Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nâng cao khả năng sinh sản của trâu cái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN KHẢ TÚ

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT NÂNG CAO KHẢ NĂNG SIN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

THÁI NGUYÊN - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN KHẢ TÚ

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT NÂNG CAO KHẢ NĂNG SINH
Chuyên ngành: Chăn nuôi Mã số: 60.62.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đức Hùng

THÁI NGUYÊN - 2017


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho một học vị nào. Mọi sự
giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, tài
liệu trình bày trong luận văn này được ghi từ nguồn gốc trong phần phụ lục và


nhật ký thí nghiệm.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2017
Học viên
Nguyễn Khả Tú


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực phấn đấu của
bản thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của nhiều cá nhân,
đơn vị và tập thể khác.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS.
Nguyễn Đức Hùng - Đại học Thái Nguyên, TS. Nguyễn Văn Đại và Ths. Vũ
Đình Ngoan, Ths. Tạ Văn Cần, Ks. Nguyễn Huy Huân - Trung tâm Nghiên
cứu và Phát triển Chăn nuôi Miền núi, những người đã dành nhiều thời gian,
tâm huyết chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong trường Đại học Nông
lâm Thái Nguyên nói chung, khoa Chăn nuôi nói riêng đã giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu và
Phát triển Chăn nuôi Miền núi và toàn thể cán bộ công nhân viên của Trung
tâm, những người luôn sắn lòng giúp đỡ tôi hoàn thành tốt đề tài này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè và đồng nghiệp luôn giúp
đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên và nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát
triển Chăn nuôi Miền núi.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2017
Học viên
Nguyễn Khả Tú



3

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...............................................................................................i
LỜI CẢM ƠN................................................................................................... ii
MỤC LỤC........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................1
2. Mục tiêu của đề tài.........................................................................................2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU.............................................................3
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI........................................................... 3
1.1.1. Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục của trâu cái.........................3
1.1.2. Sự rụng trứng và hình thành thể vàng......................................................8
1.1.3. Đặc điểm sinh lý sinh dục của trâu cái.................................................... 9
1.1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của trâu cái........................16
1.1.5. Công nghệ thụ tinh nhân tạo và các giải pháp nâng cao khả năng
sinh sản cho trâu.............................................................................................. 19
1.1.6. Giới thiệu một số hormone sinh dục dùng trong nghiên cứu.................26
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC....................27
1.2.1. Nghiên cứu trong nước.......................................................................... 27
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài.......................................................32
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU...............................................................................................34
2.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU........................................34
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................34
2.1.2. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu............................................................. 34
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI NGHIÊN CỨU.....................................................34
2.2.1. Địa điểm nghiên cưu..............................................................................34

2.2.2 Thời gian nghiên cứu..............................................................................34
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.....................................................................34


4

2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................ 35
2.4.1. Đánh giá thực trạng khả năng sinh sản của đàn trâu..............................35
2.4.2. Nghiên cứu cải tiến kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cho trâu........................ 37
2.4.3. Nghiên cứu ứng dụng CIDR, PMSG và PGF2nhằm rút ngắn tuổi
động dục lần đầu và nâng cao hiệu quả phối giống nhân tạo.......................... 39
2.5. CÁC CHỈ TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP THEO DÕI.................................40
2.5.1. Tuổi động dục lần đầu (tháng):..............................................................40
2.5.2.Tuổi phối giống lần đầu (tháng):............................................................ 40
2.5.3. Khoảng cách lứa đẻ (tháng):..................................................................40
2.5.4. Chu kỳ động dục (ngày):....................................................................... 40
2.5.5. Thời gian động dục (ngày):................................................................... 41
2.5.6. Thời gian động dục lại sau đẻ (ngày):................................................... 41
2.5.7. Tỷ lệ động dục (%)................................................................................ 41
2.5.8. Tỷ lệ đậu thai (có chửa) (%)..................................................................41
2.5.9. Tỷ lệ đẻ (%)...........................................................................................41
2.6. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU.........................................................41
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN....................................................42
3.1. Khả năng sinh sản của đàn trâu cái ở một số địa phương khảo sát...........42
3.2. Biểu hiện động dục và thời điểm động dục ở trâu....................................48
3.3. Ảnh hưởng của thời điểm phối giống đến kết quả thụ thai.......................53
3.4. Ảnh hưởng của các phương pháp phối giống đến kết quả thụ thai...........56
3.5. Ảnh hưởng của các phương pháp phát hiện động dục, xác định thời
điểm phối giống thích hợp đến tỷ lệ phát hiện động dục và phối giống
đậu thai của trâu...............................................................................................59

3.6. Kết quả ứng dụng CIDR, PMSG và PGF2nhằm rút ngắn tuổi động
dục lần đầu và hiệu quả phối giống đậu thai....................................................61
3.6.1. Kết quả theo dõi động dục tự nhiên và phối giống................................62
3.6.2. Kết quả sử dụng hormone sinh dục gây động dục và phối giống..........64


5

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ............................................................................69
1. Kết luận........................................................................................................69
2. Đề nghị........................................................................................................ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................71
PHỤ LỤC....................................................................................................... 83


