Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

PHÁT HUY NHÂN tố CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa – HIỆN đại hóa ở TỈNH TRÀ VINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (890.91 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

-----o0o-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH TRÀ VINH

Giáo viên hướng dẫn:
Th.s: ĐINH NGỌC QUYÊN

Sinh viên thực hiện:
Họ và tên: NGUYỄN THỊ HỒNG ĐẬM

Chuyên ngành: SP GDCD
MSSV: 6075688

Cần Thơ, 04/2011


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 4
1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 5
5. Kết cấu của luận văn .............................................................................................. 5


PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI ............................................... 6
1.1 Quan điểm triết học trước Mác về con người ................................................ 6
1.1.1 Quan niệm về con người trong triết học phương Đông ................................. 6
1.1.2 Quan niệm về con người trong triết học phương Tây ................................... 8
1.2 Quan điểm về con người và bản chất con người của chủ nghĩa Mác – Lênin.10
1.2.1 Vấn đề con người và bản chất con người .................................................... 10
1.2.2 Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ............................................................. 14
1.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về con người ...... 15
1.3.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người .................................................. 15
1.3.2 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người.................................. 18

1.4 Nhận thức và vận dụng lý luận về con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. ở nước ta ................................................................................…21
1.4.1 Vai trò của nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa23
1.4.2 Mục tiêu con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ............... 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH PHÁT HUY NHÂN TỐ CON
NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
TRÀ VINH.............................................................................................................. 28
2.1 Một số nét khái quát về tỉnh Trà Vinh ............................................................ 28
2.1. 1 Về vị trí địa lý ........................................................................................... 28
2.1.2 Về tài nguyên thiên nhiên............................................................................ 30
2.1.3 Về cơ sở hạ tầng ......................................................................................... 33
2.1.4 Nguồn nhân lực ........................................................................................... 33

1


2.1.5 Đánh giá tổng quát những tiềm năng và khả năng phát huy nhân tố con
người của tỉnh Trà Vinh ........................................................................................ 36

2.2 Chủ trương, định hướng phát triển nhân tố con người trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Trà Vinh.............................................................. 38
2.2.1 Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nhân tố con người và sự phát
triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Trà Vinh hiện nay .. 38
2.2.2 Nguồn lực con người và sự phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Trà Vinh hiện nay ................................................... 42
2.3 Thực trạng về tình hình nhân tố con người ở Trà Vinh thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đai hóa ..................................................................................................... 43
2.3.1 Những thành tựu đạt được trong việc phát huy nhân tố con người .............. 43
2.3.2 Những hạn chế............................................................................................... 59
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT
HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
– HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH TRÀ VINH ............................................................... 53
3.1 Phương hướng, nhiệm vụ nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở tỉnh Trà Vinh ................................................... 53
3.1. 1 Thực hiện công bằng trong xã hội, lĩnh vực giáo dục đào tạo để tạo điều
kiện cho mọi người học hành ................................................................................ 51
3.1.2 Tăng cường công tác quản lý của nhà nước, khắc phục bệnh thành tích và
tiêu cực trong giáo dục ............................................................................................. 53
3.1.3 Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trên cơ sở phát triển qui mô một
cách hợp lý ............................................................................................................... 54
3.1.4 Chú trọng đến công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong cán bộ
Đảng viên và cả nhân dân ........................................................................................ 54
3. 2 . Một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người ở Trà Vinh ................ 56
3.2.1 Xây dựng kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo ............................................................................................................... 55
3.2.2 Tăng cường công tác quản lý của nhà nước, khắc phục bệnh thành tích và
tiêu cực trong giáo dục ............................................................................................. 57


2


3.2.3 Nâng cao hiệu quả của khoa học công nghệ nhằm tạo thêm nguồn nhân lực
có trình độ về khoa học công nghệ cho tỉnh nhà ....................................................... 58
3.2.4 Tiếp tục xây dựng hoàn thiện và triển khai thực hiện đồng bộ có hiệu qủa
các chính sách xã hội nhằm phát huy hết tiềm năng nhân tố con người .................... 59
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 63

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Vấn đề con người và sự phát triển của con người luôn giữ một vị trí vô
cùng quan trọng và là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội khác nhau
mà đặc biệt là khoa học xã hội nhân văn. Nhưng chỉ có trong triết học mới có
nhận thức quan niệm toàn diện về con người.
Hòa cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới thì nước ta đang ở giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ta đã xác định “ phát huy
nguồn lực con người là điều kiện tiên quyết, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế đã chứng minh rằng
muốn nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển vững mạnh thì đòi hỏi phải có
nguồn nhân lực có trình độ cao về cả chuyên môn và tay nghề. Mà đất nước ta đi
lên từ một nước nghèo nàn lạc hậu thì vấn đề này vô cùng cấp thiết. Chính vì vậy
để đưa đất nước đi lên và tạo đà phát triển ở những năm tiếp theo của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà quan trọng nhất là phát triển con người, nâng
cao chất lượng của người lao động. Cùng với xu thế đổi mới của cả nước tỉnh Trà

Vinh là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, chính thức được tái lập đầu
năm 1992. Trong những năm qua cùng với quá trình đổi mới tỉnh cũng đã đạt
được những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế xã hội. Nhưng nhìn chung so với
các tỉnh trong khu vực thì vẫn chưa phát triển kịp thời mà nguyên nhân sâu sa là
do nguồn nhân lực còn mỏng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được tình hình
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Trên cơ sở nhận thức một cách sâu sắc vị trí vai trò ý nghĩa chiến lược của
việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ hiện nay. Để đưa sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà tiến đến thành công thì cần phát
huy hơn nữa nhân tố con người. Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của nhân
tố con người trong quá trình phát triển đất nước nói chung và ở tỉnh Trà Vinh nói
riêng. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước
em đã chọn đề tài “ Phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Trà Vinh ” để làm luận văn tốt nghiệp”.
4


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là nhân tố con người, nguồn lực con người trong phạm
vi địa bàn tỉnh Trà Vinh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích: Góp phần làm sáng tỏ vai trò của nhân tố con người và việc phát
huy nhân tố con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiệm vụ: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về con người.
Phân tích thực trạng tình hình phát huy nhân tố con người ở Trà Vinh trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Trà Vinh.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các phương pháp: Phân
tích và tổng hợp, logic và lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ
đề tài đặt ra.

