Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình và thực tiễn thực hiện ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.11 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO THỊ TUYỀN

QUYỀN CỦA NGƯỜI CAO TUỔI
TRONG LĨNH VỰC HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự

Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên

HÀ NỘI - 2014


i

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin được bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc tới cô
giáo – Phó Giáo sư - Tiến sỹ Hà Thị Mai Hiên – người đã trực tiếp chỉ bảo,
hướng dẫn và đồng hành cùng em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy giáo, cô giáo trường Đại học Luật Hà
Nội, các thầy cô khoa Sau Đại học, đặc biệt là các thầy cô khoa Dân sự – những
người đã giảng dạy, giúp đỡ và vun đắp kiến thức cho em trong suốt thời gian qua.


Cuối cùng, em xin gửi lời tri ân, biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè –
những người đã nuôi dưỡng, tạo mọi điều kiện thuận lợi, luôn quan tâm, cổ vũ
và động viên em trong cuộc sống.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, nhưng do vốn hiểu biết còn hạn chế nên luận
văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô và toàn thể bạn đọc
đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 5 năm 2014
Học viên

Đào Thị Tuyền


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đào Thị Tuyền


iii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 2

3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn ....................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn .................................................. 4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .............................................. 4
6. Điểm mới của luận văn............................................................................ 5
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 5
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CAO
TUỔI TRONG LĨNH VỰC HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH .................................. 6
1.1. Người cao tuổi và vị trí, vai trò của người cao tuổi trong gia đình ...... 6
1.1.1. Khái niệm người cao tuổi................................................................ 6
1.1.2. Các căn cứ xác định quyền của người cao tuổi .............................. 6
1.1.3. Vị trí, vai trò của người cao tuổi trong gia đình Việt Nam ............ 11
1.2. Chính sách và pháp luật về quyền của người cao tuổi...................... 12
1.2.1. Nội hàm quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình ... 12
1.2.2.Chính sách và pháp luật quốc tế liên quan đến quyền của người cao
tuổi....................................................................................................................14
1.2.3.Chính sách và pháp luật Việt Nam về quyền của người cao tuổi ... 16
1.3. Quá trình ghi nhận của các chính sách, pháp luật Việt Nam về quyền
của người cao tuổi ...................................................................................... 17
1.3.1. Truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ..................................... 17
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về người cao tuổi ..................................... 19
1.3.3. Chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quyền của người cao
tuổi qua các thời kỳ lịch sử ...................................................................... 20


iv
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
QUYỀN CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TRONG LĨNH VỰC HÔN NHÂN, GIA
ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................. 25
2.1. Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện quyền của người cao
tuổi trong lĩnh vực hôn nhân gia đình ...................................................... 26

2.1.1. Thành tựu trong việc thực hiện quyền được kết hôn, ly hôn của
người cao tuổi .......................................................................................... 26
2.1.2. Thành tựu trong việc thực hiện quyền sở hữu tài sản, thừa kế tài
sản của người cao tuổi............................................................................. 28
2.1.3. Thành tựu trong việc thực hiện quyền được chăm sóc, phụng
dưỡng, được cấp dưỡng của người cao tuổi............................................ 29
2.1.4. Thành tựu trong việc thực hiện quyền nhận nuôi con nuôi của
người cao tuổi .......................................................................................... 33
2.2. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quyền của người cao
tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình và nguyên nhân của những hạn
chế, bất cập đó ........................................................................................... 34
2.2.1. Những điểm hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quyền của
người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân gia đình ................................... 34
2.2.2. Nguyên nhân của những điểm hạn chế, bất cập trong việc thực
hiện quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình ........ 51
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG .................... 57
VIỆC BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI ............................. 57
CAO TUỔI TRONG LĨNH VỰC HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH TRƯỚC BỐI
CẢNH HIỆN NAY Ở VIỆT NAM ................................................................ 57
3.1. Yêu cầu khách quan của việc tăng cường bảo đảm quyền của người
cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay.............. 57
3.1.1. Xu hướng chung của thế giới ........................................................ 57
3.1.2. Bối cảnh trong nước ...................................................................... 58


v
3.1.3. Tăng cường bảo đảm quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn
nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay ....................................................... 60
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện quyền của người cao tuổi
trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam ..... 62

3.2.1. Nhóm các giải pháp nâng cao nhận thức của các thành viên trong
gia đình có người cao tuổi ........................................................................ 63
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao sự tích cực, chủ động của người cao tuổi
trong việc tự chăm sóc bản thân .............................................................. 66
3.2.3. Nhóm các giải pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước................................ 67
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 72


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Truyền thống từ lâu đời của dân tộc Việt Nam luôn coi trọng các bậc cao
niên, coi họ là những “cây cao bóng cả”, là kho tàng những kinh nghiệm sống,
là tầng lớp cần nhận được sự tôn kính trong xã hội. Đảng và Nhà nước ta cũng
luôn có những ưu tiên đặc biệt đối với tầng lớp này bằng việc đưa ra những
chính sách pháp luật quy định các quyền lợi của người cao tuổi cũng như các
chính sách nhằm bảo đảm thực hiện các quyền đó trên thực tế. Tuy nhiên, đất
nước ta còn là một nước đang phát triển, do đó việc thực hiện tốt các quyền của
người cao tuổi còn gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là trong lĩnh vực hôn nhân,
gia đình, lĩnh vực được coi là gần gũi nhất, đi sâu nhất vào đời sống của người
cao tuổi thì lại chưa có quy định cụ thể nào về các quyền mà người cao tuổi
được hưởng. Đây cũng là một bất cập khiến cho những quyền chính đáng của
người cao tuổi đã và đang bị xâm phạm trên thực tế.
Như nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng như trong khu vực, Việt Nam
hiện đang phải đối mặt với các vấn đề, thách thức lớn liên quan đến tầng lớp
người cao tuổi trong xã hội như: số lượng người cao tuổi tăng nhanh, nhiều
người cao tuổi sống ở mức nghèo và cận nghèo, hầu hết người cao tuổi có sức
khoẻ kém và càng ngày càng sống thu mình, bởi sự hỗ trợ truyền thống từ đại
gia đình họ cũng bị thu hẹp lại do số thanh niên đang ở độ tuổi lao động đi làm

