…Tự trách mình hơn trách người, biết
yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghét hay nói cách khác đó là đạo làm người.
Vì vậy, theo ông để trở thành người nhân, người hoàn thiện thì từ vua đến dân
thường ai ai cũng phải học, để trở thành người tốt, học để tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ, đó chính là đường đi của người quân tử.
Như vậy, theo quan điểm của Không Tử thì con người mang màu sắc duy tâm;
ông cho rằng mọi mâu thuẩn trong xã hội, sự loạn lạc thịnh suy của xã hội đều do

lòng nhân mà ra, ông không thấy được vai trò của hành động thực tiễn, sự phát
triển của kinh tế và sự đấu tranh cải tạo xã hội của con người. Vì vậy, đạo nhân
của ông bất lực trước thời cuộc. Trong học thuyết chính trị của mình Khổng Tử có
một số hạn chế đó là: ông đứng trên lập trường của giai cấp thống trị mà thực hiện
chính sách mị dân, thậm chí là ngu dân. Khuyên con người hài lòng với danh phận
của mình mà không oán trách.
Tuy nhiên, Khổng Tử đã có những quan điểm đúng đắn trong trong mối quan
hệ xã hội, trong đạo đức làm người. Biết trọng hiền tài, nếu thấy người tài hơn
mình thì nhường quyền, nếu không là người ăn cấp địa vị, khuyên giai cấp thống
trị đừng quá cực đoan, không nên dùng nhục hình mà phải biết đến điều nhân
trong chính sách trị dân trị nước.
Mạnh Tử (tên là Kha, tự là Tử Du, 372-289 TCN ) phát triển tư tưởng “Thiên
mệnh” của Khổng Tử và đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên cơ sở nhân bản
học của Khổng Tử, đề ra thuyết “Tính thiện”. Theo Mạnh Tử “Bản tính con người
là thiện” và ông đưa ra ba căn cứ để lý giải: thứ nhất, con người ta ai cũng có lòng
trắc ẩn (biết xót thương), lòng tu ố (biết hổ thẹn), lòng từ nhượng (biết cung kính)
và lòng thị phi (biết phải trái). Thứ hai, đã là con người thì ai cũng đều có chung
cái mầm thiện vốn có và cũng đều là các quan năng do trời phú cho mỗi người; để
nhận biết, phân biệt phải trái, tốt xấu như nhau vì tính thiện là cái chung cái bản
chất của mỗi người. Thứ ba, tính thiện của con người ta bắt nguồn từ “tâm” của
mỗi người. “Tâm” là cái chủ thể trong tinh thần, là cái thần linh trời phú cho ta, là
cơ quan để suy nghĩ, để phân biệt phải trái, thiện ác để ứng đối với vạn sự, nên còn
Trang 7


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

gọi là “lương tâm”. Tâm ta nhờ có “lương năng” và “lương tri” mà tự biết nhân,

nghĩa, lễ, trí. Tâm là cái chủ đạo, điều khiển mọi hành vi. Ông cho rằng bản tính
con người là thiện nhưng do ảnh hưởng của phong tục, tập quán xấu xa mà con
người bị nhiễm cái xấu xa đó, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, theo Mạnh Tử muốn giữ
gìn đạo đức của mình, không làm tổn hại đến thiên tâm trời phú cho, con người
không cần phải tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà chỉ cần suy xét nội tâm
của mình, biết được cái tính của mình là biết được cái tính của trời, con người phải
tồn tâm, dưỡng tính.
Cũng như Không Tử, Mạnh Tử rơi vào chủ nghĩa duy tâm vừa chủ quan vừa
khách quan. Ông cho rằng bản tính con người là có sẵn, do trời phú cho. Tuy
nhiên, ông cũng nhận ra được bản tính con người cũng có thể chi phối bởi mối
quan hệ xã hội.
Tuân Tử (tên Huống, tự là Khanh, 315 - 230 TCN) - nhà triết học duy vật kiệt
xuất trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại, là người phát triển truyền thống
trọng lễ nho giáo, nhưng trái với Khổng Tử và Mạnh Tử, Ông cho rằng con người
vốn “tính ác”. Trong quan niệm triết học về con người, ông cho rằng con người là
sản phẩm cao quý nhất của tự nhiên: “nước, lửa” chỉ có “khí”, nhưng không có
sinh mệnh; “cây cỏ” có sinh mệnh nhưng không có tri giác; loài “cầm thú” có “tri
giác” nhưng không có khuôn phép đạo đức và tổ chức xã hội; loại người không
những có “khí”, mà còn có “sinh mệnh”, có tri giác và có khuôn phép đạo đức, tức
lễ nghĩa. Không có lực lượng siêu nhiên thần bí nào chi phối đời sống tinh thần
của con người. Hình thể con người có trước, sau đó mới sinh ra ý thức tinh thần.
Như vậy, Tuân Tử đã có một cách nhìn mới hơn về con người so với Khổng
Tử và Mạnh Tử. Theo Tuân Tử thì con người được cấu tạo từ vật chất và bản chất
con người được hính thành trong mối quan hệ xã hội.
Tóm lại, con người trong triết học Phương Đông mang màu sắc duy tâm, có
pha trộn tính duy vật chất phác trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, chưa lý
giải một cách khoa học về con người. Chỉ ra những nguyên nhân của mọi nỗi khổ
của con người nhưng chưa chỉ ra được con đường để con người đấu tranh để thoát
Trang 8



GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

khỏi khổ đau, bất hạnh; chỉ khuyên con người cố gắng chịu đựng và an phận,
không thấy được khả năng sáng tạo của con người trong việc đấu tranh để cải tao
tự nhiên cải tạo xã hội. Tuy nhiên, triết học phương Đông đã xây dựng nên những
quan niệm đạo đức tiến bộ trong việc hình thành nhân cách của con người, chỉ ra
được những nguyên nhân cơ bản nỗi khổ của con người.
1.1.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu của tư
duy triết học, khẳng định con người là tinh hoa tinh túy nhất của tạo hóa, con
người được nhìn nhận với tính chất cá thể. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã xây
dựng nên một nền triết học hết sức phong phú và đa dạng.
Hêraclit (520- 460 TCN) là nhà triết học nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, một
trong những nhà sáng lập ra phép biện chứng trên lập trường duy vật cho rằng: con
người được hòa đồng vào chỉnh thể thống nhất là vũ trụ mà không có sự tha hóa
của con người ra khỏi chỉnh thể ấy. Lửa không những là nguồn gốc sản sinh ra
mọi vật mà còn là cái sinh ra linh hồn. Khi quan sát thế giới, Hêraclit đã có những
quan điểm mang tính biện chứng, rằng mọi vật trong thế giới luôn luôn vận động,
thay đổi và phát triển không ngừng. Trong con người có hai mặt đối lặp là lửa và
cái ẩm ướt, lửa sinh ra linh hồn. Nếu người nào có nhiều yếu tố lửa thì người ấy là
người tốt vì tâm hồn người ấy khô ráo, sạch sẽ. Còn người nào có nhiều yếu tố ẩm
ướt là người xấu. Tuy nhiên, khi nhìn nhận xã hội của con người, ông không khỏi
có những hạn chế, do đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô - quý tộc để xem
xét, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Ông đã phủ nhận khả năng sáng tạo
của con người trong việc cải tạo xã hội
Platôn (427-347 TCN) là đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại.
Vấn đề con người là đề tài cơ bản xuyên suốt toàn bộ thế giới quan của Platôn.

Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm của Platôn là học thuyết về “ý
niệm”. Ông đối lập giữa thể xác và linh hồn, coi thể xác chỉ là nơi trú ngụ, nhà tù
của linh hồn. Con người chết đi, linh hồn bất tử được giải thoát khỏi thể xác và trở

Trang 9


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

về với thế giới ý niệm. Thể xác con người được cấu thành bởi bốn yếu tố: lửa,
nước, không khí và đất. Còn linh hồn là sản phẩm của linh hồn vũ trụ, là cái tồn tại
vĩnh viễn. Con người nhận thức chân lý bằng cách nhớ lại, hồi tưởng lại của linh
hồn về những cái đã quên trong quá khứ. Mặc dù quan niệm của Platôn về con
người mang tính duy tâm; song, ông vẫn có công lao lớn trong việc nghiên cứu các
vấn đề ý thức xã hội và vai trò của nó trong việc hình thành nhân cách và ý thức
con người.
Như vậy, vấn đề con người trong triết học Hy Lạp cổ đại được xem xét, giải
quyết theo hai quan điểm khác nhau . Đó là con người theo quan điểm duy tâm và
quan điểm duy vật. Trong tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại; các nhà triết học thời
kỳ này, đã xây dựng nên học thuyết triết học về con người hết sức phong phú, đa
dạng, đánh dấu trong lịch sử tư tưởng nhân loại một bước ngoặt nhân bản độc đáo.
Vấn đề con người trong triết học Hy Lạp cổ đại tuy chưa hoàn chỉnh nhưng chúng
ta có thể xem nó là sự khơi nguồn cho một tư duy mới về con người và là động
lực, phương hướng cho triết học, khoa học phương Tây trong hơn hai thập niên
qua.
Triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ xem con người là sản phẩm của thượng đế
sáng tạo ra mọi số phận, nỗi buồn, niềm tin của con người đều do thượng đế sắp
đặt. Trí tuệ của con người thấp hơn trí tuệ anh minh, sáng suốt của thượng đế. Con

