Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới góc độ thực hiện công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ ở Việt Nam (CEDAW)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 122 trang )















































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT









VŨ NGỌC THỦY


QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG DƯỚI GÓC
ĐỘ THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC VỀ XÓA BỎ MỌI HÌNH THỨC

PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM (CEDAW)




LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC



















HÀ NỘI – NĂM 2007









ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT









VŨ NGỌC THỦY


QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG DƯỚI GÓC
ĐỘ THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC VỀ XÓA BỎ MỌI HÌNH THỨC
PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM (CEDAW)


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 60 38 60







LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. CAO ĐỨC THÁI
Viện nghiên cứu quyền con người,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh




HÀ NỘI – NĂM 2007





MỤC LỤC
Ký hiệu viết tắt 1
Mở đầu 2
Chương 1: CEDAW và những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con
người của phụ nữ trong lĩnh vực lao động 5
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người của phụ nữ trong
lĩnh vực lao động 5
1.1.1. Một số nét chính về quyền con người của phụ nữ 6
1.1.2.Vai trò của phụ nữ trong lao động và việc đảm bảo quyền con người
của phụ nữ 9

1.2. Tổng quan các điều ước quốc tế về quyền con người của phụ nữ
trong lĩnh vực lao động và Công ước CEDAW 10
1.2.1. Tổng quan các Điều ước quốc tế về quyền con người của phụ nữ
trong lĩnh vực lao động 10
1.2.2. Sơ lược lịch sử hình thành và vai trò của CEDAW 15
1.2.3. Nội dung các vấn đề pháp lý cơ bản của CEDAW trong lĩnh vực lao
động 19
1.2.4. Nghĩa vụ của Việt Nam – quốc gia thành viên CEDAW 23
Chương 2: Tình hình bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao
động dưới góc độ thực hiện CEDAW ở Việt Nam 26
2.1. Chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta 26
2.1.1. Chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước ta trong
việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động -trước khi Việt
Nam là thành viên của Công ước CEDAW, năm 1981 26
2.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước liên quan đến bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động
được ban hành sau khi Việt Nam tham gia Công ước CEDAW, năm 198129
2.2. Tình hình bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới
góc độ thực thi Công ước CEDAW ở Việt Nam 54
2.2.1. Sơ lược kết quả thực hiện CEDAW ở các nước trên thế giới 54
2.2.2. Tình hình thực hiện CEDAW ở Việt Nam 58
2.3. Thực hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên CEDAW 74
2.3.1. Việc soạn thảo và bảo vệ các báo cáo quốc gia thực hiện Công ước
CEDAW 74
2.3.2. Tuyên truyền nâng cao nhận thức 75
2.3.3. Thiết lập bộ máy vì sự tiến bộ của phụ nữ 77
2.3.4. Chiến lược, Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ 81
2.3.5. Lồng ghép giới với việc bảo đảm quyền lao động của phụ nữ 84
Chương 3: Pháp luật lao động Việt Nam trong việc đảm bảo quyền của
phụ nữ - một số vấn đề đặt ra và biện pháp giải quyết 86

3.1. Pháp luật lao động Việt Nam trong việc đảm bảo quyền của phụ nữ -
một số vấn đề đặt ra 86
3.1.1. Một số quy định mang tính bình đẳng giới trong pháp luật lao động
của nước ta chưa được đảm bảo trên thực tế 86
3.1.2. Một số khuyến nghị của Uỷ ban CEDAW cần được nội luật hoá và
bảo đảm trên thực tế ở Việt Nam 89
3.2. Phương hướng giải quyết 96
3.2.1. Giải pháp chung 96
3.2.2. Giải pháp cụ thể 98
Kết luận 102
Phụ lục 104
Tài liệu tham khảo 107



1

KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Bộ LĐ-
TB&XH
Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội
Bộ NNPTNT
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
CEDAW
Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
Chiến lược
Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam
GDI
Chỉ số phát triển giới
HDI

Chỉ số phát triển con người
ILO
Tổ chức lao động quốc Từ
KHHĐ
Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam
UBQG
Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam
UNDP
Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc
WTO
Tổ chức thương mại thế giới

























2



MỞ ĐẦU

Lao động là lĩnh vực có ý nghĩa then chốt trong mọi nền kinh tế. Vì vậy, để
đánh giá địa vị của người phụ nữ người ta thường nhìn vào việc bảo đảm quyền
của phụ nữ trong lĩnh vực này. Số liệu thống kê cho thấy phụ nữ Việt Nam chiếm
50,8% dân số và 48% lực lượng lao động cả nước. Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động
kinh tế ở nước ta duy trì ở mức cao, năm 2003, tỷ lệ này ở nữ là 68,5%, còn ở
nam là là 75,8%. Các số liệu này cho thấy, phụ nữ đã và đang có những đóng góp
hết sức to lớn trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Nhìn lại lịch sử dân
tộc, từ khi giành được độc lập, trong bối cảnh "vừa kháng chiến vừa kiến quốc”
phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp vô cùng to lớn sức người, sức của, kể cả
sinh mạng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những đóng góp quan
trọng của phụ nữ đã được Bác Hồ ghi nhận: “ Non sông gấm vóc Việt Nam, do
phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ” (Hồ Chí
Minh: đd, t.6, tr432).
Được ký kết vào cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, CEDAW chính là kết
quả của cuộc đấu tranh lâu dài nhằm xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử với phụ
nữ đã tồn tại rất lâu đời ở tất cả các nước trên thế giới. Sự ra đời của CEDAW đã
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh vì bình đẳng giới.
CEDAW là văn kiện pháp lý quốc tế cụ thể hoá Hiến chương Liên hợp quốc,
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các Công ước quốc tế về quyền con

người khác, trong đó có phụ nữ. Một trong những nội dung mà CEDAW đặc biệt
quan tâm là việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động. Sau 25 năm
tồn tại, CEDAW đã có những tác động mạnh mẽ làm thay đổi nhận thức về vai
trò, vị trí của phụ nữ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, sự tồn tại dai
dẳng từ tư tưởng trọng nam hơn nữ của chế độ phụ quyền sẽ vẫn là thách thức
lớn nhất trong cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử với phụ
nữ và mang lại bình đẳng giới cho mọi châu lục.