ăn xa ngày càng tăng…
Năm 2008, người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên chiếm khoảng 9.5% tổng dân
số Việt Nam. Đến năm 2029, con số này sẽ lên đến 16.8% [6]. Với số lượng dự
kiến tăng như vậy, tỉ lệ nghèo đói ở họ cũng đặt ra nhiều trở ngại lớn để đạt
được các mục tiêu phát triển của Việt Nam trong thời gian tới.
Về vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở Việt Nam thì nhiều
người cao tuổi không có cơ hội được trang bị kiến thức về thực hành chăm
sóc sức khoẻ hoặc hiểu biết về tình trạng sức khoẻ của mình, điều đó dẫn đến


2
việc tăng nguy cơ nhiễm các bệnh mãn tính. Số liệu nghiên cứu cho thấy,
khoảng 80% người cao tuổi ở Việt Nam được báo cáo là có ít nhất một bệnh
mãn tính [6].
Có thể nói, trong cuộc sống gia đình, truyền thống trọng lão luôn được duy
trì, người cao tuổi luôn có vị trí cao trong gia đình. Họ luôn được kính trọng,
tiếng nói luôn có ảnh hưởng quyết định đến các hoạt động của gia đình. Hơn
nữa, người cao tuổi cũng được chăm sóc một cách tốt nhất là tại gia đình của
mình, bởi con cháu của mình. Tuy nhiên, một xu hướng đang làm tăng sự tổn
thương ở người cao tuổi tại Việt Nam, đặc biệt là tại các vùng nông thôn, miền
núi nơi có điều kiện sống khó khăn đó là sự di cư hàng loạt của thanh niên ở độ
tuổi lao động ra thành phố tìm việc làm. Họ thường đi làm ăn xa, để lại bố mẹ và
cũng là người trông nom con cái họ ở quê. Xu hướng này cũng sẽ làm tăng sự
đơn độc của người cao tuổi trong tương lai. Và trong những năm tới, người cao
tuổi sẽ dần ít được con cháu chăm sóc hơn những thế hệ trước.
Với bối cảnh đó và với mong muốn góp phần vào việc thực hiện tốt các
quyền của người cao tuổi đặc biệt là quyền của họ trong lĩnh vực hôn nhân gia
đình, em đã chọn đề tài “Quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân,
gia đình và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam hiện nay” làm Luận văn tốt nghiệp
cao học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về người cao tuổi
trong việc bảo vệ quyền lợi, chăm sóc sức khỏe cho họ cũng như vị trí, vai trò
của họ trong gia đình và toàn xã hội. Có thể kể tới các công trình như:
- Dự án Thúc đẩy quyền của người cao tuổi thiệt thòi ở Việt Nam (VIE022)
do Hội liên hiệp Phụ Nữ Việt Nam – VWU; Tổ chức Hỗ trợ Người Cao Tuổi
Quốc tế - HAI; Hội Người Cao Tuổi Việt Nam – VAE; Trung tâm Trợ giúp


3
Người Cao Tuổi và Phát triển cộng đồng – CASCD; Viện Nghiên cứu Phát triển
bền vững vùng Nam bộ - SISD thực hiện từ năm 2010 đến năm 2014;
- Nguyễn Kim Dân – Nghệ thuật sống vui cho người cao tuổi – Nxb Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh;
- Đặng Vũ Cảnh Linh – Người cao tuổi và các mô hình chăm sóc người cao
tuổi ở Việt Nam – Nxb Dân trí – Hà Nội 2009;
- Một số các bài báo, tạp chí viết về người cao tuổi.
Tuy nhiên, những dự án, tác phẩm trên chủ yếu đề cập tới vấn đề chăm sóc
sức khỏe cho người cao tuổi, các quyền của người cao tuổi nói chung… chứ
chưa đi sâu nghiên cứu về quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia
đình. Và cũng tính tới thời điểm này chưa có một công trình nghiên cứu nào
phân tích trực tiếp các quyền của người cao tuổi dưới góc độ Luật học, về sự
phát triển của các quy phạm pháp luật về các quyền của người cao tuổi và thực
tiễn thực hiện các quyền đó trên thực tế, đặc biệt là trong lĩnh vực hôn nhân, gia
đình. Luận văn có thể được coi là công trình nghiên cứu đầu tiên về các quyền
của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình dưới góc độ luật học cũng
như thực tiễn thực hiện các quyền đó trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách hệ thống
những quyền cơ bản của người cao tuổi nói chung và trong lĩnh vực hôn nhân,

gia đình nói riêng, chỉ ra những thành tựu đã đạt được cũng như những điểm hạn
chế, bất cập trong việc thực hiện các quyền đó trên thực tế. Từ đó đề xuất một số
giải pháp hữu ích nhằm nâng cao việc thực hiện các quyền của người cao tuổi
giúp họ thực sự được “sống vui, sống khỏe và sống có ích”.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt
Nam trên cơ sở nghiên cứu một số văn bản quốc tế và quá trình ghi nhận cũng
như chính sách pháp luật Việt Nam về quyền của người cao tuổi nói chung và
trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình nói riêng cũng như thực tiễn thực hiện các
quyền đó trên thực tế.