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trâu là động vật nuôi rất quan trọng của nông dân Việt Nam, là loài
cung cấp chủ yếu sức kéo, thịt, sữa chất lượng cao; đồng thời trâu còn cung
cấp phân bón cho cây trồng và là một nguồn vốn tiết kiệm góp phần cải thiện
cuộc sống của người nông dân. Đặc biệt, trâu có khả năng chuyển đổi các loại
thức ăn thô xơ kém chất lượng thành sản phẩm thịt, sữa có chất lượng cao tốt
hơn so với bò, do vậy chúng là vật nuôi có vai trò quan trọng ở những vùng
khó khăn và với những nông hộ nghèo, chăn nuôi nhỏ lẻ (Cruz, 2006)[54].
Việt Nam thuộc nhóm những quốc gia có đàn trâu lớn trên thế giới,
nhưng nhìn chung trâu Việt Nam có khả năng sinh sản thấp. Các nghiên cứu về
sinh lý sinh sản của trâu cho thấy khả năng sinh sản của trâu nội hiện khá
thấp. Số liệu công bố gần nhất cho thấy, chỉ có 15% trâu cái tơ đẻ lứa đầu

dưới 4 năm tuổi; 14% trâu có nhịp đẻ dưới 18 tháng/lứa; tỷ lệ đẻ trung
bình hàng năm thấp hơn 50%; tỷ lệ trâu có chửa trong đàn cái sinh sản là
42% (Nguyễn Đức Chuyên và cs, 2003[15]; Đào Lan Nhi và cs, 2004[28]);
thời gian động dục lại sau khi đẻ 5-7 tháng; trên 30% trâu cái có vấn đề về
sinh sản.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sinh sản của trâu thấp, trong đó
đặc điểm sinh lý sinh dục, sinh sản của trâu cái đóng vai trò rất quan trọng.
Tuổi động dục lần đầu của trâu cái muộn. Trâu thường có biểu hiện động dục
không không rõ ràng, thời điểm động dục thường xuất hiện vào ban đêm, khó
nhận biết bằng các quan sát lâm sàng, động dục của trâu mang tính mùa vụ rõ
rệt, sự liên quan của các biểu hiện động dục với thời điểm rụng trứng chưa
được xác định chính xác, thời gian rụng trứng biến động lớn giữa các cá thể,
động dục lại sau đẻ muộn.... Vì vậy, việc thụ tinh nhân tạo cho trâu cái thường


đạt hiệu quả thấp do việc việc phát hiện động dục và xác định thời điểm phối
giống thích hợp không chính xác.
Phối giống nhân tạo đã trở thành kỹ thuật phổ được ứng dụng rộng rãi
trên bò, nhưng bị hạn chế ở trâu do các lý do nêu trên. Nhiều nghiên cứu chỉ
ra rằng kỹ thuật phát hiện động dục, xác định thời gian phối giống cho trâu cái
là vấn đề tồn tại chủ yếu trong việc nâng cao khả năng sinh sản của trâu.
Ngoài ra, việc cải thiện hoạt động sinh lý sinh dục, hoạt động của buồng trứng
cũng góp phần quan trọng nâng cao khả năng sinh sản của trâu cái.
Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu một
số biện pháp kỹ thuật nâng cao khả năng sinh sản của trâu cái”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá thực trạng khả năng sinh sản của đàn trâu ở một số tỉnh
miền núi và trung du phía Bắc.
- Xác định hiệu quả của một số biện pháp kỹ thuật (phát hiện động dục,
thời điểm phối giống thích hợp, phương pháp dẫn tinh và sử dụng hormone

sinh dục) trong việc nâng cao khả năng sinh sản của trâu cái.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Bổ sung các số liệu khoa học về thực trạng khả năng sinh sản của trâu
cái nuôi tại một số tỉnh trung du, miền núi phía Bắc và hiệu quả của một số
biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản của trâu cái
- Góp phần xây dựng quy trình thụ tinh nhân tạo cho trâu cái hiệu quả.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Khuyến cáo với người chăn nuôi trâu về việc ứng dụng các biện pháp
kỹ thuật để phát hiện động dục và sử dụng hormone sinh dục nhằm nâng cao
khả năng sinh sản cho trâu cái.
- Phục vụ chương trình phát triển đàn trâu của Việt Nam.


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục của trâu cái
Sinh sản là chức năng đặc biệt của gia súc cái. Đó là một quá trình sinh
lý vô cùng phức tạp. Vì vậy việc hiểu biết chắc chắn về cấu tạo và chức năng
cơ quan sinh dục trâu cái sẽ giúp thực hiện thành công những biện pháp kỹ
thuật, nhất là trong các trường hợp can thiệp chậm sinh, mà không làm ảnh
hưởng đến sinh lý bình thường của chúng.
Bộ máy sinh dục của trâu cái nhìn chung giống như của bò cái,
nhưng cũng có một số đặc điểm khác biệt so với bò. Nhìn từ ngoài vào
trong, cơ quan sinh dục trâu cái gồm các phần chính là: Âm hộ, âm vật,
âm đạo, tử cung, ống dẫn trứng và buồng trứng (Nguyễn Xuân Trạch và cs,
2008)[45]
1.1.1.1. Âm hộ
Âm hộ là bộ phận sinh dục ngoài, gồm có tiền đình và những phần

liên quan của âm môn. Tiền đình là giới hạn giữa âm môn và âm đạo, dài 10 –
12 cm, chỗ giáp giới giữa âm đạo và tiền đình có lỗ ra của niệu quản và
thường có một cái mào (màng trinh). Âm môn gồm tiểu âm môn và đại âm
môn. Âm vật nằm ở góc phía dưới hai mép của âm môn. Về cấu tạo, âm vật
có các thể hổng giống như dương vật con đực, trên âm vật có nếp da tạo ra
mũ âm vật (Nguyễn Đức Hùng và cs, 2003)[23]. Âm vật có nhiều đầu mút
thần kinh giao cảm và có khả năng cương cứng khi động dục. Trong thực tiễn,
khi dẫn tinh cho gia súc cái, các dẫn tinh viên thường xoa bóp nhẹ vào âm vật,
kích thích hưng phấn để tử cung nhu động, tạo ra các cơn co thắt (Nguyễn
Đức Hùng và cs, 2003)[23].
1.1.1.2. Âm đạo
Âm đạo trâu có hình ống, thành mỏng và rất đàn hồi, có chiều dài từ 24
- 30 cm với nhiều lớp vách cơ. Cách mép âm hộ 10 cm phía trong dọc theo