3
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên tham gia ký kết và phê chuẩn
Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Kể từ
khi CEDAW chính thức có hiệu lực ở Việt Nam, cùng với nhiều biện pháp khác,
Nhà nước ta đã nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia nhằm tạo cơ sở
pháp lý đảm bảo quyền của phụ nữ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực lao
động. Để thực thi CEDAW phù hợp với đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà
nước Việt Nam, nhiều chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền của phụ nữ trong
lao động đã được ban hành, đặc biệt phải kể tới Bộ Luật lao động (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2002) dành một chương riêng quy định về lao động nữ. Ngoài
ra, Thủ tướng đã ra quyết định thành lập cơ quan tư vấn của Thủ tướng trong
việc giám sát tình hình thực hiện CEDAW và các Chiến lược, KHHĐ nhằm đảm
bảo các quyền của phụ nữ, trong đó có quyền lao động.
Hơn 10 năm thi hành, Bộ Luật Lao động năm 1994 đã phát huy vai trò to
lớn trong việc tạo lập hành lang pháp lý điều chỉnh các quan hệ pháp luật lao
động nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ khi tham gia lao động,
góp phần thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Tuy nhiên, từ khi Bộ Luật Lao
động có hiệu lực thi hành và hơn 4 năm sau khi Bộ Luật này được sửa đổi, bổ
sung (năm 2002), thực tiễn cho thấy rằng: quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao
động hầu hết đã được quy định nhưng chưa được đảm bảo thực thi trên thực tiễn,

một số quyền của phụ nữ được đề cập trong CEDAW nhưng chưa được thể hiện
đầy đủ trong pháp luật lao động của nước ta. Đó là những vấn đề như: tuổi hưu
của lao động nữ, lao động nữ khu vực nông thôn chưa được thụ hưởng các chính
sách về bảo hiểm xã hội, điều kiện an toàn, vệ sinh lao động và phương tiện sản
xuất còn thấp kém, tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp cao, cơ chế kiểm tra, giám sát
việc thực thi luật lao động tại các doanh nghiệp còn thiếu hiệu quả đặc biệt, khi
Việt Nam đã gia nhập WTO, những vấn đề nêu trên sẽ là trở ngại lớn của phụ nữ
khi tham gia quan hệ lao động, nhiều phụ nữ có nguy cơ bị sa thải do không đáp
ứng được yêu cầu của doanh nghiệp hoặc chính những quy định bảo vệ phụ nữ
trong lao động sẽ là rào cản khiến các doanh nghiệp từ chối tuyển dụng lao động



4
nữ do bản thân doanh nghiệp chưa thể đáp ứng được yêu cầu mà chính sách,
pháp luật của Nhà nước đề ra…
Vậy làm thế nào để các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền của phụ
nữ trong lĩnh vực lao động được thực thi trên thực tế và các yêu cầu của CEDAW
trong lĩnh vực này được chuyển hoá vào pháp luật Việt Nam? Để trả lời câu hỏi
này, đồng thời cũng là để đánh giá việc thực hiện CEDAW trên bình diện pháp
luật và thực tiễn ở Việt Nam sau 25 năm thực hiện CEDAW và góp phần nâng
cao nhận thức và hiểu biết về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, tác giả
đã chọn đề tài: “Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới góc độ thực
hiện Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ ở Việt Nam”
làm luận văn tốt nghiệp cao học.
Để hoàn thành Luận văn, tác giả đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin thông
qua phương pháp tư duy của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, đặc biệt là hệ Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ thống các khái niệm về quyền
con người và luật quốc tế về quyền con người luôn được tác giả quán triệt trong
quá trình làm luận văn. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng hai phương pháp nghiên

cứu cơ bản là: phương pháp so sánh (luật so sánh): áp dụng cho lĩnh vực quyền
lao động giữa CEDAW và luật quốc gia ; phương pháp phân tích tài liệu được
áp dụng trong việc nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật lao động, nhất
là trong đánh giá thực trạng điều chỉnh của pháp luật, xác định khoảng cách và
mức độ phù hợp của pháp luật thực định so với yêu cầu của thực tiễn. Một số
phương pháp hỗ trợ khác được sử dụng trong quá trình nghiên cứu như: dự báo,
tổng hợp, tài liệu, kế thừa, đặc biệt là phân tích dữ liệu



5
Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1 CEDAW và những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người của phụ
nữ trong lĩnh vực lao động; Chương 2 Tình hình bảo đảm quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực lao động dưới góc độ thực hiện CEDAW ở Việt Nam; Chương 3: Pháp
luật lao động Việt Nam trong việc đảm bảo quyền của phụ nữ - một số vấn đề đặt
ra và biện pháp giải quyết.
Tác giả đã hoàn thành luận văn với sự hướng dẫn khoa học của TS. Cao
Đức Thái – Viện nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Cao Đức Thái cùng sự giúp đỡ
của các thầy cô giáo trong suốt quá trình học và làm luận văn vừa qua.




CHƢƠNG 1
CEDAW VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG

1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con ngƣời của phụ nữ trong

lĩnh vực lao động:
Hồ Chí Minh đã từng nói "Phụ nữ là một lực lượng lao động rất quan
trọng", phụ nữ chiếm một nửa nhân loại. Vì vậy, theo Người "Nếu không giải
phóng phụ nữ là chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa". Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh
rằng: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải sản xuất cho thật nhiều.
Muốn sản xuất nhiều thì phải có nhiều sức lao động. Muốn nhiều sức lao động
thì giải phóng lao động của phụ nữ" (Hồ Chí Minh: đd, t.9,tr523; t.10, tr.225;
t11, tr194).
Chúng ta đều thừa nhận rằng quyền lao động là một trong những quyền
kinh tế - xã hội cơ bản của con người. Phụ nữ chiếm hơn 50% lực lượng lao
động. Do đó, nếu bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, đem lại cho
phụ nữ vị thế bình đẳng như nam giới trong lĩnh vực này cũng có nghĩa là đem lại
cuộc sống với chất lượng tốt hơn cho tất cả mọi người. Hầu hết các nước trên thế



6
giới đều đang ngày càng có sự đồng thuận cao ở mức độ quốc tế rằng nếu phân
biệt về giới được xoá bỏ thì điều này có lợi không chỉ đối với mỗi cá nhân mà còn
đem lại lợi ích cho toàn xã hội, giúp tăng trưởng kinh tế, bảo đảm ổn định chính
trị và công bằng xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có hàng triệu người trên thế
giới đang không có việc làm hoặc không được tham gia vào môi trường lao động
chỉ vì lý do giới tính hay nói rõ hơn chỉ vì họ là phụ nữ. Sự phân biệt đối xử này
đã hạn chế người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo và phụ nữ ở vùng dân tộc
thiểu số không có cơ hội thể hiện quan điểm của mình trong công việc, không
được tham gia một cách dân chủ, bình đẳng tại nơi làm việc và chịu thiệt thòi
trong việc hưởng thụ tiền lương và phúc lợi xã hội. Vì vậy, thực hiện xoá bỏ sự
phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính và bảo đảm quyền của phụ nữ tại nơi làm
việc là thực sự cần thiết. Thực hiện tốt nội dung này sẽ giúp cho mọi cá nhân, đặc
biệt là phụ nữ có thể tự do lựa chọn nghề nghiệp cho riêng mình, từ đó giúp họ