4
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn nghiên cứu việc ghi nhận cũng
như việc thực hiện một số quyền cụ thể, được xem là quan trọng nhất đối với
người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình theo pháp luật Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về vị trí, vai trò
của người cao tuổi, đồng thời kết hợp với việc sử dụng linh hoạt các phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng để làm sáng tỏ các nội dung thuộc
phạm vi nghiên cứu của luận văn;
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm tạo
tính logic, chặt chẽ, khái quát hóa nội dung nghiên cứu một cách có hệ thống;
- Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu trong chương 1 của luận văn
khi nói về các chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như tư tưởng Hồ Chí
Minh về vị trí, vai trò của người cao tuổi;
- Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh việc thực hiện cũng như
bảo vệ quyền của người cao tuổi theo pháp luật Việt Nam trên cơ sở những Điều

ước quốc tế mà Việt Nam tham gia về bảo vệ quyền con người nói chung và
quyền của người cao tuổi nói riêng;
- Phương pháp thống kê được sử dụng để cung cấp một số số liệu liên quan
đến vấn đề bảo vệ quyền của người cao tuổi nói chung và trong lĩnh vực hôn
nhân, gia đình nói riêng.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống những nội
dung về các quyền cơ bản của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình
theo pháp luật Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đã phân tích được những thành tựu đạt được


5
cũng như những điểm hạn chế trong việc thực hiện các quyền của người cao tuổi
trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình trên thực tế. Từ đó góp phần vào việc nâng
cao sự nhìn nhận đúng đắn của toàn xã hội về vị trí, vai trò của người cao tuổi
trong gia đình và trong xã hội, góp phần nâng cao việc thực hiện tốt các quyền
của người cao tuổi giúp họ sống vui, sống khỏe, sống có ích.
Ngoài ra, luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu, học tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật ở nước ta.
6. Điểm mới của luận văn
- Tiếp cận một cách khoa học các vấn đề lý luận về vị trí, vai trò cũng như
quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình. Đồng thời đưa ra
được khái niệm quyền của người cao tuổi và quyền của người cao tuổi trong lĩnh
vực hôn nhân, gia đình.
- Đánh giá một cách khách quan về các quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn thực hiện các quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả của việc thực hiện quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn
nhân, gia đình trên thực tế.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì phần Nội
dung chính của luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực
hôn nhân, gia đình.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện quyền của người
cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường việc bảo đảm thực hiện
quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình trước bối cảnh hiện
nay ở Việt Nam.


6
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CAO
TUỔI TRONG LĨNH VỰC HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH

1.1. Người cao tuổi và vị trí, vai trò của người cao tuổi trong gia đình
1.1.1. Khái niệm người cao tuổi
Người cao tuổi hay còn gọi là “phụ lão”, “cao niên” hay “người già”.
Trong các tài liệu quốc tế, thuật ngữ dùng để mô tả người cao tuổi khá đa
dạng, bao gồm: “người cao tuổi”, “người già”, “người già cả”, "thế hệ thứ ba”,
“người có tuổi”; và để biểu thị người từ 80 tuổi trở lên, thuật ngữ được dùng là
“thế hệ thứ tư”. Ủy ban Công ước Liên hợp quốc đã sử dụng thuật ngữ “người
cao tuổi” (older person, trong tiếng Pháp là personnes agee) trong các Nghị
quyết 47/5 và 48/98 của Đại hội đồng, bao gồm những người từ 60 tuổi trở lên.
Riêng các nước thuộc Liên minh châu Âu coi “người cao tuổi” là những người
từ 65 tuổi trở lên, vì tuổi về hưu ở các nước này thông thường là 65 tuổi và xu
hướng nghỉ hưu ngày càng muộn hơn.
Ở Việt Nam, theo Luật Người cao tuổi năm 2010 thì “Người cao tuổi được
quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên” (Điều 2).

Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì người cao tuổi là người từ đủ 60 tuổi trở
lên. Đây là lớp người cao tuổi nhất trong xã hội, có nhiều kinh nghiệm sống và
cũng là “nhóm người dễ bị tổn thương bởi những đặc điểm về tâm, sinh lý...”.
Với những nhận định như trên, có thể hiểu, "người cao tuổi là nhóm người
lớn tuổi nhất trong xã hội, thường từ 60 tuổi trở lên,có nhiều kinh nghiệm sống
và là nhóm người dễ bị tổn thương bởi các đặc điểm về tâm, sinh lý."
1.1.2. Các căn cứ xác định quyền của người cao tuổi


7
Người cao tuổi là một bộ phận trong quy mô dân số của mỗi quốc gia cũng
như toàn cầu. Do đó, ngoài việc được hưởng những quyền cơ bản của con người,
người cao tuổi còn được hưởng những quyền mang tính chất đặc thù dựa vào
các căn cứ về độ tuổi, vị trí vai trò của họ trong gia đình và xã hội và đặc biệt là
nguyên tắc bình đẳng của pháp luật về quyền con người.
1.1.2.1. Người cao tuổi là thành viên của gia đình và xã hội có mọi quyền
tự do, bình đẳng.
Quyền của người cao tuổi là quyền con người của nhóm người có độ tuổi
cao theo chuẩn mực chung của xã hội. Do đó, theo nguyên tắc bình đẳng, người
cao tuổi có đầy đủ tất cả các quyền con người, kể cả trong lĩnh vực hôn nhân và
gia đình.
Xuất phát từ thực tiễn xã hội, các văn kiện của các Ủy ban Công ước Liên
hợp quốc nhận định rằng, “người cao tuổi là một nhóm dân số đa dạng và không
đồng nhất, tình trạng của họ phụ thuộc vào tình hình kinh tế, xã hội, vào các yếu
tố nhân học, môi trường, văn hóa và công ăn việc làm; ở cấp độ cá nhân thì phụ
thuộc vào tình trạng gia đình, trình độ giáo dục, môi trường sống và nghề
nghiệp, việc vẫn còn tham gia lao động hay đã nghỉ hưu."
Trong số những người cao tuổi, có những người còn sức khỏe và có tình
trạng tài chính tốt, trong khi nhiều người không có đủ các nguồn hỗ trợ, ngay cả
ở những nước phát triển, thậm chí một số người rơi vào nhóm dễ bị tổn thương,