người trở nên bất lực, yếu ớt trước cuộc sống nhưng lại an ủi, phải bằng lòng với
cuộc sống tạm bợ trên trần thế vì đó chỉ là quãng đường hành hương đi tìm hạnh
phúc ở thế giới bên kia. Và điều đó đã dẫn đến hậu quả là con người bị thủ tiêu ý
chí đấu tranh, không thể vượt qua mọi gian khổ để giải thoát chính bản thân mình.
Triết học thời kỳ Phục hưng - Cận đại: đây là thời kỳ ca ngợi con người, giải
phóng con người, tự do cá nhân, chủ nghĩa nhân đạo với ước mơ giải phóng người
lao động khỏi chế độ phong kiến, khỏi sự nô dịch của tôn giáo mà thời kỳ này đã
áp đặt con người. Các nhà duy vật trong thời kỳ này đã có những bước tiến mới
trong nghiên cứu con người và các nhà triết học đã cho rằng: con người là từ động

Trang 10


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

vật mà ra chứ không phải là do thần linh hay thượng đế tạo ra. Linh hồn là năng
lực của cảm giác và suy nghĩ của con người.
Triết học Cổ điển Đức: quan niệm của triết học Cổ điển Đức nhìn chung đề
cao vai trò con người, làm cho tư tưởng con người trong triết học phương Tây có
một sự phát triển mới về chất với các nhà triết học nổi tiếng như: Hêghen,
Phơbách.
Hêghen (1770 - 1831) với cách nhìn của nhà duy tâm khách quan. Ông cho
rằng con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối” thông qua quá trình tự ý thức
của con người đã đưa con người trở lại với giá trị của tinh thần, giá trị bản thể và
cao nhất trong đời sống con người. Hêghen cho rằng: tư duy và trí tuệ chỉ có thể
hình thành và phát triển để đạt đến “tuyệt đối” trong quá trình nhận thức và cải tạo
thế giới để biến tự nhiên từ cái đối lập với mình, trở thành cái của mình và đồng
nhất với mình. Ông coi con người vừa là chủ thể nhưng đồng thời lại là sản phẩm

của quá trình phát triển lịch sử nhân loại.
Phơbách (1804 - 1872 ) là một đại biểu xuất sắc nhất và cũng là nhà triết học
duy vật nổi tiếng của nền triết học Cổ điển Đức. Quan điểm duy vật nhân bản là
nét nổi bật trong triết học Phơbách vì ông đặc biệt quan tâm đến con người, coi
vấn đề con người là trung tâm, cốt lõi, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống. Đối lập
với Hêghen - người coi toàn bộ thế giớ hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần
tuyệt đối được hiểu như một lực lượng siêu nhiên. Phơbách cho rằng con người
không phải nô lệ của thượng đế hay “tinh thần tuyệt đối” mà là sản phẩm của tự
nhiên, kết quả của sự phát triển tự nhiên. Con người theo ông là một sinh vật có
hình thể vật chất, ở trong không gian và thời gian, là “cái gương vũ trụ” mà thông
qua đó giới tự nhiên ý thức và nhận thức chính bản thân mình. Con người không
phải do một lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra, mà là sản phẩm cao quý nhất của tạo
hóa, là những con người bằng xương bằng thịt. Và ông còn đặc biệt đề cao năng
lực trí tuệ của con người với tính cách là những cá thể người.
Những quan niệm của Phơbách về con người nhìn một cách tổng quát có thể
nói rằng: Phơbách đã đem lại cho nhân loại một cách nhìn mới mẻ về chính bản
Trang 11