5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận danh mục và tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương 9 tiết.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI.
1.1 Quan điểm triết học trước Mác về con người.
Nghiên cứu con người vốn không phải là vấn đề mới mẻ. Đó là đối tượng của
nhiều ngành khoa học, nhất là các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Từ triết học
cổ điển đến triết học cận hiện đại, từ triết học thực trạng đến triết học hiện sinh, từ
tâm lý học hành vi đến tâm lý học Phrớt….. vấn đề con người luôn luôn là đối tượng
nghiên cứu của triết học và tâm lý học nói chung. Chính vì vậy mà những vấn đề
triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Đó là
những vấn đề về bản tính, bản chất con người. Mối quan hệ giữa con người và thế
giới. Con người có thể làm gì để giải phóng mình đạt tới tự do. Đây cũng chính là
nội dung cơ bản của nhân sinh quan – một nội dung cấu thành thế giới quan của triết
học.
Tùy theo điều kiện lịch sử mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời
tùy theo góc độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết học

trong lịch sử có những phát hiện đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con
người. Mặt khác trong khi giải quyết những vấn đề trên mỗi nhà triết học, mỗi
trường phái triết học có thể đứng trên lập trường thế giới quan, phương pháp luận
khác nhau: duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu hình.
1.1.1Quan niệm về con người trong triết học phương Đông.
Quan niệm về con người trong triết học phương Đông được hình thành từ rất
sớm và được thể hiện một cách có hệ thống từ thế kỷ VI trước Công nguyên. Nội
dung các quan điểm này rất đa dạng, song những vấn đề mà người phương Đông đề
cập đến là những vấn đề thuộc nguồn gốc, bản tính của con người, đạo làm người và
mẫu hình người lý tưởng.
Trước hết là tư tưởng về con người trong nền triết học Trung Hoa, trong suốt
chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn
đề được quan tâm hàng đầu luôn xem con người là đối tượng về mặt bản thể lấy
con người làm trung tâm mục tiêu nhận thức, đề cao tinh thần nhân văn, khẳng định
giá trị tồn tại tích cực của con người đối với chính bản thân mình và đối với thế giới
bên ngoài. Do triết học gắn với những vấn đề về đạo đức, chính trị xem mặt xã hội

6


của con người là trung tâm nghiên cứu, các triết gia cổ đại Trung Quốc đặc biệt
quan tâm đến vận mệnh con người. Số phận con người không thể cưỡng lại “mệnh
trời”
Bên cạnh đó khi nói đến con người và quan hệ xã hội của con người triết học
cổ đại Trung Quốc lấy đạo đức luân lý làm nội dung chủ yếu. Đạo đức luân lý ở đây
là thuộc tính đẳng cấp xã hội của con người quyết định được bản tính con người là
thiện hay ác. Muốn luân lý được hiện thực hóa điều căn bản quyết định là mỗi con
người phải “ tu thân dưỡng tính”, chứ không thể nhờ vào ai đựợc. Triết học cổ đại
Trung Quốc khi bàn về con người đã đưa ra các quan điểm rất phong phú và đa
dạng. Các quan niệm về “nhân”, “lễ”, “nghĩa”, “chính danh”, “tính thiện”, “tính

ác”,….đã được lý giải xâm nhập, tiếp thu lẫn nhau. Đều này đã tạo nên tính hòa
đồng tế nhị để chúng ta có thể phân biệt vô thần hay hữu thần, duy tâm hay duy vật.
Như vậy có thể nêu lên một cách tổng thể rằng về phương diện nghiên cứu con
người, thì triết học cổ đại Trung Quốc đã tạo ra những giá trị và những ảnh hưởng
không thống nhất. Một mặt nó đặt cơ sở tư tưởng cho những giá trị tích cực nhất
định trên một số lĩnh vực văn hóa truyền thống, mặt khác nó là một trong những
nguyên nhân chủ yếu tạo ra các độc tố của hệ tư tưởng thống trị phong kiến nói
riêng và ý thức xã hội trong xã hội phong kiến nói chung.
Khác với nền triết học Trung Hoa các tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại gồm có
triết học chính thống và triết học không chính thống đã thể hiện những tư tưởng
khác nhau về con người.
Các quan niệm về con người trong triết học Ấn Độ cổ đại không chỉ dừng lại ở
những khái niệm những tín điều khô khan mà nó phong phú sinh động hơn được thể
hiện trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân mà chủ yếu là tìm ra con
đường giải thoát cho con người .Vì vậy sự phản ánh triết học về con người đã trở
nên đa dạng và nó có thể được mở rộng ra thêm nữa. Con người là điểm mốc xuất
phát và các mục đích cuối cùng là “ giải thoát”, nó mang một ý nghĩa nhân văn vô
cùng sâu sắc để từ đó hướng con người đến sự giác ngộ đây là một trong những ý
nghĩa vô cùng to lớn của triết lý đạo phật về con người.
Mục đích giải thoát khiến tất cả các nhà triết học đều coi trọng và đều đặt lên
hàng đầu việc giải quyết vấn đề con người. Vì vậy quan niệm về con người đã được
các nhà tư tưởng của các trường phái triết học Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái
7


đạo phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm
chiều sâu triết lý siêu hình đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản
tính vô ngã vô thường và tính thiện của con người trên con đường truy tìm sự giác
ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học đạo phật.
Nhìn chung quan điểm về con người trong các học thuyết triết học phương