bị cô lập hóa và ít được bảo vệ nhất. Trong thời kỳ diễn ra những suy thoái và
thay đổi về cơ chế kinh tế, người cao tuổi đặc biệt bị rủi ro”[1]. Chính vì vậy,
việc bảo đảm, bảo vệ các quyền của người cao tuổi là trách nhiệm của các quốc
gia thành viên các Công ước quốc tế về quyền con người.
Tuổi thọ của dân số thế giới đang ngày càng gia tăng đáng kể. Tổng số
người có tuổi thọ từ 60 trở lên tăng từ 400 triệu vào năm 1982 lên 600 triệu vào
năm 2001 và dự đoán sẽ ở mức 1,2 tỷ vào năm 2025. Những con số đó minh


8
chứng cho những thành quả phát triển, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề về cơ
cấu kinh tế, xã hội, gây ra những hậu quả lâu dài về xã hội cả ở cấp độ toàn cầu
và quốc gia[2].
1.1.2.2. Các yếu tố về tuổi tác, sức khỏe, yếu tố tâm sinh lý của người cao tuổi.
So với các lứa tuổi khác thì người cao tuổi có các yếu tố về tuổi tác, sức
khỏe, tâm sinh lý đặc thù. Cụ thể:
Thứ nhất, về thể lý. Cái yếu ớt của người già được ví tương tự với sự yếu
ớt của một em bé. Tuy nhiên, ở lứa tuổi em bé, những yếu ớt sẽ dần dần được
củng cố và phát triển theo thời gian. Còn ở người cao tuổi, sự yếu ớt đó lại từ từ
đi xuống cho tới khi họ không làm được gì nữa. Từ đó sẽ dẫn tới những căn
bệnh hiểm nghèo do thân thể, tứ chi và nội tạng sẽ như một chiếc máy rệu rạo,
hoạt động rất giới hạn và trí thông minh cũng bị hạn chế.
Thứ hai, về tâm sinh lý. Người cao tuổi thường sống với ký ức và hoài
niệm của mình với tuổi đời chồng chất, trải quan bao thăng trầm thì tuổi già là
thời gian mà người cao tuổi sống lại với những kỷ niệm ấy trong sinh hoạt hàng
ngày của họ. Đây cũng là nguyên nhân làm nảy sinh mâu thuẫn giữa quá khứ và
hiện tại. Những gì họ mới nghe, mới nói vài phút đã quên nhưng những chuyện
đã xảy ra trong quá khứ thì họ nhớ rất kỹ. Điều này cũng tạo nên mặc cảm tự ti
và tự tôn ở người cao tuổi. Một mặt họ cho rằng mình có nhiều kinh nghiệm,
hiểu biết nhưng mặt khác, họ lại thu gọn mình trong cuộc sống hiện tại và cho

rằng mình vô dụng… Bởi vậy, họ luôn thích đóng góp ý kiến, truyền thụ kinh
nghiệm cho con cháu và bên cạnh đó, họ cũng rất muốn được "chiều chuộng",
được "cung phụng", muốn trở thành một người quan trọng trong gia đình, được
mọi người chú ý…
Với những sự khác biệt về cả thể chất lẫn tâm sinh lý kể trên của người
cao tuổi có thể thấy, người cao tuổi là lớp người được coi là "gần đất xa trời",
thời gian họ sống cùng con cháu, cùng xã hội không còn nhiều. Hơn nữa, với


9
đặc thù người cao tuổi Việt Nam là họ đã phải trải qua rất nhiều khó khăn
trong quá khứ do chiến tranh, loạn lạc… thì họ xứng đáng được hưởng các
quyền ưu tiên riêng biệt.
1.1.2.3. Vị trí, vai trò của người cao tuổi trong gia đình và xã hội.
- Người cao tuổi là thành viên đáng kính của xã hội Việt Nam.
Ở Việt Nam, người cao tuổi là lớp người có vị trí, vai trò vô cùng quan
trọng đối với xã hội. Đây cũng là thế hệ đã trải qua các cuộc kháng chiến trường
kỳ chống quân xâm lược, mang lại độc lập, tự do cho tổ quốc. Lịch sử Việt Nam
từ xa xưa đến nay, từ cấp nhà nước đến cấp làng, xã đều ghi nhận, quan tâm, coi
trọng người cao tuổi. Đó cũng là một trong những truyền thống tốt đẹp của
người Việt Nam “kính già, yêu trẻ”. Người cao tuổi là lớp người được tôn kính
nhất trong xã hội, là tầng lớp chứa cả một kho tàng những kinh nghiệm sống,
“cây cao bóng cả” luôn sẵn sàng tỏa bóng mát cho các thế hệ sau.
Xét ở xã hội phương Đông như Việt Nam, người già căn bản đều nương tựa
vào gia đình đặc biệt là ở giai đoạn cuối đời. Đây cũng được coi là một trong
những điểm khác biệt của xã hội phương Đông và phương Tây. Do đó đã hình
thành một truyền thống vô cùng tốt đẹp của người dân Việt Nam đó là hiếu thảo,
kính lễ đối với ông bà, cha mẹ. Cũng từ đó mà gia đình trở thành đơn vị gốc của
xã hội và sự chung sống giữa người già và người trẻ dưới cùng một mái nhà
thường rất hài hòa, ổn định. Sống dưới mái ấm đại gia đình, người cao tuổi nhận

được sự chăm sóc chu đáo cả về vật chất lẫn tinh thần. Điều này đã góp phần
làm tăng cường sức khỏe, sự dẻo dai của các cụ.
- Người cao tuổi có vị trí, vai trò vô cùng to lớn đối với toàn xã hội, đặc
biệt là trong mỗi gia đình cụ thể. Bởi gia đình là một tế bào của xã hội, gia đình
có tốt thì xã hội mới tốt. Do đó, người cao tuổi trong gia đình giữ một vai trò hết
sức quan trọng tạo nên một văn hóa gia đình tốt đẹp.