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

thân mình. Các nhà triết học duy tâm Đức đều khẳng định vai trò và vị trí trung
tâm của con người, nhưng chưa có ai chứng minh được nguồn gốc đích thực của
nó. Trái lại, Phơbách đã đưa ra những quan điểm về con người hoàn toàn mới: con
người cũng như xã hội loài người là một thực thể, một bộ phận của tự nhiên và là
kết quả của quá trình phát triển tự nhiên đem lại. Tuy nhiên, ông chưa thấy được
vai trò của các điều kiện kinh tế - xã hội hàng ngày đang chi phối, tác động đến
con người và sự phát triển của xã hội loài người như vốn có của nó. Triết học duy

vật của Phơbách là một trong những nguồn gốc lý luận vững chắc của chủ nghĩa
Mác sau này.
Như vậy, quan niệm về con người trong triết học Cổ điển Đức có những bước
tiến bộ hơn. Con người không phải do một thần linh, thượng đế nào tạo ra mà con
người là sản phẩm của tự nhiên và quá trình phát triển tự nhiên đem lại. Chính vì
thế con người có thể đấu tranh để cải tạo tự nhiên cải tạo xã hội. Các nhà triết học
Cổ điển Đức xem xét sự vật và hiện tương trong mối quan hệ biện chứng.
Nhìn chung quan niệm về con người trong triết học phương Tây mang những
yếu tố tích cực của con người; Triết học phương Tây đã nhìn nhận được khả năng
sáng tạo của con người, xem xét xã hội trong sự vận động và phát triển.
1.1.3. Quan điểm về con người trong triết học Mác-Lênin
Như trên chúng ta đã tìm hiểu trước khi học thuyết Mác ra đời đã có rất
nhiều quan điểm khác nhau về con người và sự ra đời, phát triển của triết học Mác
đã làm thay đổi một cách căn bản, quan điểm nghiên cứu về con người và đây
chính là nét nổi bật trong triết học Mác - Lênin thể hiện tính nhân văn sâu sắc.
Con nguời là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với xã hội.
Vấn đề bản tính sinh vật - xã hội của con người đã được đề cập đến trong
một số tư tưởng triết học trước Mác, tuy nhiên vẫn còn dè dặt chưa đầy đủ và các
nhà triết học vẫn không sao làm nổi bật lên bản chất con người một cách hoàn
chỉnh và khoa học. Và một câu hỏi được đặt ra: Thể xác con người hay xã hội, cái

Trang 12


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

nào trong hai yếu tố quan trọng ? Đến khi triết học Mác - Lênin, trên cơ sở những
căn cứ khoa học mới làm sáng tỏ yếu tố trên.

Triết học Mác khẳng định; vấn đề con người chỉ được giải đáp một cách
đầy đủ và đúng nhất khi nó xuất phát từ quan niệm thống nhất biện chứng giữa hai
nhân tố, trong đó cái xã hội là cái quyết định chi phối cái sinh học, cơ sở sinh học
là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển xã hội. Như chúng ta đã biết, mỗi ngành
khoa học khác nhau có những nghiên cứu về con người trên phương diện đặc thù
của nó nhưng trong triết học thì cách giải thích khoa học và toàn diện nhất về con
người là: bản chất con người mang tính xã hội nhưng trên cơ sở nền tảng của cái
sinh học. Mác đã đưa ra luận điểm: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”(5). Ở đây chúng ta cần phải hiểu bản
chất con người không phải là cái gì có sẵn, hay cái gì nhất thành bất biến, mà bản
chất con người là cái gì đó, được hình thành nên hay bộc lộ ra trong cuộc sống của
nó. Trong cuộc sống, bằng hoạt động của bản thân, con người phải chịu tác động
của các quan hệ xã hội, nhờ đó con người hội nhập vào các quan hệ đó. Toàn bộ
tồn tại khách quan, xung quanh con người tác động vào con người thông qua các
quan hệ xã hội (quan hệ chính trị, quan hệ sản xuất,...). Ngược lại, con người cũng
có tác động trở lại vào tồn tại khách quan (môi trường sinh sống, môi trường tự
nhiên,…) con người bao giờ cũng cùng với những người khác (nhóm, cộng đồng,
giai cấp,…) lao động, học tập, vui chơi, đấu tranh xây dựng; chính trong quá trình
lao động, học tập,…con người thiết lập nên các mối quan hệ xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học
trước đó, vạch ra bản chất của con người từ quan hệ xã hội nhưng không tuyệt đối
hóa mặt xã hội trong con người mà cho rằng con người là thực thể thống nhất của
mặt sinh học và mặt xã hội
Mặt sinh học là toàn bộ quá trình sinh lý diễn ra trong con người như: hô
hấp, bài tiết, biến dị, di truyền, cùng với những quá trình sinh lý diễn ra cũng
giống như một số sinh vật có tổ chức cơ thể tiến hóa cao. Chẳng hạn, quy luật trao
đổi chất giữa cơ thể với môi trường, di truyền,…
Trang 13



GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

Mặt xã hội là các phẩm chất xã hội của con người được hình thành và phát
triển từ các mối quan hệ xã hội trong hoạt động lao động, ngôn ngữ, giao tiếp. Nói
rằng, con người có tính xã hội đó là bởi bản thân hoạt động sản xuất của con người
là hoạt động mang tính xã hội. Trong họat động sản xuất con người không thể tách
rời xã hội và chính tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người khác con vật.
Do đó, mặt sinh học và mặt xã hội của con người thống nhất với nhau trong
sự vận động của bản chất con người. Mặt sinh học là tiền đề, là điều kiện của mặt
xã hội vì dĩ nhiên con người không thể xuất hiện nếu không có mặt sinh học. Nếu
thiếu mặt sinh học thì mặt xã hội không thể tồn tại và biểu hiện ra được. Song, mặt
sinh học trong con người bị biến đổi, chi phối bởi mặt xã hội nên mang tính xã
hội. C.Mác đã cho rằng: “thông qua tính xã hội, tính tự nhiên được thay đổi về
chất và thường gắn liền với quá trình biến đổi của con người về mặt tự nhiên…”(6).
Chúng ta dễ thấy trong quan hệ với cái sinh học, cái xã hội đóng vai trò khép kín,
một mặt hạn chế cái sinh học, làm cái sinh học có tính xã hội, không còn là cái
sinh học thuần túy. Mặt khác, thể hiện tốt nhất khả năng của mình trong quan hệ
với cái xã hội.
Với quan điểm coi con người là một thực thể sinh học – xã hội, triết học
Mác-Lênin đã khắc phục được cả hai khuynh hướng sai lầm trong vấn đề con
người: hoặc là đề cao mặt tự nhiên (sinh học), không thấy vai trò quyết định của
mặt xã hội hoặc là giản đơn con người, tuyệt đối hóa việc giải thích bản chất con
người chỉ hoàn toàn bằng khả năng kinh tế, văn hóa,…mà không điếm xỉa tới yếu
tố sinh học, không thấy được tiền đề tự nhiên – mặt sinh học của con người. Như
thế, khoa học về con người dựa trên nhận thức đúng đắn bản chất của nó đòi hỏi
phải xem xét con người trong sự thống nhất, liên hệ, tác động qua lại giữa mặt
sinh học và mặt xã hội, trong đó mặt xã hội chi phối và thể hiện ra bằng tư cách
chủ thể của con người trong xã hội và đó cũng là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong

công tác giáo dục với mục đích vì con người, phục vụ con người. Bởi vì, “Tiền đề
đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên sự tồn tại của mỗi cá nhân con
người sống ”(7).
Trang 14


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

Con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể lịch sử
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố
hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà
hơn nữa, con người còn đóng vai trò chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch
sử xã hội loài người.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không có sự tồn tại
con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa
cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục,… cái học
thuyết ấy quên rằng chính con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân giáo dục
cũng cần được giáo dục”(8). Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”
Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “thú vật cũng có một sự phát triển dần dần của chúng
cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng tạo
ra và trong chừng mực mà chúng tham gia vào việc tạo ra lịch sử ấy thì điều đó
diễn ra mà chúng không hề biết và cũng không do ý muốn của chúng. Nguợc lại,
con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con
người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu” (9)
Như vậy, với tư cách và thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động và phát

triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật, dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong
phú thêm giới tự nhiên, tái tạo một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính
bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại
của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội(10 ).
Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với
mục tiêu và nhu cầu của con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì
Trang 15


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có tồn tại của toàn bộ quy luật
lịch sử xã hội loài người. Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể,
trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Một trong những vấn đề có
tính chất cốt lõi của việc nghiên cứu con người với tư cách vừa là sản phẩm vừa là
chủ thể lịch sử. Trong triết học Mác cũng chỉ ra rằng: không chỉ hoàn cảnh tạo ra
con người mà chính con người cũng tạo ra hoàn cảnh, sao cho phù hợp với nhu
cầu, lợi ích, mục đích của mình. C.Mác nói rằng: “Xã hội sản xuất ra con người
với tính cách con người như thế nào thì cũng sản xuất ra con người như thế ”(11 ).
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
con người
1.2.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người.
Hồ Chí Minh không nói lý luận nhiều về con người. Người không dùng
những thuật ngữ mà những người dân bình thường khó hiểu hoặc không hiểu nổi.
Có nhà nghiên cứu nước ngoài đã nhận xét, Hồ Chí Minh là người lý giải mọi vấn

đề lớn bằng một thứ ngôn ngữ rất bình dị, đã làm cho mọi vấn đề khó hiểu trở
thành dễ hiểu đối với mọi người dân Việt Nam. Người đã hóa thân vào quần
chúng, nâng trí tuệ của quần chúng lên ngang tầm nhiệm vụ cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn,
được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung
tư tưởng của người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện. Con người
không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo người là phải: làm
cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất
dần đi. Người yêu câu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt
đẹp trong con người.
Ngay khi nước ta vừa giành được độc lập sau bao nhiêu năm nô lệ, người
đã khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng.