đáy âm đạo là ống dẫn nước tiểu từ bàng quang đổ vào trong âm đạo gần túi
thừa niệu đạo (Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2008)[45]. Âm đạo là cơ quan đa
chức năng, vừa là cơ quan giao cấu, vừa là nơi đào thải nước tiểu và các chất
dịch của cơ đường sinh dục cái. Trong giao phối, tinh thanh không được vận
chuyển vào trong tử cung mà phần lớn thải ra ngoài hoặc hấp phụ qua vách
âm đạo; âm đạo là con đường bài xuất các chất tiết của cổ tử cung, nội mạc tử
cung và ống dẫn trứng (Nguyễn Đức Hùng và cs, 2003)[23].
1.1.1.3. Cổ tử cung
Cổ tử cung là nơi nối giữa âm đạo và tử cung. Cổ tử cung có kích thước
tăng dần với độ tuổi, thường dài từ 3 – 10 cm, đường kính 1,5 – 6 cm, hơi
cứng hơn so với các bộ phận khác của cơ quan sinh sản và thường được định
vị bằng cách sờ nhẹ xung quanh vùng đáy chậu (Nguyễn Xuân Trạch và cs,
2008)[45]. Vị trí của cổ tử cung sẽ thay đổi theo tuổi của trâu, bò cái và giai
đoạn có chửa. Nhìn chung, cổ tử cung của trâu hẹp và khúc khuỷu hơn ở hơn
cổ tử cung của bò, số vòng nhẫn trong cổ thường là 3 vòng và miệng cổ tử

cung của trâu trong thời kỳ động dục không mở rộng như của bò (Nguyễn
Tấn Anh, 2003)[3].
Cổ tử cung có đặc trưng là một thành dày và một xoang chật hẹp, rãnh
cổ tử cung được đặc trưng bằng những mấu lồi. Ở động vật nhai lại, những
mấu này có dạng nằm ngang hoặc xếp lồng xoắn vào nhau như những vòng
nhẫn và phát triển với mức độ khác nhau tùy loài (Nguyễn Đức Hùng và cs,
2003)[23]. Niêm mạc cổ tử cung có nhiều nếp gấp ngang hoặc xoắn không
đều nhau tạo thành những thuỳ gọi là “thuỳ hoa nở” – “vòng nhẫn”. Thuỳ
ngoài cùng nhô vào âm đạo 0,5 – 1,0 cm nhìn bên ngoài như hoa cúc đại đoá,
các nếp nhăn này tạo thành những van khép để bảo vệ vật lạ không lọt vào tử
cung (Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2008)[45].
Cổ tử cung có vai trò rất quan trọng trong quá trình sinh sản: Là nơi
tiếp nhận tinh trùng, giúp tinh trùng di chuyển vào xoang tử cung được dễ
dàng hoặc không cho tinh trùng xâm nhập nếu gia súc không động dục; là nơi


hình hình thành các ổ chứa tinh trùng; chọn lọc tinh trùng sống, ngăn cản sự
vận chuyển của tinh trùng chết và tinh trùng có khuyết tật; đồng thời tham gia
vào quá trình kiện toàn năng lực thụ tinh của tinh trùng (Nguyễn Đức Hùng
và cs, 2003)[23]. Khi gia súc có chửa, cổ tử cung tiết ra một loại dịch nhờn có
độ nhớt cao, dầy, đặc, bịt kín cổ tử cung, có vai trò chống lại sự xâm nhập của
tinh trùng, vi khuẩn và vật lạ vào tử cung. Chỉ khi đẻ cổ tử cung mới mở ra
bằng cách dịch nút cổ tử cung lỏng ra, cổ tử cung dãn ra để cho thai và màng
nhau đẩy ra ngoài.
1.1.1.4. Tử cung
Tử cung trâu bao gồm thân và 2 sừng tử cung, nằm toàn bộ trong xoang
chậu, khi đã đẻ nhiều lứa thì tử cung lùi vào xoang bụng. Tử cung là nơi làm
tổ của hợp tử và phát triển của thai sau này.
Thân tử cung là phần nối giữa sừng và cổ tử cung, dài khoảng 2 – 3 cm,
sau đó tách ra thành 2 sừng. Khi sờ khám có cảm giác thân tử cung dài hơn vì

các sừng tử cung được liên kết với nhau bởi dây chằng trong khoảng 10 – 12
cm, sau đó mới tách ra làm hai (Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2008)[45]. Nhìn
chung, thân tử cung của trâu ngắn hơn ở bò (Nguyễn Tấn Anh, 2003)[3].
Sừng tử cung của trâu thuộc dạng chẻ đôi, gồm sừng trái và sừng phải,
có độ dài khoảng 30 - 40 cm, có đường kính từ 2 cm trở lên (Nguyễn Xuân
Trạch và cs, 2008)[45]. Ở trâu, 2 sừng tử cung tiếp giáp với thân tử cung dính
lại với nhau tạo thành một lõm hình lòng máng phía trên của tử cung – gọi là
rãnh giữa tử cung, dài 3 – 5 cm, có tác dụng phân biệt tử cung lúc bình
thường, lúc có chửa hay bệnh lý. Sừng tử cung là nơi làm tổ của hợp tử, sau
đó phát phát triển thành phôi và thai. Sừng tử cung có thành dày, đàn hồi và
có nhiều mạch máu để nuôi thai.
Tử cung có chức năng quan trọng trong sinh sản của gia súc cái. Theo
Nguyễn Đức Hùng và cs (2003)[23], tử cung có các chức năng chính sau:
- Vận chuyển tinh trùng: Lúc giao phối, sự co thắt của tử cung là cần
thiết giúp sự vận chuyển của tinh trùng từ vị trí phóng tinh đến vị trí thụ tinh.