phát triển đầy đủ năng lực và được hưởng thành quả từ sự đóng góp của mình đối
với công việc. Để đạt được sự bình đẳng và dân chủ này, trước hết cần phải tiếp
cận vấn đề từ góc độ bảo đảm quyền con người của phụ nữ.
1.1.1. Một số nét chính về quyền con người của phụ nữ:
Tư tưởng về quyền con người xuất hiện từ rất sớm, song quyền con người -
pháp luật về quyền con người chỉ ra đời khi có nhà nước và pháp luật. Những
điều kiện cơ bản cho sự ra đời của quyền con người, gắn với chủ nghĩa tư bản, đó
là xã hội công dân, kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền. Điều đó không có
nghĩa chủ nghĩa tư bản là điều kiện và cơ hội tốt nhất cho việc bảo đảm quyền
con người. Quyền con người là một phạm trù lịch sử, bị giới hạn bởi các điều
kiện lịch sử cụ thể.
Quyền con người được phản ánh qua các học thuyết triết học và một số đạo
luật nổi tiếng của các quốc gia phát triển sớm trên thế giới như Anh, Pháp, Mỹ.
Từ thế kỷ XVIII, khái niệm này được đề cập trong bản Tuyên ngôn độc lập nổi
tiếng của Mỹ năm 1776: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo
hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy
có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tiếp theo đó, bản



7
Tuyên ngôn nhân quyền và Tuyên ngôn dân quyền của Pháp năm 1789 cũng
khẳng định: Mọi người sinh ra đều tự do, bình đẳng về các quyền
Ở nước ta, trong Tuyên ngôn độc lập, tiếp đó là Hiến pháp năm 1946 đã có
nhiều quy định về quyền con người dưới hình thức các quyền công dân. Tuy
nhiên, phải đến khi Liên Hợp quốc ra đời với Hiến chương Liên hợp quốc năm
1945, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và các điều ước quốc tế
về quyền con người ra đời thì quyền con người mới bắt đầu một quá trình mới,
quá trình quốc tế hoá, đồng thời chính thức trở thành chủ đề quan trọng, thường
xuyên được đề cập trong quan hệ quốc tế. Hiến chương Liên Hiệp quốc 1945,

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 được coi là những văn kiện đánh
dấu bước ngoặt của vấn đề quyền con người trong lịch sử nhân loại, biến một vấn
đề của quốc gia trở thành một vấn đề cơ bản liên quan đến mỗi con người và các
quốc gia được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế. Một trong những nguyên tắc của
quyền con người là quyền bình đẳng giữa các thành viên, trong đó, phụ nữ cũng
như nam giới đều được đảm bảo các quyền con người như nhau trong pháp luật
quốc tế và quốc gia.
Cuộc đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ đã diễn ra trong nhiều thời
kỳ lịch sử. Thông qua các cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ của phụ nữ trên khắp
thế giới, quyền của phụ nữ dần được phát triển. Các cuộc đấu tranh này xuất hiện
trong những hoàn cảnh khác nhau và gắn với hiện thực kinh tế, chính trị, xã hội
đa dạng ở các thời kỳ khác nhau. Ở chế độ thực dân, để xác định vai trò của mình
trong xã hội, phụ nữ đấu tranh để đòi bảo đảm quyền lao động, quyền được trả
lương bình đẳng, quyền dân sự và tự do. Đến khi chiến tranh thế giới thứ hai kết
thúc, quyền của phụ nữ đã được ghi nhận, điều này đã được thể hiện rõ trong
Hiến chương Liên hợp quốc, đặc biệt là bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người, năm 1948.
Vậy khái niệm quyền con người là gì? Quyền con người là quyền của tất cả
mọi người. Đó là nhân phẩm nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có của con người
được luật quốc tế và luật quốc gia ghi nhận. Quyền con người là một phạm trù



8
lịch sử, là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của nhân loại vươn tới những
lý tưởng giải phóng hoàn toàn cho con người và xây dựng một xã hội công bằng,
dân chủ, nhân đạo. Quyền con người là những quyền không thể chuyển nhượng
hay nói cách khác là quyền gắn liền với mỗi con người. Quyền con người là sở
hữu vốn có của mỗi con người bất kể địa vị của họ trong nền văn hoá, hệ thống
luật pháp hoặc chính trị cụ thể nào và không bị hạn chế bởi bất cứ yếu tố nào về

chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo và giới tính. Sự hiện hữu của quyền con
người phụ thuộc vào sự tồn tại của con người chứ không phụ thuộc vào hoàn
cảnh hoặc hệ thống xã hội mà người đó đang sinh sống. Quyền con người được
quốc tế thừa nhận và hình thành nên một chuẩn mực tối thiểu để tất cả mọi người
phải tuân theo ở mọi nơi, không phân biệt vùng và lãnh thổ. Việc các quốc gia
tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người có nghĩa các quốc gia đã chấp
nhận sự ràng buộc về mặt pháp lý theo công ước, có nghĩa vụ thực hiện Công ước
hoặc không tuân thủ áp dụng các quyền con người nào được quy định trong các
điều ước quốc tế mà họ đã tham gia.
Bình đẳng và không phân biệt đối xử là những nguyên tắc cơ bản của
quyền con người.d Khái niệm bình đẳng giới không chỉ có nghĩa là phụ nữ và
nam giới được đối xử giống nhau. Người ta đều công nhận rằng phụ nữ và nam
giới có những đặc điểm khác nhau về giới tính. Sự khác biệt về giới chủ yếu do
khuôn mẫu văn hoá của mỗi quốc gia tạo nên. Phụ nữ và nam giới cũng có những
vai trò quan trọng khác nhau trong việc xây dựng và phát triển xã hội và có
những nhu cầu khác nhau. Do đó, Nhà nước cần xem xét sự khác biệt này trong
quá trình xây dựng và thực thi chính sách để thúc đẩy việc bảo đảm quyền con
người và mang lại bình đẳng cho cả nam giới và phụ nữ.
Thực tiễn cho thấy, mặc dù trong những năm gần đây, khái niệm bình đẳng
giới đã được nhiều quốc gia chấp nhận và phong trào đấu tranh cho bình đẳng
giới cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể song phụ nữ ở mọi quốc gia trên
thế giới vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới. Phụ nữ vẫn đang là nạn
nhân của tệ phân biệt đối xử trong gia đình, ngoài xã hội cũng như ở công sở.