10
Có thể nói “văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực đặc thù
điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa gia
đình và xã hội được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của đời sống gia
đình, gắn liền với những điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội”[57].
Những dấu ấn để lại trong đời sống gia đình ở các cộng đồng, quốc gia dân tộc
không giống nhau tạo nên tính đa dạng của văn hóa gia đình. Vì vậy, nhiều quốc
gia có trình độ văn minh như nhau hoặc trình độ phát triển như nhau nhưng văn
hóa gia đình lại khác nhau.
Văn hóa gia đình là những sáng tạo cụ thể, thể hiện thông qua đời sống sinh
hoạt vật chất cũng như tinh thần của các thành viên gia đình; thông qua cách
thức lao động sản xuất, sinh con đẻ cái, chăm sóc ông bà, cha mẹ, con cái; cách
thức ăn, mặc, ở, đi lại; cách thờ cúng tổ tiên, các vị thần linh... Văn hóa gia đình
thể hiện qua đạo đức, quy tắc xử sự, cách giáo dục trong gia đình, thể hiện rõ
đạo lý làm người của một dân tộc, đồng thời thể hiện mối quan hệ ứng xử có
tính nhân văn giữa con người với con người, con người với môi trường tự nhiên
và con người với toàn xã hội.
Văn hóa gia đình có hai chức năng cơ bản đó là: chức năng truyền tải các
giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác và chức năng hình thành
các giá trị văn hóa mới. Và người cao tuổi trong gia đình giữ một vai trò chính,
cốt yếu trong việc thực hiện, duy trì và phát huy hai chức năng này [57]. Đời
sống gia đình Việt Nam vẫn còn giữ được nếp sống cổ truyền đó là, người già

trong gia đình sẽ được con cháu nể trọng, trở thành những nhân vật tiêu biểu cho
trật tự và tình đoàn kết của các thành phần gia đình. Các cụ giữ vai trò xúc tác
cho các hoạt động của con cháu.
Như vậy, với các căn cứ nêu trên có thể thấy, người cao tuổi có những quyền
lợi bình đẳng so với mọi tầng lớp, lứa tuổi khác. Bên cạnh đó, họ cũng có những
quyền ưu tiên đặc thù. Hơn nữa, người cao tuổi cũng có những quyền riêng biệt
trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình cần được Nhà nước ghi nhận và bảo hộ.


11
1.1.3. Vị trí, vai trò của người cao tuổi trong gia đình Việt Nam
Trong gia đình, người cao tuổi chính là ông, bà, cha, mẹ, hoặc nếu gia đình
tứ đại đồng đường thì họ là các cụ cùng với tổng thể các thành viên con, cháu,
chắt của gia đình. Nếp sống, văn hóa gia đình đang tồn tại là nhờ vào công sức
không nhỏ của lớp người cao tuổi. Trước hết, người cao tuổi là người có vai trò
dẫn dắt con, cháu thực hiện đầy đủ các chức năng cơ bản của văn hóa gia đình.
Thứ nhất, hoạt động văn hóa, giáo dục của người cao tuổi. Hoạt động giáo
dục bao gồm ba vấn đề cơ bản: giáo dục đạo đức – nhân văn; giáo dục trí thức
và giáo dục hướng nghiệp – dạy nghề. Tất cả các hoạt động này người cao tuổi
đều giữ vai trò rất lớn. Từ khi bắt đầu làm ông, làm bà, làm cha, làm mẹ, những
người lớn trong gia đình đã dạy con cháu của mình những điều tưởng chừng như
đơn giản nhất đó là việc “học ăn, học nói, học gói, học mở”... Học các cách để
ứng xử với mọi người trong gia đình và với toàn xã hội theo những phong tục,
tập quán mang nét riêng của mỗi gia đình, hình thành nên “gia phong”, nếp sống
của gia đình.
Mặt khác, người cao tuổi cũng là lớp người mang trong mình cả một kho
tàng các kinh nghiệm sống luôn sẵn lòng truyền đạt lại cho thế hệ sau. Điều này
góp phần nâng cao đạo đức, lối sống lành mạnh cũng như những hiểu biết, tri
thức quý báu cho các thành viên trẻ trong gia đình. Chỉ trong việc giáo dục nghề
- hướng nghiệp, lớp người cao tuổi là các nghệ nhân tại các làng nghề đã không

ngừng truyền lại cho con cháu kế thừa những kinh nghiệm quý báu, những tinh
hoa trong làm nghề của cha ông ta kết hợp với những công nghệ tiên tiến, hiện
đại đã góp phần giữ vững được làng nghề quê hương cũng như giữ được những
“đường nét”, “dấu ấn” của ông cha để lại.
Ngoài ra, thông qua các loại hình văn hóa vật thể và phi vật thể như những
làn điệu dân ca, lời ru, tiếng hát, tiếng kèn, tiếng chiêng, tiếng sáo... cũng được
người cao tuổi một mặt hết lòng truyền đạt lại cho con cháu, một mặt cũng hết