Đông thể hiện rất phong phú nhưng đều mang nặng tính duy tâm. Về cơ bản các học
thuyết đã lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống,
song nội dung các nguyên tắc các chuẩn mực đạo đức quan điểm về bản tính con
người, đạo làm người hình mẫu con người lại rất đa dạng chứa đựng những tư tưởng
giống nhau, khác nhau và thậm chí đối lập nhau. Tất cả những tư tưởng này đều tồn
tại lâu dài trong lịch sử và giữ vai trò nền tảng mà trên đó các thế hệ sau tiếp tục
hoàn thiện để thể hiện quan điểm của mình.
1.1.2 Quan niệm về con người trong triết học phương Tây.
* Tư tưởng về con người trong triết học thời cổ đại
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ cổ đại HiLạp đã trãi qua
giai đoạn trung cổ, phục hưng và cận đại. trong triết học Hilạp cổ đại vấn đề con
người thì nó đã được bộc lộ rõ cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm. Nhìn chung các nhà triết học theo lập trường duy vật đã lựa chọn giác độ
khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên quan.
Ngay từ thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất
vật chất tự nghiên của con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì
thần bí đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Đêmôcrit (
khoảng 460-370 TCN) cho rằng cuộc sống không phải do thần thánh tạo ra mà được
cấu tạo bởi các nguyên tử. Động vật khác thực vật ở chổ là chúng có linh hồn cho
nên chúng mới hoạt động được, còn linh hồn của con người được cấu tạo bằng
nguyên tử khi kết hợp với thể xác thì tạo nên sự vận động, ông cho rằng nếu thể xác
mất đi thì linh hồn cũng mất theo.
Nhà triết học Platôn ( 427- 347) thì cho rằng tất cả kể cả con người đều bắt
nguồn từ “thế giới ý niệm”, đó chính là cái “ tồn tại chân chính”. Những vật thể cảm
tính chỉ là cái bóng của “ thế giới ý niệm” . Sau khi thể xác chết, linh hồn bất tử
thoát khỏi tù ngục của thân thể về với “ thế giới ý niệm”.

8



Tóm lại vấn đề con người đã được xem xét, giải quyết theo quan niệm duy tâm
hay duy vật trong tư tưởng triết học HiLạp cổ đại. Các nhà triết học HiLạp đã xây
dựng nên nền triết học hết sức phong phú, đa dạng đã đánh dấu trong lịch sử tư
tưởng nhân loại một bước ngoặt nhân bản độc đáo.
* Tư tưởng về con người trong triết học Tây Âu thời kỳ Trung Cổ và thời kỳ phục
hưng – cận đại
Tư tưởng về con người trong triết học Tây Âu thời kỳ Trung Cổ và thời kỳ
Phục Hưng – Cận đại đã có những bướt phát triển nhất định, còn quan niệm về con
người thì có những khởi sắc theo hướng tiến bộ. Triết học thời kỳ này đã chứng
minh sức mạnh vĩ đại của con người, đề cao vai trò thực tiễn và xem con người là
“thước đo tất thảy mọi vât”.
Nét nổi bật trong triết học thời phục hưng và cận đại là sự phủ nhận quyền lực
của đấng sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề cao vai trò của lý trí, đề cao
các giá trị và tư tưởng về con người.
Triết học thời phục hưng và cận đại không chỉ ảnh hưởng tích cực đến sự phát
triển của triết học sau này mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều cuộc cách mạng nổ
ra ở Tây Âu và trên toàn thế giới.
Tiêu biểu là Phranxit Bêcơn (1561- 1626) coi thể xác con người là sản phẩm của
tự nhiên, quan niệm con người là sản phẩm của tạo hóa và gắn liền với tự nhiên.
Ông đánh giá cao vai trò của khoa học và triết học đối với việc phát triển đất nước
và con người. Theo ông mục đích của xã hội là nhận thức các nguyên nhân và mọi
sức mạnh bí ẩn của các sự vật để mở rộng sự thống trị của con người đối với tự
nhiên trong chừng mực con người có thể làm được.
Rơnê Đêcâctơ (1596- 1650) ông cho rằng triết học là thể hiện sự thông thái của
con người cả trong công việc và nhận thức, có nhiệm vụ xây dựng những nguyên lý
phương pháp luận cho các khoa học khám phá ra chân lý và có thể giúp con người
làm chủ giới tự nhiên.
* Tư tưởng về con người trong triết học cổ điển Đức.
Trong triết học cổ điển Đức có một đặc điểm nổi bật là đã đề cao vai trò tích
cực của con người, con người được hiện diện như là chủ thể đồng thời là sản phẩm

hoạt động của chính mình.

9


Theo Phơ Bách (1804-1872) con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của
sự phát triển của tự nhiên. Giữa con người và tự nhiên nằm trong thể thống nhất hữu
cơ không thể tách rời. Trong mỗi con người cụ thể là một thể thống nhất giữa vật
chất và tinh thần. Ông khẳng định rằng chính thể xác của con người với tất cả những
phẩm chất của nó là chủ thể là bản chất con người. Vì vậy nhiệm vụ của triết học là
phải mang lại cho con người một quan niệm mới về chính bản thân mình, là tạo ra
những điều kiện để cho con người được hưởng hạnh phúc. Do quan niệm duy tâm
nên ông chỉ thấy sự tồn tại của con người trong mối quan hệ với tự nhiên chứ không
hề xem xét mối quan hệ xã hội chi phối cuộc sống con người .Cho nên con người
trong triết học của ông vẫn là con người trừu tượng.
Theo Can-Tơ ( 1724- 1804) xuất phát từ quan niệm cho rằng triết học phải đem
lại cho con người một cơ sở thế giới quan mới, phải vạch ra được các nguyên tắc cơ
bản của cuộc sống con người, ông cho rằng nhiệm vụ của triết học là phải xác định
cho được bản chất của con người, phải giải quyết những vấn đề mà cuộc sống con
người đặt ra trên lĩnh vực lý luận và thực tiễn. Ông cho rằng quyền tư hữu gắn liền
với bản chất con người, nó mang tính tự nhiên, là thiêng liêng nhất và bất khả xâm
phạm.
Nhìn chung các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mắcxít còn có một hạn
chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về
con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng
về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh xã
hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Những hạn
chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết
học Mác- Lênin về con người.