9
Như vậy, có thể nói quyền công dân, quyền con người của phụ nữ còn bị vi phạm
dưới nhiều hình thức khác nhau mà chưa có các biện pháp xử lý có hiệu quả.
Bất bình đẳng về giới là một trong những lý do dẫn tới việc thế giới hình

thành khái niệm “chuẩn mực quốc tế về quyền con người của phụ nữ”. Khái niệm
này cụ thể hoá các điều khoản quy định về quyền tự do và bình đẳng của phụ nữ
với tư cách là tập hợp các quyền con người. Theo đó, các khía cạnh bình đẳng về
địa vị, cơ hội và mức độ thụ hưởng phúc lợi của phụ nữ được đề cập đầy đủ, các
hành vi phân biệt đối xử - trực tiếp và gián tiếp - được chỉ rõ cùng với các
phương thức bảo đảm cho phụ nữ được hưởng các quyền theo luật định. Cùng với
sự phát triển của nhận thức loài người, dưới ánh sáng của khoa học-công nghệ
mới, chuẩn mực quốc tế về quyền con người của phụ nữ ngày càng được bổ sung
đầy đủ hơn.
Kế thừa và tôn trọng những luận điểm trên, Việt Nam cũng đã, đang và sẽ
tiếp tục áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quyền con người nói chung và quyền
con người của phụ nữ nói riêng ở Việt Nam. Các văn kiện của Đại hội Đảng toàn
quốc những năm gần đây luôn đề cập tới nội dung về bảo đảm quyền con người
của phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện các quyền của mình. Các khái
niệm giới, bình đẳng giới mà quốc tế đưa ra nhằm thiết lập lại quyền con người
của phụ nữ cũng đã dần dần trở nên phổ cập ở nước ta. Việt Nam cũng đã tích
cực tham gia các công ước quốc tế liên quan đến quyền con người của phụ nữ và
của lao động nữ.
1.1.2. Vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực lao động:
Quyền lao động là một trong các quyền kinh tế - xã hội cơ bản của con
người. Theo báo cáo của Liên hợp quốc, phụ nữ hiện đang ghánh vác gần 75%
thời gian lao động, bao gồm cả lao động xã hội lẫn lao động trong gia đình.
Nói về vai trò của người phụ nữ trong xã hội, S. Furier - người theo chủ
nghĩa xã hội học không tưởng của Pháp đã từng nhận định: "Mức độ giải phóng
phụ nữ là thước đo trình độ phát triển của xã hội". Danh ngôn cổ Trung quốc
cũng có câu: "Phụ nữ đỡ nửa bầu trời". Sự đúc kết đó đã nói lên vị trí, vai trò của
người phụ nữ trong xã hội. Cuộc đấu tranh nhằm phục hồi lại các quyền của phụ




10
nữ nói chung và lao động nữ nói riêng đang diễn ra trên toàn thế giới và đây
không còn là vấn đề riêng của một quốc gia nào. Ở nước ta, Bác Hồ cũng đã
khẳng định: "Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức
dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” (Hồ Chí Minh: đd, t.6, tr432).
Ngày nay, tỉ trọng của lao động nữ trong lực lượng lao động đang có xu
hướng gia tăng. Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong giảm nghèo và thúc đẩy sự
phát triển của con người. Thông qua các hoạt động như chăm sóc gia đình, sản
xuất nông nghiệp và làm công ăn lương - phụ nữ có tác động tích cực không chỉ
trong lao động gia đình mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội.
Trên toàn cầu, số lượng và ảnh hưởng của các vị trí công việc do phụ nữ
đảm trách đang tăng lên. Phụ nữ đã tham gia vào các lĩnh vực và làm những việc
mà trước đây chủ yếu là đặc quyền của nam giới. Bên cạnh những thay đổi lớn
đó, phụ nữ vẫn chưa thực sự được đảm bảo bình đẳng về cơ hội và đối xử như
nam giới trong lĩnh vực lao động. Phần lớn lao động nữ vẫn chỉ làm một số việc
không cần kỹ năng, nhiều lao động nữ vẫn phải nhận lương ít hơn đồng nghiệp
nam cho cùng một công việc. Ở những nước phát triển và các nước đang phát
triển số phụ nữ bị thất nghiệp nhiều hơn nam giới và họ chịu nhiều ảnh hưởng
tiêu cực hơn nam giới khi kinh tế suy thoái. Điều này làm suy giảm những thành
tựu mà vất vả lắm phụ nữ mới đạt được. Lao động nữ còn phải đối mặt với những
thách thức khác như: vẫn phải chịu những hạn chế về văn hoá, kinh tế và xã hội;
phụ nữ tiếp tục phải ghánh vác những trách nhiệm trong gia đình, công việc và
những khó khăn hàng ngày trong cuộc sống; phải chịu áp lực nhiều hơn nam giới
trước tình hình kinh tế của đất nước, trước những đổi mới công nghệ, điều chỉnh
cơ cấu và những đổi thay trong thị trường lao động; phụ nữ hay bị giao những
công việc không ổn định, tạm thời, không có hợp đồng, làm ngắn hạn và gia
công Những thách thức này làm cho phụ nữ luôn cảm thấy tự ti và dễ bị gạt ra
ngoài lề cuộc sống, phụ nữ luôn phải làm việc quá sức, thậm chí phải làm những
công việc trong môi trường độc hại như trong hầm lò, vệ sinh môi trường




11
Để rút ngắn khoảng cách giới và bảo đảm được quyền lợi của phụ nữ nói
chung và lao động nữ nói riêng, Liên hợp quốc và các nước đã áp dụng nhiều
biện pháp tích cực, tuy nhiên, trên thực tế cho đến nay vẫn chưa có nước nào
được công nhận là đã đạt được bình đẳng giới thực chất. Bên cạnh phương pháp
tiếp cận phát triển và tiếp cận giới, nhiều nước hiện nay đang quan tâm sử dụng
phương pháp tiếp cận quyền để bảo đảm cho phụ nữ được tôn trọng nhân phẩm
và phát triển bền vững. Phương pháp tiếp cận quyền cho phép chúng ta xem xét
vấn đề vai trò và sự tham gia của phụ nữ một cách tổng thể, không thiên kiến và
chủ yếu dựa trên các quy định mang tính pháp lý về quyền tự do, bình đẳng của
con người. Do vậy, nó hoàn toàn khác với quan điểm "ưu tiên" cho phụ nữ. Ngày
nay, phụ nữ đã ý thức cao hơn về quyền lợi của mình. Họ chủ động tham gia và
hoạt động tốt trên nhiều lĩnh vực.
1.2. Tổng quan các điều ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời của phụ nữ trong
lĩnh vực lao động và Công ƣớc CEDAW:
1.2.1 Tổng quan các điều ước quốc tế về quyền con người của phụ nữ trong
lĩnh vực lao động:
Cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc, Hiến chương Liên hợp quốc xác
định mục tiêu của Liên hợp quốc và các quốc gia thành viên là tôn trọng, khuyến
khích và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho con người, không phân biệt
chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo và coi đó là một trong những điều
kiện quan trọng của công cuộc gìn giữ hoà bình và tiến bộ trên toàn thế giới. Với
tư cách một tổ chức pháp lý lớn nhất trên thế giới có trên 190 quốc gia thành
viên, Liên hợp quốc thừa nhận và khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong hệ
thống của mình. Điều 8 của Hiến chương Liên hợp quốc nêu rõ: “Liên hợp quốc
không đưa ra bất kỳ mặt hạn chế nào về việc phụ nữ và nam giới được quyền
tham gia vào bất cứ công việc gì trên cương vị bình đẳng vào các cơ quan chính
và trực thuộc của Liên hợp quốc”. Trong thực tiễn hơn 50 năm hoạt động của