Trang 16


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”(12).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh con người được nhìn nhận vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Tư tưởng đó được
thể hiện rõ trong lý luận của Người về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong kháng chiến, Người nhấn mạnh là cần phải
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, phát huy tính sáng tạo của quần chúng nhân
dân, để kháng chiến và kiến quốc. Trong xây dựng xã hội chủ nghĩa bao giờ

Người cũng coi trọng những yếu tố khách quan vì những yếu tố này luôn gắn liền
và tác động đến con người. Người khẳng định: Muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội trước tiên cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Đó là
những con người vừa hồng vừa chuyên, có phẩm chất đạo đức cách mạng cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân và
ra sức rèn luyên đạo đức cách mạng như: Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong(13).
Hồ Chí Minh luôn hướng tới con người với tấm lòng yêu thương, trân
trọng. Người có niềm tin rất lớn vào con người. Người đã từng nói: “Hiền dữ phải
đâu là tính sẵn phần nhiều do giáo dục mà nên ”(14). Lòng tin đó được hình thành ở
Người từ những ngày cắp sách tới trường và phát triển lên trong thời gian bôn ba
tìm đường cứu nước. Niềm tin đó càng được khẳng định khi Người bắt gặp chủ
nghĩa Mác – Lênin vì đó chính là con đường để giải phóng chúng ta. Người đã
thâm nhập vào thế giới của những con người dưới đáy xã hội, tìm hiểu họ và cũng
ở nơi đó, Người càng hiểu bản chất sâu sắc bản chất thật sự của khẩu hiệu mị dân
mà bọn thực dân đang hô hào trên các nước thuộc địa: Tự do, bình đẳng, bác ái,
càng tin vào con người, tin vào quần chúng bao nhiêu thì tình thương yêu của
Người đối với họ càng to lớn bấy nhiêu. Càng yêu dân, Người càng chăm lo tới
nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục vì người
khẳng định rằng: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, Người ước mong dân tộc ta
phải sánh vai cùng với cường quốc năm châu, đất nước giàu đẹp, nhân dân no ấm.
Trang 17


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh toàn dân, bồi dưỡng, đào
tạo và phát huy mọi năng lực của dân, tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản

trong toàn bộ tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại với tư cách vừa là cá nhân, vừa
là thành viên của gia đình và cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá
nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: “Chữ người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước.
Rộng nữa là cả loài người”(15). Tư tưởng đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ
nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã
hội, cũng như mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến
nhu cầu, lợi ích con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con
người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như
những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính
tích cực của họ sẽ không phát huy được. Con người, với tư cách là những cá nhân,
không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân
tộc với loài người trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn hướng về con người, Người yêu thương
con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao
động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, “lòng thương yêu
nhân dân, thương yêu nhân loại” là “không bao giờ thay đổi”. Người có niềm tin
lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vô tận của Hồ Chí
Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình thành rất
sớm… Nếu như tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân” thì
các nhà nho phong kiến xưa mặc dù có những mặt tích cực “lấy dân làm gốc”, mặc
dù cũng chủ trương “khoan thư sức dân”, những quan điểm của họ chỉ dừng lại ở
chỗ coi việc dựa vào dân như một kế sách, một phương tiện để thực hiện việc “trị
nước”, “bình thiên hạ”. Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là

Trang 18



GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

những người yêu nước nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và
đầy đủ về nhân dân, chưa có niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Tư tưởng về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của “cái
cá nhân ” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá
nhân với cộng đồng, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối
ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải
phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận
điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những
luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đấu tranh
giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng
thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân.
Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng và trở thành một
sức mạnh vật chất to lớn và là một nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự
nghiệp cách mạng ấy.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động. Quan điểm về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư
tưởng của Hồ Chí Minh về con người. Sự nhất quán ấy được thể hiện thông qua
đường lối lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư
tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt
Nam đang là trung tâm trong “Chiến lược phát triển toàn diện ”; đang là động lực
của công cuộc xây dựng xã hội với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội ”(16).
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người
Kế thừa truyền thống của dân tộc, xem con người là vốn quý giá nhất, Đảng
ta luôn đặt con người ở vị trí hàng đầu. Từ khi có đường lối đổi mới, con người