12
sức sáng tạo thêm những làn điệu mới dễ đi vào lòng người để những bản sắc đó
không thể mai một theo sự đổi thay của năm tháng. Điều này là rất đáng ghi
nhận. Văn hóa gia đình còn chứa đựng cách ứng xử của các thành viên trong gia
đình. Người cao tuổi trở thành trụ cột hướng dẫn, uốn nắn con cháu hoạt động,
học tập theo nề nếp đã được hình thành.
Thứ hai, hoạt động kinh tế, sản xuất, kinh doanh cũng mang sắc thái văn
hóa riêng của mỗi gia đình. Điều này một phần là do sức sáng tạo riêng của mỗi
gia đình và phần nhiều là do được ông cha truyền dạy lại qua các thế hệ. Hàng
hóa xuất phát từ các gia đình khác nhau thì cũng mang sắc thái khác nhau cả về
mặt hàng, hình dáng, giá cả... Ông cha ta thường có câu “khách hàng là thượng
đế”, “phi thương bất phú”... Áp dụng những lời dạy này đến ngày hôm nay vẫn
đúng. Sự phát triển của kinh tế gia đình đó là nhờ vào kinh nghiệm được cha
ông truyền dạy kết hợp với sự vận dụng công nghệ tiên tiến tạo nên những sản
phẩm phù hợp với người tiêu dùng qua các thời đại.
Thứ ba, trong hoạt động chăm sóc sức khỏe cũng mang những nét đặc thù
của từng gia đình. Đó là việc sử dụng các bài thuốc dân gian để chữa bệnh,
phòng bệnh, để chăm sóc người ốm, người già, trẻ nhỏ... Điều này là do có sự
truyền dạy của lớp người cao tuổi trong gia đình tạo nên những giá trị quý báu
cho nhân loại .
Như vậy, người cao tuổi có vai trò rất lớn trong việc hình thành những giá

trị văn hóa gia đình, là người chọn lọc kế thừa, phát triển và cũng là người
truyền lại những giá trị tốt đẹp ấy cho các thế hệ sau. Người cao tuổi được coi là
hạt nhân, là lực hấp dẫn giữ vững cấu trúc gia đình.
1.2. Chính sách và pháp luật về quyền của người cao tuổi
1.2.1. Nội hàm quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình


13
Quyền của người cao tuổi là quyền con người, quyền công dân, bình đẳng
với mọi chủ thể khác trong xã hội. Xét dưới góc độ quyền con người, người cao
tuổi có đầy đủ các quyền tự do về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo
các Văn kiện quốc tế về quyền con người và được thể hiện khá đầy đủ trong
Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam. Do tính chất của quyền con người là một
chỉnh thể thống nhất, có mối liên hệ hữu cơ, không phân chia, nên việc nghiên
cứu quyền của người cao tuổi trong phạm vi đề tài, mặc dù chỉ tập trung vào một
số loại quyền chủ yếu nhất trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình cũng luôn được đặt
trong mối liên hệ hữu cơ đó.
Có thể hiểu quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình là
quyền của người cao tuổi nhấn mạnh đến những đặc thù của người cao tuổi
trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình. Các quyền này có phạm vi hẹp hơn bởi được
đề cập trực tiếp trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình. Để hiểu rõ về các quyền của
người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trước hết cần tìm hiểu về
“quyền của người cao tuổi”.
Dưới góc độ ngôn ngữ học thì “quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội
công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”[27, tr 786]
Dưới góc độ pháp lý, “quyền là những việc mà một người được làm mà
không bị ai ngăn cản, hạn chế. Phân loại quyền gồm có: 1. Quyền đương nhiên
như quyền làm người, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh
phúc; 2. Quyền do luật pháp cho phép làm hoặc luật pháp không cấm làm
(quyền pháp lý); 3. Quyền do điều lệ của tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức

quần chúng cho phép hội viên được làm; 4. Quyền do người khác uỷ quyềnNhư
vậy, từ những phân tích trên có thể hiểu, “quyền của người cao tuổi là khả năng
xử sự, những lợi ích mà người cao tuổi được hưởng, những việc mà người cao
tuổi được làm, pháp luật không ngăn cấm và bảo hộ.”[26, tr 395-396]


14
Từ đó cũng có thể thấy “quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân
gia đình là những lợi ích, những việc mà người cao tuổi được làm, được hưởng
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Các thành viên trong gia đình có người
cao tuổi có nghĩa vụ thực hiện, tôn trọng các quyền đó của người cao tuổi và
quyền này được Nhà nước bảo hộ.”
Nói đến các quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình là
nói tới mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình mà cụ thể là mối quan hệ
biện chứng giữa các thành viên trong gia đình có người cao tuổi với người cao
tuổi đó. Và trong trường hợp này, các thành viên trong gia đình có người cao
tuổi chính là chủ thể có nghĩa vụ thực hiện các quyền của người cao tuổi trong
lĩnh vực hôn nhân gia đình. Do đó có thể thấy, nội dung quyền sẽ tập trung chủ
yếu ở các nhóm quyền: quyền kết hôn, ly hôn, quyền về sở hữu tài sản, thừa kế
tài sản, quyền được chăm sóc, phụng dưỡng, được cấp dưỡng; quyền nhận nuôi
con nuôi… Theo đó có thể thấy, đây được coi là những quyền quan trọng nhất
của người cao tuổi nói chung và trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình nói riêng. Bởi
việc sống cùng con cháu, được con cháu tôn trọng, chăm sóc, phụng dưỡng chu
đáo là niềm mong mỏi duy nhất đối với người cao tuổi.
1.2.2. Chính sách và pháp luật quốc tế liên quan đến quyền của người
cao tuổi
1.2.2.1. Các chính sách quốc tế về người cao tuổi.
Năm 1982 Hội nghị thế giới về người cao tuổi đã thông qua Kế hoạch hành
động quốc tế Viên về người cao tuổi. Đây là tài liệu quan trọng hướng dẫn về
các biện pháp mà các Quốc gia thành viên cần áp dụng để bảo vệ quyền của

người cao tuổi trong bối cảnh của các công ước quốc tế về quyền con người.
Năm 1991, Đại hội đồng đã thông qua các nguyên tắc của Liên hợp quốc về
người cao tuổi. Nguyên tắc này được chia làm năm phần, có liên quan chặt chẽ
với các quyền được ghi nhận trong Công ước. Phần thứ nhất, “Độc lập” bao