mình, Liên hợp quốc đã tuân thủ nghiêm các quy định trên và đã có những biện
pháp rất tích cực để tăng cường số lượng phụ nữ trong bộ máy của mình.



12
Kể từ khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời đến nay đã có rất nhiều điều ước
quốc tế liên quan đến quyền con người nói chung và quyền con người của phụ nữ
nói riêng được ban hành. Tính đến nay đã có trên 50 Công ước, tuyên ngôn, các
điều lệ và tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền con người. 50 văn kiện này xác
lập các chuẩn mực quốc tế về quyền con người dựa trên 3 văn kiện chính - được
coi là "Bộ luật quốc tế về quyền con người", đó là: Tuyên ngôn thế giới về quyền
con người năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966;
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội năm 1966.
 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên Hợp quốc
thông qua năm 1948. Đây là văn kiện đầu tiên, văn bản “gốc” cho "Bộ luật
quốc tế về quyền con người" và được coi như "một thành tựu chung của tất cả
các quốc gia, dân tộc". Bản tuyên ngôn đề cập đến quyền tự do cơ bản của tất
cả mọi người, bất kể đàn ông hay phụ nữ, ở bất cứ nơi nào trên thế giới, không
có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn là khẳng
định quyền tự do và bình đẳng là quyền cố hữu và không thể chuyển nhượng
của con người (Điều 1). Điều 2 đề cập tới nguyên tắc cơ bản về bình đẳng và
không phân biệt đối xử trong việc thụ hưởng các quyền tự do và bình đẳng của
con người, đồng thời nghiêm cấm bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, kể cả về
phương diện giới tính. Điều 23 quy định mỗi người đều có quyền làm việc, tự
do chọn nghề nghiệp, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính
đáng, được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp; được trả lương xứng đáng và
hợp lý để đảm bảo cho bản thân và gia đình một cuộc sống có đầy đủ giá trị
nhân phẩm , được trợ cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo hiểm xã hội
khác; được thành lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệ quyền lợi của mọi

người. Điều 24 quy định quyền nghỉ ngơi và giải trí bao gồm được giới hạn
hợp lý số giờ làm việc và nghỉ phép định kỳ hưởng lương. Tuyên ngôn quy
định rõ quyền của tất cả mọi người - phụ nữ và nam giới được đối xử như mọi
thành viên trong xã hội, quyền được bảo trợ xã hội, được làm việc, được tham
gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, được tiếp cận các dịch vụ công
cộng… Như vậy, bên cạnh các quyền về dân sự - chính trị, Tuyên ngôn đề cập



13
đến các quyền tham gia vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, trong đó có
quyền làm việc của con người. Tất cả những quyền này được đảm bảo cho cả
nam và nữ trên cơ sở sự thừa nhận chung là con người sinh ra tự do và bình
đẳng về phẩm giá và các quyền và rằng họ được phú cho lý trí, lương tri và
đạo đức, cho nên họ phải được thụ hưởng các quyền và tự do tất yếu, một cách
bình đẳng, không phân biệt giới tính.
 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) được Đại hội
đồng Liên Hợp quốc thông qua năm 1966, có hiệu lực năm 1976 sau khi có 35
quốc gia cùng phê chuẩn. Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982. Đây là văn kiện
pháp lý quốc tế cơ bản quan trọng nhất về các quyền dân sự, chính trị của con
người. Công ước ghi nhận quyền của tất cả mọi người về dân sự, chính trị
(Điều 25) và quy định tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và
được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng (Điều 26).
 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua năm 1966, có hiệu lực năm 1976 sau khi có 35 quốc
gia ký và phê chuẩn. Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982. Liên quan tới lĩnh
vực lao động-việc làm của phụ nữ, Công ước thừa nhận quyền làm việc,
quyền của mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự lựa chọn
hoặc chấp thuận và trách nhiệm của các quốc gia thành viên tạo công ăn việc
làm đầy đủ và hữu ích với điều kiện đảm bảo quyền tự do cơ bản về chính trị,

kinh tế của từng cá nhân. Điều 6 yêu cầu bảo đảm điều kiện làm việc cho phụ
nữ không kém nam giới và được tin cậy như nhau đối với cùng công việc như
nhau và “cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt từ công
việc của mình lên chức vụ thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và khả
năng làm việc” (khoản c). Điều 13 quy định mọi người có quyền được giáo
dục - đây là tiền đề cơ bản cho việc tiếp cận và thụ hưởng các quyền con
người và là điều kiện cho họ tham gia một cách có hiệu quả vào xã hội, thúc
đẩy sự hiểu biết chung. Điều 15 quy định quyền tham gia vào đời sống văn
hóa, hưởng các lợi ích từ tiến bộ khoa học và được bảo hộ các quyền lợi vật
chất, tinh thần từ các hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân. Ở đây quyền được