- Điều hòa chức năng của thể vàng: Tử cung giữ vai trò quan trọng
trong việc điều khiển chức năng của thể vàng. Các thí nghiệm trên bò, cừu,
lợn cho thấy thể vàng được duy trì hoạt động trong một thời gian dài sau khi
cắt bỏ tử cung. Nếu cắt bỏ còn sót lại một ít mô tử cung, sự thoái hóa thể vàng
xảy ra và chu kỳ động dục mới được bắt đầu sau một thời gian. Nếu cắt bỏ
một bên sừng tử cung, thể vàng cùng bên với sừng tử cung này thường được
duy trì lâu hơn so với thể vàng bên sừng tử cung không bị cắt bỏ.
- Làm tổ và chửa đẻ: Tử cung là cơ quan chuyên biệt hóa cao độ, nó
được thích nghi để chấp nhận và nuôi dưỡng các sản phẩm của sự thụ thai từ
lúc làm tổ cho đến lúc đẻ. Sau khi hợp tử làm tổ, sự phát triển của phôi phụ
thuộc vào sự cung cấp máu đầy đủ trong nội mạc tử cung. Trong suốt thời kỳ
có chửa, các đặc điểm sinh lý học của nội mạc tử cung và việc cung cấp máu
có ý nghĩa quyết định sự sống còn và phát triển của thai. Khi đẻ, tử cung co

bóp mạnh để tống thai ra ngoài. Sau khi đẻ, tử cung hầu như trở lại kích thước
ban đầu bằng một quá trính gọi là co dạ con (co tử cung).
Thời gian sau đẻ diễn ra quá trình phá hủy mô nội mạc tử cung kèm
theo sự có mặt của một số lượng lớn bạch cầu cùng với việc giảm thấp lòng
mạch nội mạc tử cung. Các tế bào cơ tử cung giảm về số lượng và kích thước.
Những biến đổi nhanh chóng và không cân đối này có thể là một nguyên nhân
làm cho tỷ lệ thụ thai sau khi đẻ giảm thấp.
1.1.1.5. Ống dẫn trứng
Ống dẫn trứng (hay vòi Fallop) nằm ở màng treo buồng trứng gồm một
đôi ống ngoằn ngoèo bắt đầu từ cạnh buồng trứng kéo dài đến đỉnh của sừng
tử cung. Ống dẫn trứng dài khoảng 20 – 25 cm, đường kính khoảng 1- 2 mm
(Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2008)[45]. Một đầu ống dẫn trứng xuất phát từ
đầu chóp sừng tử cung, còn đầu kia gắn với loa kèn. Ống dẫn trứng của trâu
thô cứng và ẩn sâu trong dây chằng rộng so với bò (Nguyễn Tấn Anh,
2003)[3]. Loa kèn là một màng mỏng rộng 20 – 30 cm2 bao phủ toàn bộ
buồng trứng (Hoàng Kim Giao và cs, 1997)[21]. Ống dẫn trứng được chia


thành bốn đoạn, có chức năng khác nhau, gồm: đoạn tua diềm – phễu – phồng
ống dẫn trứng và đoạn eo của ống dẫn trứng (Nguyễn Tấn Anh, 2003)[3].
Ống dẫn trứng có chức năng như một chiếc ống để tế bào trứng di chuyển và
đồng thời cũng là nơi tế bào trứng và tinh trùng gặp nhau để xảy ra quá trình
thụ tinh. Sự thụ tinh xảy ra ở khoảng 1/3 phía trên ống dẫn trứng.
1.1.1.6. Buồng trứng
Trâu cái có hai buồng trứng hình trái xoan, kích thước buồng trứng trâu
thường nhỏ hơn so với buồng trứng bò cùng lứa tuổi và tầm vóc. Kích thước
trung bình của buồng trứng ở trâu trưởng thành khoảng 4 cm x 3 cm x 1,5 cm,
thay đổi tùy thuộc vào tuổi và giống. Buồng trứng có thể dễ dàng sờ thấy dọc
theo phía bên cạnh sừng tử cung. Những người có kinh nghiệm có khả năng
phát hiện các cấu trúc trên buồng trứng (Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2008)

[45]. Kích thước buồng trứng có biến động giữa các trâu cái, buồng trứng
hoạt động thì lớn hơn buồng trứng không hoạt động.
Buồng trứng có hai chức năng chính là sinh sản ra tế bào trứng và tiết
các hormone tham gia điều khiển chu kỳ sinh sản của trâu cái. Trứng được
hình thành ở buồng trứng từ những noãn bao nguyên thuỷ, đó là sự diễn biến
nối tiếp giai đoạn phát triển khác nhau của nang trứng. Quá trình này được
nhiều tác giả miêu tả như sau: Các noãn bào nguyên thuỷ tích luỹ chất dinh
dưỡng, tăng kích thước, khối lượng và hình thành các noãn bao sơ cấp
(Primary oocyte), có một lớp tế bào hình khối bao bọc, lớn lên thành nang thứ
cấp (Secondary oocyte) có 2 lớp tế bào hạt bao bọc (Hafez và cs, 1987)[59].
Nang thứ cấp bắt đầu hình thành xoang nang chứa dịch trong suốt rồi phát
triển thành nang trứng cấp 3 (Tertiary oocyte), nang trứng này phát triển và
trở thành nang trứng chín (Graffian Follicular).
Trong mỗi chu kỳ, trâu cái thường chỉ có một nang trứng phát triển
thành nang chín (nang Graff). Theo nhiều tác giả, đó là nang trứng nhạy nhất,
đang phát triển dở dang ở chu kỳ trước. Nang Gaff là một nang có hốc, cấu
tạo gồm: Vỏ ngoài nang (là các sợi liên kết bọc lấy nang); trong lớp vỏ có các