15
gồm được tiếp cận đầy đủ lương thực, nước uống, nhà ở, quần áo và chăm sóc y
tế; Phần thứ hai, “Tham gia" nghĩa là người cao tuổi cần được tham dự tích cực
vào quá trình hình thành và thực hiện những chính sách có ảnh hưởng đến cuộc
sống của họ và chia sẻ kiến thức và kỹ năng của họ với thế hệ trẻ cả trong gia
đình và ngoài xã hội; Phần thứ ba có tiêu đề “Chăm sóc" chỉ ra rằng, người cao
tuổi phải được hưởng sự chăm sóc của gia đình, chăm sóc y tế, hưởng các quyền
và tự do cơ bản của con người, được hưởng các dịch vụ chăm sóc hay điều trị.
Thứ tư, sự chăm sóc người cao tuổi cần dựa trên nguyên tắc “tự thực hiện”,
nghĩa là để người cao tuổi theo đuổi những cơ hội được phát triển đầy đủ khả
năng của mình thông qua việc tiếp cận với các nguồn lực về giáo dục, văn hóa,
tinh thần và giải trí trong xã hội; Thứ năm, phần có tiêu đề “Nhân phẩm” chỉ ra
rằng người cao tuổi cần được sống trong nhân phẩm và an ninh, không bị lạm
dụng, bóc lột về thể chất và tinh thần, được đối xử công bằng bất kể tuổi tác,
giới tính, chủng tộc, sắc tộc, sự khuyết tật, tình trạng tài chính hay bất cứ một
tình trạng nào khác, và phải đánh giá một cách độc lập những đóng góp kinh tế
của họ.
Năm 1992, đại hội đồng đã thông qua tám mục tiêu toàn cầu về người cao
tuổi cho năm 2001; đồng thời thông qua Tuyên bố về người cao tuổi trong đó có
nhiều nội dung quan trọng như: kêu gọi sự hỗ trợ sáng kiến quốc gia về người
cao tuổi, nhấn mạnh cần thiết công nhận những đóng góp to lớn của phụ nữ cao
tuổi, gia đình được hỗ trợ trong việc chăm sóc và tất cả các thành viên gia đình
được khuyến khích hợp tác để chăm sóc người cao tuổi. Năm 1999 được công
nhận là năm quốc tế của người cao tuổi nhằm cảnh báo rằng dân số của nhân

loại “ bước vào thời kỳ cao tuổi”.
1.2.2.2. Các Điều ước quốc tế về quyền của người cao tuổi.
Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc (năm 1948) và các công ước về
quyền con người (năm 1966) đều khẳng định nguyên tắc bình đẳng của tất cả


16
các thành viên trong xã hội. Theo đó, mọi người đều có quyền không bị phân
biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật.
Các Công ước quốc tế đều không đưa ra quy định cụ thể nào về quyền của
người cao tuổi. Tuy nhiên, người cao tuổi cũng là một thành phần của xã hội,
quyền và nghĩa vụ của họ được pháp luật ghi nhận. Do đó, có thể nói rằng,
người cao tuổi có đầy đủ tất cả các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội. Trên cơ sở đó, xác định quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn
nhân, gia đình sẽ bao gồm các quyền nhân thân và tài sản như: quyền kết hôn, ly
hôn; quyền về sở hữu tài sản, thừa kế tài sản; quyền được con cháu kính trọng,
quyền được chăm sóc, được cấp dưỡng; quyền nhận nuôi con nuôi…
1.2.3. Chính sách và pháp luật Việt Nam về quyền của người cao tuổi
Việt Nam là Quốc gia thành viên của các công ước quốc tế về quyền con
người. Các văn bản pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp đã ghi nhận đầy
đủ các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo pháp
luật Việt Nam, mà cụ thể là Luật người cao tuổi năm 2010 thì, người cao tuổi
được hưởng các quyền sau:
“a) Được bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc
sức khỏe;
b) Quyết định sống chung với con, cháu hoặc sống riêng theo ý muốn;
c) Được ưu tiên sử dụng các dịch vụ theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan;
d) Được tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hoá, giáo dục, thể dục, thể
thao, giải trí, du lịch và nghỉ ngơi;

đ) Được tạo điều kiện làm việc phù hợp với sức khoẻ, nghề nghiệp và các
điều kiện khác để phát huy vai trò người cao tuổi;


17
e) Được miễn các khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội, trừ trường
hợp tự nguyện đóng góp;
g) Được ưu tiên nhận tiền, hiện vật cứu trợ, chăm sóc sức khỏe và chỗ ở
nhằm khắc phục khó khăn ban đầu khi gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc
rủi ro bất khả kháng khác;
h) Được tham gia Hội người cao tuổi Việt Nam theo quy định của Điều
lệ Hội;
i) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.”[20, khoản 1, Điều 3]
Từ những quy định của Luật Người cao tuổi, có thể thấy rằng, sự nhấn
mạnh các quyền này chủ yếu là trên cơ sở các khuyến nghị của Ủy ban Liên hợp
quốc về các biện pháp thúc đẩy thực thi Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa,
xã hội. Còn các quyền trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình lại là nội dung được ghi
nhận trong Công ước về các quyền dân sự và chính trị.
Từ những quyền nêu trên có thể hiểu, nội dung quyền của người cao tuổi
trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình có phần bó hẹp hơn so với nội dung các quyền
của người cao tuổi nói chung bởi có sự khác nhau về đối tượng có nghĩa vụ thực
hiện quyền của người cao tuổi cũng như phạm vi được hưởng quyền. Việc chỉ ra
được các quyền của người cao tuổi trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình sẽ tạo cơ
sở cho việc phân tích thực trạng cũng như đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện
có hiệu quả các quyền đó trên thực tế.
1.3. Quá trình ghi nhận của các chính sách, pháp luật Việt Nam về
quyền của người cao tuổi
1.3.1. Truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc
Chăm sóc, phụng dưỡng người cao tuổi đã trở thành một truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta được kế thừa và phát triển qua nhiều thế hệ. Bắt nguồn từ nền