14
hưởng đời sống văn hóa bao gồm cả quyền bình đẳng trong tiếp cận thông tin,
hưởng lợi các thành quả khoa học công nghệ tiên tiến là một vấn đề mấu chốt.
Bởi vì thực tế cho thấy chính do thiếu thông tin, thiếu hiểu biết không làm chủ
được các thiết bị mới, trong đó có công nghệ thông tin - truyền thông mà một
bộ phận khá đông đảo phụ nữ đã bị loại dần khỏi xã hội.
Công ước có các quy định cụ thể như quyền được lao động trong các điều
kiện công bằng và thuận lợi có bảo trợ xã hội, quyền có mức sống xứng đáng và
có những chuẩn mực cao nhất về sức khoẻ thể chất và tinh thần, quyền được giáo
dục và hưởng các lợi ích từ tiến bộ khoa ọc và văn hóa. Dựa trên nguyên tắc
quyền không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau của các quyền con người, các
quyền được nêu trên ngày càng được các quốc gia quan tâm hơn. Quy định này
góp phần bảo đảm quyền con người cho mọi công dân, đặc biệt là phụ nữ. Theo
quy định “nghĩa vụ công dân”, các quyền đó cần được thực hiện ngày càng tốt
hơn tương ứng với các điều kiện phát triển của đất nước. Điều này mang lại một
lợi ích to lớn cho việc đáp ứng các nhu cầu thực tiễn, trước mắt của phụ nữ và trẻ
em gái về việc làm, thu nhập, giáo dục cơ bản, chăm sóc sức khỏe. Khi các nhu

cầu thực tiễn này được đảm bảo, chúng sẽ tạo ra nền tảng vững chắc cho việc đáp
ứng các lợi ích chiến lược của phụ nữ, đó là việc nâng cao vị thế của họ trong gia
đình và ngoài xã hội. Năng lực làm việc của phụ nữ do đó ngày càng được nâng
cao hơn. Quy định không phân biệt đối xử nêu trong Điều 2 của Công ước này
yêu cầu các quốc gia tham gia Công ước phải rà soát luật pháp, chính sách và đề
ra các giải pháp để loại trừ mọi hình thức, biểu hiện phân biệt đối xử trên cơ sở
giới.
Nghiên cứu và phân tích các quy định liên quan đến phụ nữ trong văn kiện
của "Bộ luật quốc tế về quyền con người" cho thấy về mặt pháp lý phụ nữ có
quyền được hưởng đầy đủ các quyền tự do và bình đẳng trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội ngang bằng với nam giới. Trong lĩnh vực lao động - việc làm, nhà
nước không chỉ có trách nhiệm bảo hộ các quyền của phụ nữ mà còn phải tạo ra
các điều kiện và cơ hội thuận lợi cho phụ nữ được phát triển bình đẳng như nam



15
giới, nhằm bù đắp một phần sức lực phụ nữ đã bỏ ra để tái sản xuất sức lao động
cho xã hội thông qua việc sinh đẻ.
Có thể nói, mặc dù trong điều kiện cộng đồng quốc tế hiện nay vẫn đang
tồn tại sự khác biệt về hệ tư tưởng, chế độ xã hội, truyền thống và bản sắc văn
hoá, Bộ luật quốc tế về quyền con người vẫn được xem như nền tảng tinh thần, cơ
sở đạo lý và pháp lý chung của cộng đồng quốc tế. Và kể từ khi ra đời đến nay,
các văn kiện trong "Bộ luật quốc tế về quyền con người" luôn được thừa nhận
như Hiến pháp của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền (Viện nghiên
cứu quyền con người, Luật quốc tế về quyền con người, tr73) và có ảnh hưởng
sâu sắc tới tất cả các văn kiện của Liên hợp quốc, trong đó có các văn kiện về
bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ.
 Tổ chức Lao động thế giới (ILO) và các điều ước liên quan đến lao động
nữ:

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã ghi nhận tình trạng phân biệt đối xử
với lao động nữ là phổ biến. Cùng với các Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế
khác, ILO đã ban hành nhiều Công ước nhằm đảm bảo quyền và nâng cao địa vị
của người phụ nữ trong lĩnh vực lao động, tiêu biểu là các Công ước như: Công
ước 45 (1935) về sử dụng lao động nữ vào những công việc dưới mặt đất, trong
hầm mỏ; Công ước số 100 (1951) về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao
động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau; Công ước số 111 (1958) về
phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp; Công ước 156 (1981) về bình
đẳng cơ may và đối xử với lao động có trách nhiệm gia đình…
Công ước số 100 và Công ước số 111 là hai trong số những công ước nêu
trên của ILO được nước ta phê chuẩn đầu tiên sau khi tái gia nhập ILO năm 1992
(Việt Nam phê chuẩn 2 công ước này vào năm 1997). Đây là hai công ước được
đánh giá là có ảnh hưởng nhiều nhất tới việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực lao động. Công ước 100 khẳng định: “trả công bình đẳng giữa lao động
nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau” là các mức trả công
được ấn định không phân biệt đối xử về giới tính. Khái niệm “trả công” được



16
hiểu bao gồm tiền lương cơ bản hoặc tiền đãi ngộ và các thù lao khác được trả
trực tiếp hoặc gián tiếp bằng tiền hoặc hiện vật do người sử dụng lao động trả cho
người lao động từ việc làm của người lao động. Mức trả công chênh lệch giữa
những người lao động không xét giới tính mà là tương ứng với sự khác biệt trong
công việc được xác định và đánh giá khách quan được Công ước coi là không trái
với nguyên tắc bình đẳng trong trả công nêu trên.
Công ước 111 về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp ra đời với
mục đích chấm dứt sự phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. Theo
Công ước này sự “phân biệt đối xử” bao hàm bất cứ sự phân biệt, loại trừ hay ưu
tiên nào dẫn đến sự đối xử bất công hoặc tước đi cơ hội trong công việc vì những

lý do không liên quan tới năng lực của người lao động (ví dụ như giới tính, tuổi
tác…). Công ước cũng chỉ ra những trường hợp không bị coi là phân biệt đối xử
bao gồm: sự phân biệt đối xử dựa trên các yêu cầu hợp lý của công việc (ví dụ:
giới tính- người phục vụ hay dọn nhà vệ sinh là nam hay nữ); các biện pháp bảo
vệ đặc biệt hoặc trợ giúp đặc biệt được quy định trong các công ước và khuyến
nghị của ILO (VD: bảo vệ lao động nữ đang mang thai không phải làm đêm –
C.Ư 171); những biện pháp đặc biệt – sau khi có ý kiến của các tổ chức đại diện
của người sử dụng lao động, người lao động- nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của
những người mà việc bảo vệ họ hoặc sự trợ giúp đối với họ được thừa nhận là cần
thiết vì những lý do như giới tính, độ tuổi, gánh nặng gia đình
1.2.2. Sơ lƣợc lịch sử hình thành và vai trò của CEDAW:
Xuất phát từ những khó khăn trong việc đấu tranh đòi quyền con người cho
phụ nữ, Liên hợp quốc đã có nhiều nỗ lực để cải thiện tình hình. Trước hết phải
kể tới sự ra đời của bản Tuyên bố về xoá bỏ tất cả mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ năm 1967. Có thể nói bản Tuyên bố là Dự thảo quan trọng của
CEDAW khi đưa ra một cách tiếp cận mới trong việc bảo đảm các quyền con
người của phụ nữ. Tuyên bố yêu cầu các quốc gia bảo đảm quyền bình đẳng của
phụ nữ với nam giới trước pháp luật. Tuy nhiên, Tuyên bố không phải là một văn
kiện pháp lý nên chưa đủ hiệu lực để ngăn ngừa tình trạng phân biệt đối xử với