tế bào tuyến, màng tế bào hạt (có khoảng 10 – 15 lớp). Noãn trưởng thành
chứa nhiều dịch nang. Dịch nang có nhiều Estrogen (chủ yếu là 17Estradiol), Progesterone khi sắp rụng trứng, một số hoạt chất sinh học như
histamim, plasmin và một số enzym khác. Tất cả đều đóng vai trò quan trọng
trong cơ chế gây rụng trứng.
Trứng phát triển trong các noãn bao (hay nang trứng) nằm trên bề mặt
của buồng trứng. Lúc trứng sắp rụng, các bao noãn rất mềm và linh động, với
kích thước đường kính khoảng 2 – 2,5 cm (Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2008)[45].
1.1.2. Sự rụng trứng và hình thành thể vàng
Dưới tác dụng của FSH và LH, thể tích noãn bao tăng do lượng dịch
trong xoang noãn bao nhiều lên, làm noãn bao nổi trên bề mặt buồng trứng.
Do hiện tượng “cao áp” bên trong nang trứng cùng sự phân giải màng

Colagen của nang trứng, xảy ra hiện tượng rụng trứng. Ngay sau khi dịch tiết
đầy trong xoang, trong nang trứng bắt đầu tăng tiết progesteron và các
progestin khác, sau đó là estradiol và prostagladin F2(PGF2). Progesteron
tăng lên làm tăng nhanh sự hoạt động của plasmin. Dưới tác động của plasmin
và collagenase, sợi collagen của lớp vỏ nang bị phân giải. Hoạt tính của
plasmin đạt tối đa tại đỉnh nang. Vật chất sinh học như histamin tăng lên
nhanh chóng trong nang trứng làm tăng tính thấm mạch quản. Lớp tế bào hạt
bị “lutein hoá”, collagen tan chảy trên phía đỉnh của nang, đồng thời PGF2và
oxytocin làm co sợi cơ trơn trên vách nang, kết quả là nang trứng bị vỡ, noãn
nang được giải phóng ra khỏi nang trứng, gọi là hiện tượng rụng trứng.
Sau khi trứng rụng, tại chỗ rụng trứng hình thành một xoang, từ ngày
1 đến ngày 4 gọi là thể huyết, từ ngày thứ 5 trở đi trở thành thể vàng và có
khả năng tiết progesteron. Tại đây, các tế bào vỏ lớp trong và các tế bào hạt bị
thoái hoá nhanh chóng hình thành 2 loại, là tế bào lớn và tế bào nhỏ, gọi là sự
“lutein hoá” (Nguyễn Tấn Anh và cs, 1995)[1]. Sự “lutein hoá” này trùng
khớp với hiện tượng tăng tiết progesteron, điều này được giải thích là do sự


có mặt của các tế bào lớn và tế bào nhỏ của thể vàng, trong đó tế bào lớn tiết
nhiều progesteron hơn.
Thể vàng là một thể rắn, màu vàng, có khả năng sản sinh progesteron
và các progestin khác, có tác dụng an thai. Tuy nhiên thể vàng đang phát triển
của trâu có màu xám nhạt, vào cuối giai đoạn chửa thể vàng có mầu nâu
(Nguyễn Tấn Anh, 2003)[3]. Thể vàng khi thành thục có đường kính 20 – 25
mm (đạt kích thước tối đa sau rụng trứng 9-10 ngày). Nếu trâu không thụ thai,
thể vàng bắt đầu thoái hoá vào ngày 17-18 của chu kỳ dưới tác dụng của
PGF2. Nếu trâu được thụ tinh, có thai thì thể vàng tồn tại gần hết thời gian có
chửa.
Chức năng chủ yếu của thể vàng là tiết progesteron. Các tài liệu
nghiên cứu về động thái progesteron đều chỉ ra rằng, hàm lượng progesteron

đạt thấp nhất vào ngày động dục, sau đó bắt đầu tăng vào ngày thứ 3 – 4 của
chu kỳ, tăng nhanh từ ngày 9 – 18 của chu kỳ, rồi giảm dần đến trước ngày
động dục của chu kì sau (Chung Anh Dũng, 2001)[18]. Xuxoep A.A
(1985)[49] cũng cho biết, hàm lượng progesteron tăng dần từ ngày thứ 4 – 5
của chu kỳ động dục, cao nhất vào ngày 13 – 15, sau đó giảm rất chậm, đến
ngày thứ 17 – 18 thì giảm rất thấp, giảm rất nhanh từ sau ngày 18 và đạt mức
thấp nhất vào ngày 20 – 21 của chu kỳ.
Việc xác định động thái của progesteron trong một chu kỳ động dục
có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn. Nó phản ánh tình trạng hoạt động của
buồng trứng một cách rõ ràng và cụ thể, trên cơ sở đó để đề ra các biện pháp
nâng cao khả năng sinh sản cho trâu cái.
1.1.3. Đặc điểm sinh lý sinh dục của trâu cái
1.1.3.1. Sự thành thục tính dục
Tuổi thành thục tính dục (tuổi dậy thì – puberty) ở trâu cái được xác
định là độ tuổi động dục lần đầu tiên có trứng rụng. Tuổi thành thục tính dục
được kiểm soát bởi những cơ chế nhất định về sinh lý, kể cả các tuyến sinh
dục và thùy trước tuyến yên, do đó có thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, cả
di truyền và ngoại cảnh (Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2008)[45]. Tuổi thành