1.2 Quan điểm về con người và bản chất con người của chủ nghĩa Mác –
Lênin.
1.2.1 Vấn đề con người và bản chất con người.
Vấn đề con người đã được nghiên cứu một cách thấu đáo và giữ một vị trí hết
sức quan trọng trong chủ nghĩa Mác. Con người ở đây là con người cụ thể, con
người hiện thực với bản chất của nó là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Trên cơ sở quan điểm duy vật triệt để và phương pháp luận biện chứng, Các Mác
và Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặc trong việc nhận thức bản chất con người. Các
10


ông xuất phát từ con người thực tiễn, con người cải tạo thế giới và thông qua hoạt
động vật chất của con người. Như vậy các ông không xem xét bản chất con người
một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và
con người. Con người cũng sống dựa vào tự nhiên như mọi sinh vật khác. Nhưng sở
dĩ con người trở thành con người được chính là ở chổ nó không chỉ sống dựa vào tự
nhiên, Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn thành
người là nhờ có lao động. Cho nên có thể nói quá trình con người cải tạo tự nhiên
cũng là quá trình con người trở thành con người.
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội, bởi vì
con người là một thực thể sống và có sự trao đổi chất với môi trường xung quanh và
còn có những nhu cầu vật chất như: ăn, mặc, ở và còn có những biến đổi về tâm sinh
lý. Nhưng mỗi cơ thể con người đều tuân theo quy luật của tự nhiên được sinh ra,
tồn tại, trưởng thành, già và chết đi. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của
con người là giới tự nhiên, cũng do đó bản tính tự nhiên của con người bao hàm
trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người
là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy có thể nói giới tự
nhiên là thân thể vô cơ của con người, là kết quả của quá trình phát triển và tiến hóa
lâu dài của môi trường tự nhiên.
Các Mác đã nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn

bộ tính hiện thực của nó mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. Có thể
phân biệt con người với súc vật bằng ý thức bằng tôn giáo. Bản thân con người bắt
đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình, đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình như thế con người đã gián tiếp sản
xuất ra chính đời sống vật chất của mình.
Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào giới tự nhiên làm
biến đổi giới tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người
làm cho con người khác con vật “ bản chất con người không phải là cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội”. Đều này cho thấy khi nói đến quan điểm về con
người trong triết học Mác đã giải quyết một cách triệt để đã làm sáng tỏ những vấn
đề xoay quanh con người.
11


Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người khi phê phán quan
điểm của Phơ bách: “ Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng không có con người trừu tượng thoát ly mọi điều
kiện hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống trong một
điều kiện cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó bằng
hoạt động thực tiễn của mình con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để
tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ
xã hội đó ( quan hệ giai cấp, dân tộc…) con người mới bộc lộ bản chất xã hội của
mình.
Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ từng hình thái quan hệ xã hội
riêng biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ,
qua từng thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang, chiều dọc

lịch sử. Các quan hệ xã hội này nó quy định bản chất của con người bao gồm cả
quan hệ hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống, bởi trong lịch sử của mình con
người phải bắt buột kế thừa di sản của những thế hệ trước đó đã để lại cho họ. Trong
lĩnh vực văn hóa tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con người vươn lên, tuy
nhiên cũng có những truyền thống đè nặng lên con người đang sống. Chính vì vậy
mà khi xem xét bản chất con người không được tách rời hiện tại và quá khứ mà phải
xem xét cả hiện tại lẫn quá khứ có như vậy thì chúng ta mới nhìn nhận đúng bản
chất của con người.
Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong chỉnh thể
cụ thể phong phú, đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất con người có khác biệt.
Bản chất của một con người cụ thể là tổng hòa các quan hệ xã hội vốn có của con
người đó và quy định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó.
Còn hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngoài là những biểu hiện bản chất của họ.
Sự thể hiện bản chất của con người qua hàng loạt mâu thuẩn giữa cá nhân và xã hội,
giữa bản năng sinh vật và hoạt động ý thức, giữa di truyền tự nhiên và văn hóa xã
hội, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài….Theo đó thì bản chất con người thể hiện ra
như một xu hướng chung.

12


Con người là một thực thể sinh vật xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn con
người là biến đổi đời sống xã hội đồng thời cũng làm biến đổi bản thân mình. Như
vậy bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng mà là hiện thực, không phải
là các vốn có trong mỗi cá thể riêng biệt mà là tổng hòa của toàn bộ quan hệ xã hội.
Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con người.
Khi các quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hay muộn bản chất của con người cũng
có sự thay đổi. Như vậy bản chất của con người không phải được sinh ra mà được
sinh thành, nó hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan hệ
xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế.

Quan điểm của C.Mác cho thấy bản chất con người hình thành và thể hiện ở
những con người hiện thực. Đấy là những con người cụ thể, sống trong những điều
kiện cụ thể mà ở đó những mặt khác nhau tạo nên bản chất của con người sẽ được
bộc lộ ở những mức độ cụ thể. Tấc cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành
nên bản chất con người. các quan hệ này không kết hợp với nhau theo phép tính
cộng mà chúng tổng hòa, nghĩa là chúng có vị trí vai trò khác nhau nhưng chúng
không tách rời nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất
con người nhưng không có nghĩa là coi nhẹ mặt tự nhiên, đi đến phủ nhận cái sinh
vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Điều này cho thấy đời sống thể xác
và tinh thần của con người gắn liền với tự nhiên vì con người là một bộ phận của
giới tự nhiên. Con người và con vật đều có những nhu cầu như nhau: ăn, uống, nghĩ
ngơi …. Tuy nhiên con vật thì hoạt động theo bản năng còn con người thì hoạt động
theo ý thức. Nhờ vậy mà mặt xã hội của con người đã làm cho mặt sinh vật trong
con người phát triển ở trình độ cao hơn so với động vật.
Con người sống và hoạt động trong xã hội không phải chỉ theo những bản năng
di truyền có sẵng trong con người như động vật thông thường mà chủ yếu theo sự
phát triển của văn hóa, của sự tiến bộ của lịch sử - xã hội. Con người phát triển hơn
con vật là ngoài tính di truyền con người còn có tính kế thừa về xã hội. Nhờ vào
giáo dục và sự truyền đạt của thế hệ đi trước để lại những kinh nghiệm cho thế hệ
sau.
Xuất phát từ những lập luận trên có thể rút ra kết luận là: con người với tư cách
là sản phẩm của giới tự nhiên là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác
13