văn hóa phương đông nói chung và truyền thống văn hóa Việt Nam nói riêng,


18
người cao tuổi luôn được gia đình cũng như toàn xã hội tôn kính. Nhìn lại lịch
sử Việt Nam, trải qua các triều đại, Nhà nước luôn có các chính sách ưu đãi, bảo
vệ các quyền lợi cơ bản của người cao tuổi.
Điều này phải kể tới đầu tiên đó là thời kỳ Lão quyền. Trải qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau với những thăng trầm từ thời công xã thị tộc cho đến khi
chuyển sang công xã nông thôn, Lão quyền vẫn tiếp tục tồn tại và được duy trì
đến nửa đầu thế lỷ XX, biểu hiện ở vị trí vai trò của già làng, người phụ nữ ở
Tây Nguyên, vùng cao hay các bô lão ở đồng bằng... luôn là những người được
tôn kính nhất trong cộng đồng. Đến thời kỳ phong kiến từ thời Trần, Lê và tiếp
sau đó, cùng với Thần quyền, Quân quyền và Tộc quyền, Lão quyền có phần
suy yếu hơn nhưng vẫn tồn tại song song mặc dù không được ghi chép một cách
rõ ràng như trong kho tàng văn hóa dân gian, tuy nhiên vị trí, vai trò của người
cao tuổi vẫn được đề cao.
Đến năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, vua
Trần Thánh Tông đã cho họp các vị bô lão trong Hội nghị Diên Hồng để hỏi kế
đánh giặc. Và với quyết tâm của các vị bô lão có mặt tại Hội nghị là quyết định
giết giặc cứu nước thì đã càng làm cho vai trò của người cao tuổi được nâng cao
trong lịch sử Việt Nam.
Đến thời Lê đã ghi rõ luật Trọng lão trong từng các thôn làng. Theo đó,
hương thôn có người già phải tôn kính, kính trọng, nếu ai không kính nể, dám tự
ngồi ăn cùng một mâm, một chiếu thì lấy tội khinh nhờn mà luận tội, phạt 30
trượng. Ngoài ra còn có chính sách ân xá cho người cao tuổi khi mắc tội. Đối
với việc làng, việc xã thì người cao tuổi cũng luôn là lớp người được Nhà nước,
làng xã coi trọng, giữ các trọng trách quan trọng trong cộng đồng như trưởng
thôn, trưởng xã...
Như vậy, những chính sách của Nhà nước Việt Nam, những hương ước, lệ

làng trong lịch sử nước ta đã tôn vinh, đề cao vai trò của người cao tuổi. Đây có


19
thể coi là tiền đề quan trong để Nhà nước ta có các chính sách mới nhằm chăm
sóc, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cũng như phát huy hơn nữa trí tuệ, tài
năng của người cao tuổi trong công cuộc xây dựng đất nước.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về người cao tuổi
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm tới lớp người cao tuổi
trong xã hội cũng như khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của lớp người cao
tuổi. Người đã từng viết “Trách nhiệm của các vị phụ lão chúng ta đối với nhiệm
vụ đất nước thật là trọng đại. Đất nước hưng thịnh do phụ lão xây dựng, đất
nước tồn tại do phụ lão giúp sức. Nước mất phụ lão cứu. Nước suy sụp phụ lão
phù trì. Nước nhà hưng, suy, tồn, vong, phụ lão đều gánh trách nhiệm rất nặng
nề”[55].
Ngay những ngày đầu thành lập nước, thù trong giặc ngoài, Bác Hồ đã
quan tâm, đánh giá cao và phát huy vai trò của người cao tuổi. Trong những năm
tháng hoạt động cách mạng, Người đã từng nói “Càng già càng anh hùng”,
“Tuổi cao chí khí càng cao, chống Mỹ - cứu nước già nào kém ai”… Người luôn
đánh giá cao vai trò của các tầng lớp nhân dân trong kiến thiết và bảo vệ nền độc
lập nước nhà, trong đó có vai trò tiềm năng của lớp người cao tuổi. Theo Người,
để lớp người cao niên trong xã hội phát huy được vai trò của mình thì việc tiên
quyết là phải đưa người cao tuổi vào sinh hoạt trong một tổ chức nhất định đó là
“Phụ lão cứu quốc hội”. Qua đó Người cũng nêu rõ, đối với người cao tuổi, tuy
sức khỏe không bằng lúc còn trẻ nhưng có những mặt mạnh cơ bản đó là: có
lòng yêu nước nồng nàn, tuổi cao chí khí càng cao, tích lũy được vốn kiến thức,
kinh nghiệm phong phí, có sự tín nhiệm cao...
Có thể thấy, cốt lõi của tư tưởng tiến bộ, toàn diện của Hồ Chí Minh về
người cao tuổi đó là sự kính trọng và niềm tin sâu sắc “người cao tuổi là của
quý vô giá của dân tộc, của đất nước.” Tư tưởng này được thể hiện xuyên suốt

qua cuộc đời của Người. Dù bận trăm công ngàn việc nhưng Người không quên


×