thục về tính đến sớm hơn tuổi thành thục về tầm vóc. Trâu, bò thường động
dục khi khối lượng cơ thể đạt 60 – 70% khối lượng trưởng thành (J. Derivaux
và F. Ectors, 1989)[81]. Khi mức độ dinh dưỡng thấp sẽ kéo dài tuổi
thành thục về tầm vóc và thường đi kèm với tuổi thành thục về tính dục
muộn (Nguyễn Văn Bình và cs, 2007)[5]. Những giống trâu, bò lớn thường
phải đạt tới sự tích lũy nhất định về khối lượng mới xuất hiện thành thục
về tính, vì vậy, tuổi thành thục về tính của các giống trâu, bò có tầm vóc
lớn thường chậm hơn trâu, bò có tầm vóc nhỏ.
Tuổi động dục lần đầu của trâu thường muộn hơn bò và phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, như: giống, cá thể, chế độ dinh dưỡng, vùng sinh thái, phương

thức chăn nuôi, chế độ quản lý.... Nguyễn Tấn Anh (2003)[3] cho biết, tuổi
động dục lần đầu trung bình của trâu là 30,52 tháng tuổi (biến động từ 13 – 52
tháng tuổi), trong khi đó, tuổi động dục của bò châu Âu trung bình từ 8-11
tháng tuổi (Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2008)[45]; bò vàng Việt Nam động dục
lần đầu lúc 9 – 10 tháng tuổi (Nguyễn Mạnh Hà và cs, 2012)[22]; trâu Murrah
là 29,4 tháng tuổi (Cao Xuân Thìn, 1987)[39] và 34 tháng tuổi (Nguyễn Văn
Bình và cs, 2007)[5]; trâu Azecbaizan là 24 tháng tuổi và trâu Bulgari là 2123 tháng tuổi (Nguyễn Đức Thạc, 2006)[35]; trâu Ai Cập là 15-18 tháng tuổi
(Nguyễn Văn Bình và cs, 2007)[5]. Nguyễn Đức Thạc (2006)[35] cũng cho
biết, trâu cái Việt Nam thường động dục sau trên 2 năm tuổi và biểu hiện
động dục lần đầu thường không rõ, tuy nhiên cá biệt cũng có trâu cái động
dục lần đầu lúc 18 tháng tuổi.
1.1.3.2. Chu kỳ động dục
Sau tuổi thành thục tính dục, buồng trứng có hoạt động chức năng và
con vật có biểu hiện động dục theo chu kỳ. Chu kỳ động dục bao gồm các sự
kiện để chuẩn bị cho giao phối, thụ tinh và mang thai (Nguyễn Xuân Trạch và
cs, 2008)[45]. Nếu sự mang thai không xảy ra, chu kỳ động dục lại được lặp
lại. Thời gian của chu kỳ động dục được tính từ lần động dục này đến lần
động dục tiếp theo.


Nguyễn Tấn Anh (2003)[3] cho biết, chu kỳ động dục trung bình của
trâu là 24 ngày (biến động 21 – 30 ngày), thời gian động dục trung bình 29
giờ (biến động 12-72 giờ), thời gian rụng trứng trung bình diễn ra lúc 20-22
giờ sau khi bắt đầu động dục, thời gian động dục lại sau đẻ là 120-130 ngày
(biến động 45 – 365 ngày). Các đặc điểm sinh lý, sinh dục của trâu biến động
trong phạm vi khá lớn và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như giống, tuổi, cá thể,
vùng sinh thái chăn nuôi, điều kiện dinh dưỡng, phương thức chăn nuôi, chế
độ quản lý...
Theo Nguyễn Đức Thạc (2006)[35] và Nguyễn Xuân Trạch và cs,
2008)[45], chu kỳ động dục của trâu được chia thành 4 giai đoạn, gồm: Giai

đoạn trước chịu đực (còn gọi là giai đoạn trước động hớn thực thụ); giai đoạn
chịu đực (còn gọi là giai đoạn động hớn thực thụ); giai đoạn sau chịu đực (còn
gọi là giai đoạn sau rụng trứng) và giai đoạn giữa 2 kỳ động dục (còn gọi là
giai đoạn yên tĩnh hay cân bằng).
Nguyễn Văn Bình và cs (2007)[5] và Nguyễn Đức Thạc (2006)[35] lại
chia thời gian động dục của trâu thành 3 giai đoạn, gồm giai đoạn tiền động
dục (trước động dục), động dục (chịu đực) và sau động dục (sau chịu đực),
trong đó giai đoạn tiền động dục và động dục có ý nghĩa quan trọng trong
thực tiễn để xác định thời điểm phối giống thích hợp cho trâu cái. Theo
Nguyễn Đức Thạc (2006)[35], ở giai đoạn tiền động dục, trâu bắt đầu động
hớn, nhưng thái độ, hành vi ít thể hiện rõ; nghé và trâu đực đến gần nhưng
trâu cái không cho nhảy; niêm dịch chảy ra trong suốt, loãng; âm đạo, cổ tử
cung bắt đầu có hiện tượng xung huyết; gần cuối giai đoạn này niêm dịch đục
và đặc hơn, âm đạo, cổ tử cung chuyển sang hồng hơn, trâu cái thích gần đực,
có hiện tượng đái dắt, lượng sữa giảm. Tuy nhiên, theo Nguyễn Tấn Anh
(2003)[3], phần lớn (trên 80%) trâu cái Việt Nam khi động dục không có biểu
hiện hành vi động dục (động dục thầm lặng), chỉ có một tỷ lệ nhỏ trâu cái (12
– 15%) có hành vi ham muốn về tính (động dục), nhưng hầu hết các trâu cái
khi động dục có hiện tượng bài tiết niêm dịch ở đường sinh dục; tính chất vật


lý, màu sắc và số lượng niêm dịch diễn biến theo các giai đoạn động dục:
Trước khi chịu đực, niêm dịch lỏng, nhiều, trong suốt và dễ đứt, trong giai
đoạn chịu đực, niêm dịch đặc, màu nửa trong, nửa đục bã đậu, dễ đứt. Mai
Thị Thơm và Mai Văn Sánh (2004)[41] cũng cho biết, có tới 91,93% trâu cái
động dục có biểu hiện niêm dịch tiết nhiều. Vì vậy, muốn phát hiện kịp thời
trâu cái động dục, người chăn nuôi phải chú ý quan sát hiện tượng bài tiết
niêm dịch trong thời gian gia súc còn nằm yên tĩnh trên nền chuồng vào buổi
sáng sớm tinh mơ và đêm tối (mùa hè, vào lúc 3-4 giờ sáng và 20-21 giờ đêm;
mùa đông, vào 4-5 giờ sáng và 19-20 giờ tối) (Nguyễn Tấn Anh (2003)[3].