con người là một thực thể xã hội. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh học và mặt xã
hội trong con người tạo thành bản chất con người.
Với triết học Mác vai trò của con người ngày càng được chú ý, đặc biệt khi
nghiên cứu các quy luật xã hội chúng ta biết rằng tính khách quan của quy luật xã

hội không thể hiểu theo nghĩa là nó tác động tách rời hoạt động của con người. Lâu
nay khi trình bày các quy luật xã hội vai trò của con người thường lại không được
chúng ta quan tâm thích đáng.
Thời đại ngày nay, thời đại xã hội chủ nghĩa chính vì vậy mà con người xã hội
chủ nghĩa còn có một số đặc trưng đó là: con người xã hội chủ nghĩa một mặt là sản
phẩm của các mối quan hệ xã hội chủ nghĩa, mặt khác là chủ thể của các mối quan
hệ đó và từng bước hình thành trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin tiếp thu những giá trị truyền
thống của dân tộc căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước thì những đặc trưng của
con người XHCN mà chúng ta phấn đấu đạt được: con người làm chủ, con người lao
động mới, con người sống có văn hóa, có tình nghĩa, yêu nước, yêu CNXH và có
tinh thần quốc tế. Các đặc trưng trên thống nhất với nhau tạo nên bản chất con người
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nó được hình thành và hoàn thiện dần trong quá trình
cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2.2 Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Trong bất kỳ xã hội nào để xã hội tồn tại phải có con người, cộng đồng người
cùng sinh sống và hoạt động làm việc. Mà con người tồn tại qua những cá nhân
người, mỗi cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ
thể không lập lại và khác biệt với cá nhân khác về trình độ về tình cảm…
Xã hội bao giờ cũng gồm nhiều cá nhân hợp thành. Những cá nhân này cùng
sống cùng hoạt động trong những nhóm cộng đồng một xã hội do điều kiện lịch sử
quy định. Cá nhân chỉ được hình thành và phát triển trong quan hệ xã hội. Nhưng xã
hội thì bao giờ cũng thay đổi theo tiến trình lịch sử nên cá nhân là một hiện tượng có
tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một kiểu xã hội của cá nhân mang tính định
hướng về thế giới quan phương pháp luận cho hoạt động của con người trong thời
kỳ lịch sử đó. Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với
giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân khác thì
cá nhân là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong riêng biệt với toàn
14



bộ hoạt động sống của nó. Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất xu hướng bên
trong riêng biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của cái tôi do tác động tổng hợp của
các yếu tố cơ thể và xã hội riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân dấn thân vào cuộc sống,
tiếp thu và chuyển những giá trị văn hóa của xã hội vào bên trong mình, tự đánh giá,
tự tạo nên thế giới riêng của mình.
Cá nhân có nhân cách gia nhập vào tập thể như là bộ phận của cái toàn thể, thể
hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, nhưng không hòa tan vào tập
thể. Đây là mối quan hệ biện chứng bao hàm mâu thuẩn giữa cá nhân và tập thể.
Tùy theo tính chất và khả năng giải quyết những mâu thuẩn đó mà mối quan hệ này
có thể duy trì phát triển hoặc tan rã.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
lẫn nhau nhưng trong đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng cho mối quan hệ
này là quan hệ lợi ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các mối
quan hệ lợi ích sao cho khai thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào
các quá trình kinh tế, là môi trường là điều kiện để cá nhân thực hiện các lợi ích. Cá
nhân chỉ được hình thành phát triển trong xã hội trong tập thể. Cá nhân không chỉ là
sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể của sự phát triển xã hội.

1.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về con
người.
1.3.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác- Lênin
được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lỗi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội và giải phóng con người. Vấn đề con người là vấn đề
lớn và được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm xuyên suốt và cũng là nội dung
cơ bản trong toàn bộ tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Khi đất nước ta bị
xâm lăng người luôn tìm cách làm sao để dân tộc ta được độc lập con người được
giải phóng là những trăn trở mà Người luôn suy nghĩ. Khi đất nước ta được độc lập

Người đã khẳng định trong bản tuyên ngôn độc lập: “ Tất cả mọi người sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”. Và thậm chí đến cuối đời, qua bản Di chúc thiêng liêng, ta cũng thấy được
15


tình yêu thương bao la, vô bờ ấy: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thương yêu
cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên,
nhi đồng quốc tế”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được nhìn nhận vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Tư tưởng đó được
thể hiện rõ trong lý luận của Người về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Trong kháng chiến, Người nhấn mạnh là cần phải xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân, phát huy tính sáng tạo của quần chúng nhân dân để kháng
chiến và kiến quốc. Trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, bao giờ Người cũng coi trọng
những yếu tố khách quan vì những yếu tố này luôn gắn liền và tác động đến con
người. Người khẳng định, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trước tiên
cần phải có “con người xã hội chủ nghĩa”. Đó là những con người vừa “hồng” vừa
“chuyên”, có phẩm chất đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư”; phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân và ra sức rèn luyện đạo đức cách
mạng “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Quan niệm của
Bác về con người rất toàn diện, có cái tốt và cái xấu, do đó, theo người “phải làm
cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần
đi”.
Hồ Chí Minh luôn hướng về con người với tấm lòng yêu thương, trân trọng.
Người có niềm tin rất lớn vào con người. Người đã từng nói “Hiền dữ phải đâu là
tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Lòng tin đó được hình thành ở Người từ
những ngày cắp sách đến trường và phát triển lên trong thời gian bôn ba tìm đường

cứu nước. Niềm tin đó càng được khẳng định khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin vì đó chính là “con đường để giải phóng của chúng ta”. Người đã thâm nhập
vào thế giới của những con người “dưới đáy” xã hội, tìm hiểu họ, hướng họ đến với
ngày mai và cũng ở nơi đó, Người càng hiểu sâu sắc bản chất thật sự của khẩu hiệu
mị dân mà bọn thực dân đang hô hào trên các nước thuộc địa: “Tự do, bình đẳng,
bác ái”! Càng tin vào con người, tin vào quần chúng bao nhiêu thì tình thương yêu
của Người đối với họ càng to lớn bấy nhiêu. Càng yêu dân, Người càng chăm lo đến
nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục vì Người từng