Việt Nam được phát huy lên tầm cao mới. Con người là trung tâm của mọi sự phát

Trang 19


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

triển. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển chính là lấy con người làm
tiền đề và điều kiện cơ bản để đi vào công cuộc đổi mới đất nước
Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, đang đặt ra những vấn đề mới mẻ về
con người Việt Nam: làm thế nào để phát huy tiềm năng của con người vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội để đưa đất nước tiến lên là một nước hiện đại,
văn minh; làm thế nào để từng bước đem lại hạnh phúc cho mỗi con người ngay từ
ngày hôm nay? Đó là vấn đề Đảng, Nhà nước, toàn dân quan tâm. Con người là
sản phẩm của xã hội nhưng cũng chính hoạt động của con người sáng tạo nên xã
hội. Sự hình thành và phát triển con người gắn với sự hình thành và phát triển xã
hội trong thời đại mới.
Từ năm 1986 trong quá trình khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
đất nước, cùng với việc đề ra những đường lối kinh tế, chính trị, để đưa sự nghiệp
đổi mới đến thắng lợi Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra những chính sách
nhằm “phát triển con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích cách
mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước”. Để thực hiện mục tiêu đó nguyên Tổng bí
thư Đỗ Mười nhấn mạnh: Phải xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, nhằm phát
triển con người toàn diện, xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập mối
quan hệ tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con người trong sản xuất và đời
sống, để từ đó làm tăng gấp bội sự phát triển kinh tế - xã hội. Con người phát triển
cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo

đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã rất chú ý đến vấn đề
con người trong đường lối chiến lược của mình. Quan tâm đến con người, phát
huy sức mạnh con người để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người là sự nghiệp cao cả của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi vì con người là
vốn quý nhất. Cuộc chiến đấu và chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước, cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trang 20


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

chung quy lại là thắng lợi vì con người. Trong hội nghị lần thứ tư Khóa VII Đảng
ta cho rằng: “con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là
mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”.
Cùng với những quá trình đổi mới về kinh tế và đổi mới chính trị, Đảng ta
có những nhận thức đúng đắn và càng rõ ràng hơn về nhân tố con người, thể hiện
tập trung nhất ở quan điểm coi con người là vốn quý giá nhất; nâng cao đời sống
vật chất và tin thần của con người, phát triển toàn diện con người là mục tiêu cao
cả nhất; do vậy, sự phát triển con người nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của Đảng, Nhà nước và toàn
bộ hệ thống chính trị.
Kế thừa các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về xây
dựng con người mới trong thời kỳ cách mạng trước đây, Đại hội VI (1986) của
Đảng có những nhận thức về chiến lước xây dựng con người với những chiến lược
phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ: “chính sách
xã hội bao chùm mọi mặt của đời sống con người; điều kiện lao động sinh hoạt,

giáo dục văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc,… cần thể
hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã
hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước của Đai hội VII năm 1991, Đảng đã
chỉ ra: Trong điều kiện hiện thời, cần xây dựng con người theo tiêu chuẩn nhân
cách công dân “Đó là con người có ý thức, có sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn
hóa và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính ”(17).
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xuất
phát từ quan điểm khoa học của học thuyết Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng
nước ta để đề ra đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên
cơ sở nâng cao ý thức tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ
của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện
pháp thích hợp, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó được thể hiện
Trang 21


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

trong cương lĩnh xây dựng đất nước; trong thời kỳ quá độ, Đảng ta đã đặt con
người vào vị trí chủ thể của sự nghiệp xây dựng chế độ mới và nền kinh tế mới,
nền văn hóa mới.
Vì vậy, đòi hỏi con người phải có tính tự giác cao biểu hiện ở tinh thần sáng
tạo, nhạy cãm, nắm bắt được những điều kiện thuận lợi mà thời đại đã tạo ra để
đưa đất nước thoát khỏi tình trạng chậm phát triển và tiến kịp trào lưu hiện đại hóa
trên thế giới.
Chăm lo con người và phát triển nguồn nhân lực con người để phục vụ quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta. Hội