Cùng với quan điểm này, Nguyễn Văn Bình và cs (2007)[5] cũng cho biết,
biểu hiện động dục của trâu không mạnh mẽ như ở bò, có tới 60% số trâu
động dục thầm lặng và một tỷ lệ lớn trâu Ấn Độ động hớn thầm lặng và số
trâu động hớn không rụng trứng chiếm 14,6%.
Ở giai đoạn chịu đực, trâu cái thể hiện quá trình hưng phấn cao độ, có
trâu đực đeo bám; khi trâu đực đến gần thì trâu cái đứng im, dạng chân và
cong đuôi, chuẩn bị tư thế giao phối; một số ít trâu cái thể hiện mạnh hơn như
ít ăn hoặc bỏ ăn, ngơ ngác, bỏ đàn đi tìm đực (cá biệt có trâu cái bỏ đàn chạy
tới 3 – 6 km); niêm dịch chảy ra nhiều, đục hơn, độ keo dính tăng và thường
dính ở 2 bên hông, khấu đuôi; đường sinh dục xung huyết cao, âm hộ hơi
sưng (nhất là ở trâu tơ); âm đạo trơn, bóng láng, tĩnh mạch nổi rõ; cổ tử cung
có màu hồng thắm, vào giữa – cuối giai đoạn này cổ tử cung nở to nhất (3 – 5
mm); vào cuối giai đoạn này, mức độ hưng phấn của con cái giảm, xung
huyết đường sinh dục giảm, cổ tử cung dần khép lại. Thời gian chịu đực trung
bình kéo dài 21 giờ, dài hơn trong vụ đông xuân, ngắn hơn trọng vụ hè thu
(tài liệu Trại Nguyễn Ngọc Thanh được Nguyễn Đức Thạc (2006)[35] trích
dẫn). Thời gian chịu đực biến động giữa các giống trâu khác nhau. Thời gian
chịu đực của trâu Azecbaizan từ 36 - 48 giờ; trâu Bungari là 24 - 29 giờ; trâu
Ấn Độ là 24 giờ và trâu Ai Cập là 28 giờ (Nguyễn Đức Thạc, 2006)[35].


Động dục của trâu cái mang tính mùa vụ khá rõ rệt. Theo Nguyễn Tấn
Anh (2003)[3], trâu cái miền núi Bắc bộ Việt Nam đẻ tập trung vào vụ đông –
xuân, điều đó chứng tỏ trâu động dục chủ yếu vào vụ thu – đông, khi thời tiết
mát mẻ; trong khi đó, trâu cái từ Thanh Hóa trở vào (khu 4 cũ), mùa vụ sinh
đẻ sớm hơn, tập trung chủ yếu vào vụ thu và thu – đông (Nguyễn Đức Thạc,
2006)[35]. Nóng quá hoặc lạnh quá, trâu cái ít động dục. Tuy nhiên, trong
điều kiện chăn nuôi và chăm sóc, quản lý tốt, tính mùa vụ trong động dục của
trâu hầu như không rõ rệt (Nguyễn Tấn Anh, 2003)[3].
Thời gian rụng trứng của trâu cái cũng biến động nhiều qua các nghiên

cứu. Theo Nguyễn Văn Bình và cs (2007)[5], thời gian rụng trứng của trâu cái
trung bình là 12,2 giờ kể từ khi kết thúc chịu đực. Trong khi đó, Nguyễn Đức
Thạc, (2006)[35] cho biết, 71% trâu cái rụng trứng sau khi kết thúc chịu đực
từ 1-15 giờ, trong đó 86,6% trâu trâu cái rụng trứng vào buổi chiều và đêm,
chỉ có 13,4% trâu cái rụng trứng vào buổi sáng. Nguyễn Mạnh Hà và cs
(2012)[22] cho rằng, thời gian rụng trứng của trâu cái vào 20-22 giờ sau khi
bắt đầu động dục, dao động từ 14-48 giờ.
1.1.3.3. Điều hòa hoạt động sinh dục của trâu cái
Hoạt động sinh dục của trâu cái chịu sực điều tiết chặt chẽ của thần
kinh và thể dịch. Chu kỳ động dục của trâu cái chịu sự tác động của các yếu tố
ngoại cảnh và nội tại thông qua sự điều khiển của hệ thống thần kinh và tuyến
nội tiết.
Các yếu tố ngoại cảnh bao gồm: Ánh sáng, nhiệt độ, thức ăn, chế độ
nuôi dưỡng chăm sóc, sự tiếp xúc với con đực…Những yếu tố này tác động
lên cơ quan thị giác, thính giác, khứu giác, xúc giác… của con vật, tạo thành
các thông tin truyền tới vùng dưới đồi, kích thích vùng dưới đồi giải phóng
GnRH (Gonado Tropin Releasing Hormone).
Các yếu tố nội tại gồm các hormon sinh dục có trong cơ thể gia súc.
Khi gia súc thành thục về tính, buồng trứng có nang trứng phát triển ở các giai
đoạn khác nhau, trong cơ thể đã có sẵn một lượng Estrogen. Chính Estrogen