16


khẳng định rằng “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Người ước mong dân tộc ta
phải “sánh vai với các cường quốc năm châu”, đất nước đẹp giàu, nhân dân no ấm.
Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước từ thuở dân tộc bị xâm lăng chính vì
vậy mà Người luôn quan tâm đến công tác chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Người khẳng đinh: “ Đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô
địch”. Vì chỉ có đoàn kết lại thì truyền thống yêu nước sự cố kết cộng đồng cùng với
sự lao động và sáng tạo của nhân dân là sức mạnh tổng hợp sẻ tạo được động lực vô
cùng to lớn cho dân tộc ta.
Người còn quan niệm phẩm chất, năng lực của con người không phải là có sẵn,
cũng không phải “ từ trên trời sa xuống” mà nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng
ngày mà phát triển và củng cố”. Qúa trình đấu tranh rèn luyện ấy cũng chính là quá
trình giáo dục, tự giáo dục trong hoạt động thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục là
công việc của toàn xã hội. Người đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo
dục đối với thế hệ trẻ vì thế hệ này còn trong sạch như tấm lụa trắng chưa màu,
nhuộm xanh nó sẽ xanh, nhuộm đỏ nó sẽ đỏ xã hội cần những con người như thế
nào thì thông qua giáo dục thế hệ này sẽ phát triển theo hướng ấy.
Quan niệm về con người và coi con người là một thực thể thống nhất của cái
cá nhân và cái xã hội, con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân
và cộng đồng, biết yêu thương con người coi con người vừa là mục tiêu vừa là động

lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng con người, đó chính là những
luận điểm cơ bản trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm
đúng đắng đó Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu qúy trọng nhân dân,
biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Chính vì vậy mà tư tưởng về con
người của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành sức mạnh vất chất to
lớn và là nhân tố quyết đinh thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam
cho mọi hành động, vì thế tư tưởng Hồ Chí Minh về con người thống nhất với tư
tưởng, quan điểm của Đảng ta. Ngày nay, khi mà cả nước đang bước vào hội nhập
sâu rộng với nền kinh tế quốc tế, để đưa đất nước “sánh vai với các cường quốc năm
châu” và để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại thì
chiến lược phát triển con người càng được chú trọng hơn bao giờ hết, con người
phải trở thành mục tiêu và động lực cho sự phát triển. Trước mắt và cả về lâu dài ta
17


có rất nhiều việc cần làm để thực hiện chiến lược đó nhưng trước tiên, trong lúc này,
các cấp, các ngành cần phải ra sức đẩy mạnh Cuộc vận động “ Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, ra sức thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng
phí, quan liêu, quyết tâm xây dựng nước ta thành một xã hội thực sự công bằng, dân
chủ, văn minh như Bác Hồ từng mong muốn.
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy
nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình. Người không bao giờ cho
mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chi Minh người cán bộ
chỉ là đầy tớ trung thành có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp
phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về
chất so với tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây cũng chính là điều đã làm nên chủ
nghĩa nhân văn cao cả ở Người, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của
một nhà hiền triết phương Đông.

1.3.2 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người.
Trong bất cứ xã hội nào, con người cũng là yếu tố quan trọng nhất, là trung
tâm của sự phát triển xã hội quyết định đến sự tồn tại phát triển của một quốc gia.
Con người cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Ngày nay dù
khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhưng cũng không thể thay thế vai trò
quan trọng của con người trong lao động sản xuất. Lênin đã chỉ ra rằng: “ Lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là con người, là người lao động”.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh làm kiêm chỉ nam
cho hành động vì thế mà tư tưởng về con người của Đảng cộng sản Việt Nam nhất
quán với tư tưởng về con người của chủ nghĩa Mác – Lênin và của Hồ Chí Minh. Sự
nhất quán ấy thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng cũng như các chủ trương
chính sách của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo công cuộc đấu tranh gỉai phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Đảng cho rằng con người
Việt Nam đang là trung tâm trong chiến lược phát triển toàn diện và động lực của
công cuộc xây dựng xã hội với mục tiêu: “ dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Kế thừa truyền thống dân tộc xem con người là vốn quý, Đảng ta luôn đặt con
người ở vị trí hàng đầu, do vậy cách mạng Việt Nam đã thu được những thắng lợi vẻ
18


vang, làm rạng rỡ non song đất nước ta. Công cuộc đổi mới đất nước tạo ra những
thuận lợi chưa từng có, đồng thời đòi hỏi con người Việt Nam vượt qua những thách
thức gay gắt để nâng cao phẩm chất toàn diện phù hợp với đòi hỏi chung của thời
đại, kế tục và nâng cao những giá trị truyền thống của dân tộc lên một trình độ mới.
Từ khi có đường lối đổi mới, con người Việt Nam được phát huy lên một tầm cao
mới. Con người là trung tâm của mọi sự phát triển. Con người vừa là mục tiêu vừa
là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Là mục tiêu bởi mọi sự phát triển đều vì
con người, là động lực bởi vì mọi sự phát triển đều do con người tạo ra. Đó là cơ sở
của quan điểm phát triển nội sinh do con người và vì con người.