nghị Trung ương lần thứ tư Khóa VII (1993) đã ra năm quyết định quan trọng:
nghị quyết về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ trong những năm trước mắt đó
là: Nghị quyết về sự nghiệp giáo dục – đào tạo; Nghị quyết về những vấn đề cấp
bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; Nghị quyết về chính
sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Nghị quyết về thanh niên trong thời kỳ mới.
Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành nhiều nghị quyết tập trung vào chủ đề xây
dựng con người và phát huy vai trò con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Trong sự quan tâm đến chiến lược xây dựng và phát triển con người nói
chung, Đảng ta đặc biệt chú ý đến công tác thanh niên. Nghị quyết Trung ương lần
thứ tư khóa VII nhấn mạnh: công tác thanh niên là vấn đề sống còn dân tộc, là một
nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Đúng như Bác Hồ đã nói: “Vì
lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(18),
vì vậy, vấn đề thanh niên phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy
nhân tố và nguồn lực con người.
Hội nghị Trung ương V khóa VII của Đảng (1998) đã xác định: nhiệm vụ xây
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính cụ
thể sau: có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung; có lối
sống lành mạnh, nếp sống văn minh; lao động chăm chỉ với lương tâm nghề

Trang 22


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

nghiệp; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ
thẩm mỹ và thể lực.
Nghị quyết hội nghị lần thứ II năm 1996 và hội nghị lần thứ V, năm 1998

Khóa VIII đều nhấn mạnh đến những phẩm chất cơ bản của những con người mới
mà chúng ta cần xây dựng, để phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đó là những con người phát triển toàn diện cả về đức và tài,
phát triển thể lực và trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, có kỹ năng lao động giỏi, có ý chí
và bản lĩnh trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Điều càng nhấn mạnh là chúng ta cần
phải quan tâm nhiều hơn nữa đến giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức, phẩm chất
và nâng cao tính công dân, cho đội ngũ lao động mới tạo điều kiện cho họ thực
hiện đầy đủ quyền lợi, trách nhiệm của công dân với chế độ xã hội chủ nghĩa,
trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Cần kế thừa và phát huy những giá trị dân tộc,
đồng thời phê phán những yếu tố lạc hậu, tiêu cực, tạo môi trường thuận lợi để xây
dựng và phát triển con ngươi.
Luật giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 11/12/1998 đã ghi rõ: “Mục
tiêu giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện đao đức, trí tuệ, thẩm mỹ,
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(19).
Hội nghị Trung ương X khóa IX (2004 ), trong lĩnh vực giáo duc - đào tạo,
Đảng ta nhấn mạnh: “coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm,
nghĩa vụ công dân, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống, nếp
sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai mỗi
người và tiền đồ của đất nước; bồi dưỡng năng lực phát huy giá trị văn hóa dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”(20).
Đối với Việt Nam, trong quá trình đổi mới hơn 20 năm qua theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm xuyên suốt của Đảng Cộng sản và Nhà nước
Việt Nam là: Lấy con người làm trung tâm, phát triển kinh tế vì con người; tăng
trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
Trang 23


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng


SVTH: Lê Văn Lợi

triển và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, giáo dục; xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng
cao dân trí, tăng cường giáo dục và đào tạo con người, bảo vệ và cải thiện môi
trường.

Trang 24


GVHD: Th.s Nguyễn Đại Thắng

SVTH: Lê Văn Lợi

Chương 2

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU GIẢI PHÓNG CON
NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, quần chúng lao
động luôn ước mơ, mong muốn được sống trong một xã hội bình đẳng, công bằng,
có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Vì vậy, họ liên tục đấu tranh để thực hiện ước
mơ, khát vọng đó. Nhiều tư tưởng tiến bộ và nhân đạo hình thành và phát triển để
dẫn dắt cuộc đấu tranh của quần chúng. Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại sự áp bức bóc lột của
giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn.
Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được đòi hỏi cấp bách đó.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa có phê phán những thành tựu khoa học và

những giá trị tư tưởng của nhân loại đạt được trước đó, bằng lao động khoa học và
sáng tạo hai ông đã phân tích xã hội tư bản, tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên
học thuyết cách mạng, khoa học và nhân đạo để giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội, giải phóng con người. Trong học thuyết của mình, hai ông đã chứng minh sự
sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và hình thành một hình thái kinh tế - xã hội
mới trong tương lai đó là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa
xã hội.
Ở Việt Nam, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, với truyền
thống yêu nước, nhân dân ta đã kiên cường đứng lên đấu tranh chống thực dân
Pháp giành lại độc lập cho dân tộc. Các sĩ phu yêu nước dưới ngọn cờ “Cần
vương” mong giành lại độc lập cho dân tộc khôi phục chế độ phong kiến, đã bị

Trang 25


×