17
phụ nữ đang diễn ra khá phổ biến và ngày càng có tính chất nghiêm trọng trên
toàn cầu. Nhận thấy cần phải xây dựng một luật đặc biệt nhằm thúc đẩy và bảo vệ
quyền của phụ nữ, ngày 18/12/1979, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã phê chuẩn
Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Convention on
the Elimination of all Forms of Discrimination Against Women – CEDAW).
Công ước này đã cụ thể hoá các tiêu chuẩn nhân quyền thiếu nhạy cảm đối với
phụ nữ. Điểm khác biệt so với các công ước về quyền con người của phụ nữ

trước đây là không tập trung xác định các quyền của phụ nữ mà chỉ hướng vào
những cách thức, biện pháp nhằm loại trừ những sự phân biệt đối xử với phụ
nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người. Nói cách khác, mục đích cuối
cùng của CEDAW là muốn trao cho phụ nữ những quyền con người mà đã được
pháp luật quốc tế thừa nhận nhưng trên thực tế chưa được hưởng do họ còn chịu
phân biệt đối xử về giới. Đây là sự tiếp nối hoàn chỉnh nhất của các công ước,
tuyên bố về quyền con người của phụ nữ trước đó như: Công ước về các quyền
chính trị của phụ nữ 1952, Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm
1957, Công ước về trấn áp tội buôn người và bóc lột mại dâm người khác năm
1949, Tuyên bố thế giới về quyền con người 1948, Tuyên bố về việc xoá bỏ phân
biệt đối xử với phụ nữ 1976…Có thể nói, trong hệ thống các điều ước quốc tế về
quyền con người đang ngày càng phát triển thì CEDAW đang giữ một vị trí rất
quan trọng. Sự ra đời của CEDAW xuất phát từ nhận thức quan trọng của Luật
quốc tế về quyền con người, đó là bình đẳng trở thành thước đo giá trị của phẩm
giá và quyền cơ bản của con người trong xã hội (Hiến chương Liên hợp quốc đã
chính thức khẳng định bình đẳng giữa nam và nữ là một trong yếu tố quan trọng
làm nên phẩm giá và giá trị của các quyền con người). Trên bình diện pháp luật,
kể từ khi Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (1948) được ban hành thì vấn
đề không phân biệt đối xử, tự do, bình đẳng trở thành nguyên tắc chủ đạo của
Luật quốc tế về quyền con người và được ghi nhận trong hàng loạt các văn kiện
quốc tế trước khi CEDAW ra đời. Mặc dù rất nhiều công ước quốc tế về quyền
con người ra đời trước khi CEDAW được ban hành và được thể chế hoá vào pháp
luật quốc gia nhưng nhưng tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn đang là



18
một thực tiễn khá phổ biến ở các nước trên thế giới. Sự phân biệt đối xử này đã
gây khó khăn cho việc phát huy đầy đủ các tiềm năng phụ nữ khi tham gia vào
các lĩnh vực của đời sống. Theo thống kê của nhiều quốc gia, phụ nữ thường

chiếm đa số trong diện những người nghèo khổ, mù chữ, thất học và có thu nhâp
thấp. Phụ nữ luôn bị hạnc hế trong việc tham gia các hoạt động xã hội và không
được đánh giá đúng công sức đóng góp của họ trong lao động gia đình. Tất cả
nhưng điều này đã phủ nhận một thực tế đã được khẳng định là sự phát triển bền
vững của một đất nước không thể thiếu vai trò dóng góp của phụ nữ. Cựu Tổng
thư ký Liên hợp quốc B.Gali đã từng nhận định: Phụ nữ chiếm hơn một nửa nhân
loại nhưng chưa có quốc gia nào trên thế giới đối xử với phụ nữ một cách xứng
đáng với địa vị của họ. Để khắc phục thực trạng trên, CEDAW đã ra đời với mục
đích cao cả là nhằm trả lại những giá trị đích thực cho những cống hiến của phụ
nữ vào sự phát triển của xã hội và cộng đồng quốc tế cũng như những đóng góp
của họ đối với gia đình và xã hội.
Kết cấu của CEDAW gồm lời nói đầu, 6 phần và 30 điều khoản. Ngay
trong phần mở đầu, Công ước đã xác nhận rằng: Sự phân biệt đối xử với phụ nữ
vẫn đang là một vấn đề nghiêm trọng trên thế giới và chính nó đã vi phạm các
nguyên tắc về quyền bình đẳng và tôn trọng phẩm giá con người, là một trở ngại
đối với việc phụ nữ tham gia vào đời sống chính trị, xã hội, kinh tế và văn hoá,
cản trở sự tăng trưởng của xã hội và gia đình, gây khó khăn cho sự phát triển đầy
đủ các khả năng tiềm tàng của phụ nữ trong việc phục vụ đất nước và loài người.
Xuất phát từ quan điểm này, các nhà soạn thảo Công ước đã xây dựng các
điều khoản pháp lý cụ thể, theo đó, quy định các nước thành viên tham gia công
ước có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp nhằm xoá bỏ các hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như: dân sự, chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hoá. Công ước đã đề cập tới nhiều lĩnh vực cụ thể như: giáo
dục, gia đình, phân công lao động, cơ hội, nghề nghiệp, lương bổng…Công ước
cũng đề cập đến một số quy chế và cơ chế để thực hiện Công ước này.
Nội dung cơ bản của CEDAW là hướng vào các cách thức, biện pháp nhằm
loại trừ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong thụ hưởng các quyền con người