Chính vì vậy mà nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là quá
trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp. Mà đối với
nước ta do điểm xuất phát thấp về cơ sở vật chất kỹ thuật, sự phát triển của lực
lượng sản xuất và cả trình độ khoa học công nghệ phát triển chưa cao cho nên sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại càng khó khăn hơn và đòi hỏi chúng ta
phải phát huy mọi tiềm năng hiện có của đất nước mà trong đó hơn tất cả các nguồn
lực khác là nguồn lực con người cần phải được khơi dậy. Điều này đòi hỏi bằng mọi
cách phải phát huy vai trò con người để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Điều đó có nghĩa là phải tìm những giải pháp tốt nhất nhằm phát huy
nhân tố con người. Nhận thức được tầm quan trọng của nhân tố con người, Nghị
quyết lần thứ VIII của Đảng đã quán triệt một trong những quan điểm về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là: “ Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ
bản cho sự phát triển mạnh và bền vững. Động viên tòan dân cần kiệm xây dựng đất
nước…”. [12, Tr 85]
Hiện nay cách mạng nước ta đã chuyển sang thời kỳ mới thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, như đại hội lần thứ VIII, IX, X đã nhận
định, chính vì vậy đây là thời kỳ mà chúng ta phải huy động mọi tiềm năng cả sức
người sức của phấn đấu vì mục tiêu: “ Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân
chủ văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.Do đó việc phát huy nhân tố con
người trong thời kỳ này là hết sức cấp bách và cần thiết.
Tại đại hội VII khi xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế xã hội. Đảng ta khẳng định nhiệm vụ trọng tâm là phải tập trung
19


xây dựng con người và nguồn lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới của đất
nước. Trong cương lĩnh của Đảng được thông qua tại đại hội VII (1991) đã khẳng
định: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội con người
được giải phóng nhân dân lao động làm chủ đất nước, có nền văn hóa tiên tiến đậm

đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo.
Trong tất cả các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là giai đoạn hiện nay, Đảng ta
luôn đặt con người vào vị trí trung tâm với tư cách là nhân tố quyết định nhất. Chính
vì vậy mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: Lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, còn
những thành quả của sự phát triển đất nước lại nhằm phục vụ nhân dân Việt Nam,
con người Việt nam và góp phần cho nhân loại.
Tại đại hội VIII khi đưa ra các phương hướng chủ yếu phát triển trí tuệ con
người Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đảng ta đã
khẳng định “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết hội nghị trung
ương II (1996) và hội nghị trung ương V (1998) đều nhấn mạnh những phẩm chất
cơ bản của con người mà chúng ta phấn đấu xây dựng để trở thành con người toàn
diện là phải có cả đức và tài và phải có kỹ năng lao động giỏi, có ý chí và bản lĩnh
xây dựng đất nước.
Nghị quyết hội nghị trung ương IX khóa IX đã khẳng định quyết tâm của Đảng
là: tiếp tục triễn khai trong thực tiễn quá trình triễn khai giáo dục và đào tạo, khoa
học công nghệ với tư cách là quốc sách hàng đầu và cần phải quán triệt sâu sắc hơn
ở các cấp và cả các ngành để có thể tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh và
bền vững.
Đại hội đã chỉ rõ: ở vào giai đoạn hiện nay thì chúng ta cần nâng cao hơn nữa
chất lượng giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, phát triển nguồn lực: “ Xây dựng
và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh sinh viên mà đặc biệt là lý
tưởng sống, lối sống năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh con người Việt Nam.

20



Kế thừa các đại hội trước, Đại hội X đã chỉ rõ: trong giai đoạn hiện nay chúng
ta cần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo, khoa học và công
nghệ phát triển nguồn nhân lực : “ xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa
trong thanh niên, học sinh, sinh viên đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống năng lực, trí
tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”. [13,Tr 106].
Thời kỳ hiện nay thời kỳ mà nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới để đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 thì chiến lược phát
triển con người cần chú trọng hơn bao giờ hết, con người phải trở thành mục tiêu
động lực của sự phát triển, trước mắt và cả lâu dài thì chúng ta có rất nhiều việc cần
phải làm để thực hiện được chiến lược nhưng trước tiên là các ngành và các cấp phải
đẩy mạnh cuộc vận động và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ra sức
thực hành tiết kiệm chống tham ô lãng phí, quan liêu, quyết tâm xây dựng nước nhà
thành một xã hội công bằng dân chủ văn minh đó cũng là tâm nguyện của Bác.

1.4 Nhận thức và vận dụng lý luận về con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. ở nước ta.
Ngày nay công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang là xu thế chung và tất yếu đối
với các nước phát triển và cả các nước đang phát triển. Đối với nước ta hiện còn
đang trong tình trạng là một nước nghèo, kém phát triển nền kinh tế do đi lên từ
điểm xuất phát thấp, chậm tiếp thu với những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chính vì
vậy để phát triển và đưa đất nước tiến lên hòa cùng với sự phát triển của thời đại.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng ta xác định là con đường phát triển tất yếu
khách quan. Muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, muốn tránh khỏi nguy cơ tụt hậu
so với các nước trong khu vực mà điểm xuất phát ban đầu của họ cũng không khác
gì so với nước ta. Để đưa nước ta trở thành một nước có nền kinh tế phát triển thì
không còn cách nào khác hơn là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
21


Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa thực hiện đi tắt đón đầu để rút
ngắn thời gian phải theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và áp dụng
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Công nghiệp hóa thực chất là xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ
và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch
cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh
hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Qúa trình ấy không chỉ
tuần tự trãi qua các bước cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa mà sử dụng kết hợp
thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở
những khâu có thể và mang tính quyết định, hình thành những mũi nhọn phát triển
theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay chính là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiệm vụ lớn lao mà cuộc cách mạng đó phải thực
hiện là tạo ra những điều kiện thiết yếu về vật chất kỹ thuật về con người và khoa
học công nghệ, từng bướt phát triển kinh tế tri thức, huy động tối đa và sử dụng
ngày càng có hiệu quả mọi nguồn lực, lấy phát triển giáo dục đào tạo, khoa học
công nghệ làm quốc sách hàng đầu, lấy việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc
đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc với tư cách vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội không ngừng tăng năng suất lao động xã hội làm cho
nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường,

kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì lực lượng cán bộ khoa học và
công nghệ, khoa học quản lý và công nhân lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Cho nên muốn thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi
phải có nguồn nhân lực đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng, phải phát huy
những khả năng sở trường và sự nhiệt tình lao động sáng tạo của mỗi người. Phát
huy nhân tố con người chính là chăm lo, tạo ra những điều kiện cần thiết để mỗi
người, mỗi cộng đồng người thể hiện tối đa năng lực của mình trong lao động, trong
hoạt động sáng tạo nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội vì hạnh phúc của
22


mỗi người. Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng thường xuyên nguồn
nhân lực con người, đảm bảo cơ cấu tốc độ và quy mô phát triển hợp lý đáp ứng yêu
cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Đồng thời phải
bố trí sử dụng nguồn nhân lực đã được đào tạo, phải phát huy đầy đủ khả năng, sở
trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của mỗi người để họ tạo ra năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế cao đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Nhân tố con người có nội dung cơ bản được xác định như là những chỉ tiêu về
số lượng, chất lượng nói lên khả năng của con người, của cộng đồng người như là
một tiềm năng cần khai thác và phát huy trong đó bao gồm số lượng lao động, sức
khỏe, trình độ, học vấn chuyên môn kỹ thuật, ý thức xã hội, thái độ lao động. Nội
dung này chỉ ra những tiêu chí nói lên mức độ khả năng sáng tạo của con người
trong hệ thống các quan hệ xã hội cũng như trong tiến trình phát triển của lịch sử mà
trong đó con người là chủ thể.
Phát triển con người là làm gia tăng gía trị cho con người, giá trị tinh thần, giá
trị đạo đức, vật chất thể chất. Con người ở đây được xem xét như là một tài nguyên
một nguồn lực. Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã giải phóng từng bước con
người về vật chất và cả tinh thần. Phát triển nguồn lực con người là sự phát triển

trong một hệ thống như: phát triển các nguồn lực, vật lực, tài lực, nhân lực nhưng
trong đó phát triển nguồn nhân lực giữ vai trò trung tâm. Chiến lược phát triển con
người ở trong bất cứ xã hội nào cũng được bàn đến chứ không phải đến chủ nghĩa
xã hội mới nhắc đến. Tích cực hóa nhân tố con người là phát hiện, làm bộc lộ hình
thành và để từ đó sử dụng tiềm năng sáng tạo của con người.Việc phát huy nhân tố
con người chính là chăm lo tạo ra những điều kiện cần thiết để mỗi người và kể cả
cộng đồng thể hiện năng lực của mình trong lao động, hoạt động sáng tạo nhằm đẩy
mạnh sự phát triển kinh tế xã hội vì hạnh phúc mỗi người. Đây cũng chính là quá
trình làm cho mỗi con người trở thành chủ thể có ý thức trong sáng tạo lịch sử.
1.4.1 Vai trò của nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Ngày nay hòa cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới thì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đối với nước ta
đó cũng là con đường phát triển tất yếu để thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước
23


mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không
chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc
với lĩnh vực đời sống xã hội. Để đạt được sự thành công của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đòi hỏi môi trường chính trị của đất nước phải ổn định bên cạnh
đó phải có nguồn lực cần thiết như: tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật,
vốn, nguồn lực con người. Tất cả các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau để
cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên mức độ tác
động và vai trò của chúng là không như nhau, trong đó nhân tố con người hay nguồn
nhân lực giữ vai trò quyết định. Điều này đòi hỏi để công nghiệp hóa, hiện đại hóa
được thuận lợi thì phải phát triển nguồn nhân lực. Bởi vì nguồn nhân lực chính là
lực lượng lao động của xã hội mà lực lượng này tham gia vào quá trình sản xuất,
phát triển kinh tế xã hội mà thông qua hoạt động của con người thì các nhân tố khác
mới phát huy hết tác dụng mới có thể biến những tiềm năng thành hiện thực mà

trong đó chính con người mới có thể phát hiện ra các nguồn lực tổ chức khai thác và
sử dụng nó để phục vụ cho lợi ích của mình. Để từ đó có thể tạo ra động lực phương
tiện tạo điều kiện cho xã hội phát triển đi lên nhằm phục vụ cho cuộc sống con
người được đầy đủ hơn, tốt đẹp hơn.
Qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm cho nguồn nhân lực ở nước ta
phát triển mạnh mẽ, con người ngày càng trở thành những nhân tố đắc lực cho các
ngành nghề mang tính chất kinh tế tri thức như nổi lên một số ngành có bước phát
triển về chất ở nước ta như: bưu chính – viễn thông, dầu khí, hàng không, ngân
hàng, điện tử tin học… cùng với sự ra đời của khu chế xuất, khu công nghiệp đã thu
hút hàng vạn lao động. Thực tiễn này cho thấy nhân tố mới của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đang phát huy tác dụng đến một bộ phận con người Việt
Nam, phát huy ảnh hưởng đến một bộ phận khác rất đáng kể để chúng ta nghiên
cứu, tìm ra những vấn đề có tính quy luật trong việc phát triển tài nguyên con người
cho phù hợp với yêu cầu mới.
Con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đạt trình độ
tương đối hiện đại, có bản lĩnh, phẩm chất năng lực đảm đương xuất sắc những sứ
mệnh lịch sử ngày nay của mình, vừa kế thừa vừa phát huy những truyền thống vẻ
vang của dân tộc của thế hệ đi trước. Vừa đem hết sức trí tuệ và tài năng sáng tạo
tạo nên những công trình kỳ diệu về kinh tế, chính trị văn hóa, xã hội làm cho nền
24


×