19
đã được quy định trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, từng bước xoá bỏ sự
phân biệt đối xử giữa nam và nữ. CEDAW đã chỉ ra những lĩnh vực cụ thể hiện
đang tồn tại sự phân biệt đối xới phụ nữ, từ đó, quy định những biện pháp thích
hợp nhằm xoá bỏ hoàn toàn tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình cũng như
ngoài xã hội.
Sự ra đời của CEDAW đã thu hút được sự quan tâm, ủng hộ của nhiều
quốc gia và các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ trên toàn thế giới. Ngày
3/9/1981, sau khi được nước thứ 20 thông qua, Công ước này bắt đầu có hiệu lực
với tư cách là một văn kiện quốc tế tổng hợp nhất về bảo đảm quyền của phụ nữ
và bình đẳng giới. Công ước là kết quả của hơn 30 năm đấu tranh nhằm chống lại
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ do Uỷ ban về địa vị phụ nữ của Liên
Hợp quốc thực hiện. Tính đến nay đã 25 năm trôi qua, kể từ khi CEDAW chính
thức có hiệu lực, đã có 179 quốc gia ký kết và phê chuẩn Công ước này (chiếm
92% số thành viên LHQ). Các nước thành viên đã và đang sử dụng Công ước như
một công cụ trong cuộc đấu tranh bảo đảm quyền cho phụ nữ và bình đẳng giới
nhằm tiến tới một xã hội tiến bộ, công bằng và phát triển bền vững.
Mặc dù Công ước được ký kết từ năm 1979 và có hiệu lực vào năm 1981
nhưng vấn đề bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ như nam giới chỉ được thừa
nhận trên lý thuyết. Mãi đến năm 1993 - khoảng một thập kỷ sau các quốc gia
mới chấp nhận và tuyên bố khẳng định các quyền của phụ nữ là quyền con người
và là quyền “không thể chuyển nhượng, không thể tách rời" của con người. Sự
ghi nhận này đã góp phần hình thành nên sự toàn vẹn về quyền con người mà
Liên hợp quốc đã đề cập trước đó (Tuyên bố Viên và Chương trình hành
động,1993, UN GAOR,).
Để đảm bảo CEDAW được thực hiện quả, 6/10/1999, Đại hội đồng Liên
hợp quốc đã thông qua Nghị định thư không bắt buộc của CEDAW về Uỷ ban
xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ. Uỷ ban này có nhiệm vụ xem xét các
kháng thư của cá nhân và nhóm cá nhân khiếu nại về việc quyền lợi của họ hoặc
của người họ dại diện bị quốc gia thành viên vi phạm. Nghị định thư này bắt đầu




20
có hiệu lực từ ngày 22/12/2000. Đến tháng 9/2005, Nghị định thư này đã có 72
quốc gia tham gia (hiện Việt Nam chưa tham gia).
1.2.3. Nội dung các vấn đề pháp lý cơ bản của CEDAW trong lĩnh vực lao
động:
Đối với phụ nữ, quyền được tham gia bình đẳng như nam giới trong lĩnh
vực lao động là một quyền thiết yếu và quan trọng. Với mục tiêu loại trừ sự phân
biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực lao động, CEDAW dành riêng điều 11 để
quy định các nội dung này.
"1. Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xóa
bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực việc làm nhằm đảm bảo
những quyền như nhau trên cơ sở bình đẳng nam nữ, đặc biệt là:
a. Quyền được làm việc, một quyền không thể chối bỏ của mọi con người;
b. Quyền hưởng các cơ hội có việc làm như nhau, kể cả việc áp dụng những tiêu
chuẩn như nhau khi tuyển dụng lao động;
c. Quyền tự do lựa chọn ngành nghề và việc làm, quyền được thăng chức, bảo
đảm việc làm, mọi phúc lợi và điều kiện làm việc và quyền được theo học những
chương trình đào tạo và bổ túc nghiệp vụ, kể cả các lớp dạy nghề, các lớp nghiệp
vụ cao cấp và lớp đào tạo định kỳ;
d. Quyền được hưởng thù lao như nhau, kể cả các phúc lợi, và được đối xử như
nhau khi làm những việc có giá trị ngang nhau, cũng như được đối xử như nhau
trong việc đánh giá chất lượng công việc;
e. Quyền được hưởng bảo hiểm xã hội, đặc biệt trong các trường hợp về hưu, thất
nghiệp, đau ốm, tàn tật, tuổi già và các tình trạng mất khả năng lao động khác,
cũng như quyền được nghỉ phép có hưởng lương;
f. Quyền được bảo vệ sức khoẻ và bảo đảm an toàn lao động, kể cả bảo vệ chức
năng sinh đẻ.

2. Nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử với phụ nữ vì lý do hôn nhân hay sinh đẻ,
để bảo đảm thực sự cho phụ nữ có quyền làm việc, các nước tham gia Công ước
phải áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm:



21
a. Ngăn chặn và trừng phạt trong trường hợp xảy ra việc sa thải phụ nữ với lý do
có thai hay nghỉ đẻ và sa thải phụ nữ vì lý do hôn nhân;
b. Áp dụng chế độ nghỉ đẻ vẫn hưởng lương hoặc được hưởng các phúc lợi
xã hội tương đương mà không bị mất việc làm cũ, mất thâm niên, hay các
phụ cấp xã hội;
c. Khuyến khích việc cung cấp những dịch vụ xã hội cần thiết hỗ trợ cho các bậc
cha mẹ để họ có thể kết hợp các nghĩa vụ gia đình với trách nhiệm công tác và
tham gia sinh hoạt xã hội, đặc biệt bằng cách đẩy mạnh việc thiết lập và phát
triển hệ thống nhà trẻ và trường mẫu giáo;
d. Đảm bảo một sự bảo vệ đặc biệt đối với phụ nữ trong thời kỳ mang thai trong
những loại công việc có hại cho họ.
3. Các quy định pháp lý về việc bảo vệ liên quan đến những vấn đề được đề
cập trong điều này phải được xem xét lại theo định kỳ dưới ánh sáng của các kiến
thức khoa học và kỹ thuật và phải được sửa đổi, huỷ bỏ hoặc mở rộng nếu cần
thiết."
Ngoài các quy định trên, Uỷ ban CEDAW cũng đưa ra những khuyến nghị
liên quan tới lĩnh vực này như: Đề nghị phê chuẩn Công ước 100 của Tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO) về việc thực thi nguyên tắc trả công bình đẳng cho công
việc có giá trị như nhau (Khuyến nghị chung số 13); Quốc gia có nghĩa vụ tiến
hành các bước bảo vệ an sinh và phúc lợi xã hội cho phụ nữ đang làm ở các xí
nghiệp tư nhân (Khuyến nghị chung số 16); Xác định quấy rối tình dục là một
hình thức phân biệt đối xử về giới ở nơi làm việc và công nhận rằng nó sẽ làm
giảm sự bình đẳng của phụ nữ trong việc làm. Khuyến nghị đặc biệt đề xuất tới

các cơ hội đào tạo và việc làm, giám sát các điều kiện của công nhân nội địa để
bảo vệ phụ nữ khỏi hình thức bạo lực này (Điều khoản 17, 18, 24 mục p- Khuyến
nghị chung số 19).
Để đảm bảo cho phụ nữ được hưởng đầy đủ các quyền con người, trong đó
có các quyền nêu trên, Công ước CEDAW đã quy định ba nguyên tắc cơ bản, đó
là: bình đẳng, không phân biệt đối xử và nghĩa vụ quốc gia. Ba nguyên tắc tạo

×