đã tác động vào trung khu sinh dục nằm ở vỏ đại não và truyền về vùng
Hypothalamus, kích thích vùng này tiết GnRH, gồm: FRH (Folliculin
Releasing Hormone), LRH (Lutein Releasing Hormone) và PRH (Prolactin
Releasing Hormone). GnRH được chuyển vào các mạch máu rồi đi đến thuỳ
trước tuyến yên và gắn vào các chất tiếp nhận đặc hiệu, kích thích các tế bào
và của tuyến yên tiết ra FSH và LH (FRH kích thích tế bào tiết FSH và
LRH kích thích tế bào tiết LH), PRH kích thích tuyến yên tiết LTH (Lutein
Tropin Hormone). Khi hàm lượng FSH trong máu tăng cao sẽ kích thích nang

trứng phát triển. Trong thời gian nang trứng phát triển, các tế bào tiết ở vỏ
trong của nang trứng tiết Estrogen ngày càng nhiều. Estrogen thông qua cơ
chế Feed-Back dương tính kích thích lên vùng dưới đồi làm tăng tiết LRH và
LRH kích tế bào  của tuyến yên, kết quả làm tăng tiết LH. Khi nồng độ
Estrogen cao nhất trong máu là thời điểm con vật xuất hiện động dục. LH tác
động vào các nang trứng đang phát triển làm các nang trứng chín. Khi nồng
độ FSH và LH trong máu đạt đến một tỷ lệ nhất định (thường là 3:1) thì xảy
ra hiện tượng rụng trứng (Nguyễn Tấn Anh, 1998)[2]. FSH cũng kích thích tế
bào hạt tiết Inhibin, Actidin, Follistation là những protein hormone (Nguyễn
Văn Lý, 2004)[27]. Sau khi trứng rụng, thể vàng hình thành. LTH từ tuyến
yên tác động vào buồng trứng duy trì sự tồn tại và tiết progesteron của thể
vàng. Progesteron theo vòng Feed-Back âm tính, tác động lên vùng dưới đồi
và tuyến yên, ức chế phân tiết FSH và LH, làm quá trình phát triển của nang
trứng tiếp theo tạm ngừng lại. Nếu trứng được thụ tinh, phôi và nhau thai tiết
hormone nhằm duy trì sự tồn tại của thể vàng trong suốt thời kỳ mang thai
đến trước khi đẻ vài ngày. Nếu trứng rụng không được thụ tinh, thể vàng tồn
tại đến ngày thứ 16, 17 của chu kỳ, rồi thoái hóa. Nguyên nhân gây thoái hóa
của thể vàng là do sự tăng tiết Estrogen, kích thích nội mạc tử cung gây tiết
prostaglandine (PG). Hàm lượng PG tăng cao, gây ra sự tiêu biến thể vàng,
trong đó PGF2 có tác dụng mạnh nhất. Cơ chế tác động gây tiêu biến thể
vàng của của PGF2chưa được làm sáng tỏ. Theo Nguyễn Xuân Tịnh và cs


(1996)[44], PGF2 theo máu từ nội mạc tử cung đến buồng trứng, gây tác
dụng co mạch máu ngoại vi nuôi thể vàng, do đó thể vàng không được cấp
dinh dưỡng, trong vòng 24 giờ sẽ bị tiêu huỷ. Có tác giả cho rằng, PGF2 đã
gắn vào điểm tiếp nhận PGF2 trên bề mặt tế bào lớn (một loại tế bào của thể
vàng), làm tế bào này biến đổi gây tiêu biến thể vàng. Khi thể vàng bị tiêu
biến thì progesteron không còn được tiết ra nữa, ức chế vùng dưới đồi, tuyến
yên được dỡ bỏ, FSH và LH tiếp tục được tiết ra và kích thích sự phát triển

của những nang trứng mới, một chu kỳ mới lại bắt đầu.
Não

Thay đổi hành vi
(-/+)
(-/+)
(-/+)
(-/+) LH
+

TB theca
Estrogens

Hypothalamus
GnRH
+
FSH
LH
Tuyến yên

(-/+)
(-)
FSH
+
Activin
+
TB hạt

Inhibin


Androgen
Estrogens

Progestins

Hình 1.1. Sơ đồ điều hòa hoạt động sinh dục ở trâu, bò cái
(Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2008) [45]


1.1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của trâu cái
1.1.4.1. Tuổi thành thục về tính và phối giống lần đầu
Tuổi thành thục về tính của trâu được tính khi cơ quan sinh dục của gia
súc cái phát triển khá hoàn thiện, buồng trứng có noãn bào chín, có trứng rụng
và trứng có khả năng thụ thai, tử cung cũng biến đổi theo và đủ điều kiện cho
thai phát triển trong tử cung. Tuổi thành thục về tính thường sớm hơn thành
thục về thể vóc, phụ thuộc vào yếu tố di truyền, ngoại cảnh (chế độ dinh
dưỡng, mùa, nhiệt độ….) và được kiểm soát bởi các yếu tố thần kinh và thể
dịch.
Tuổi phối giống lần đầu là tuổi trâu cái được giao phối hoặc phối giống
nhân tạo lần đầu tiên. Tuổi phối giống lần đầu thường muộn hơn tuổi thành
thục tính dục. Theo nhiều tác giả, trâu cái sau khi thành thục tính dục, nên bỏ
qua 2 – 3 chu kỳ động dục đầu rồi mới cho phối giống để đảm bảo tỷ lệ thụ
thai và sự phát triển của bào thai.
Tuổi phối giống lần đầu của trâu thường muộn hơn ở bò và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, như giống, cá thể, dinh dưỡng, mùa vụ, khí hậu, phương
thức chăn nuôi. Nguyễn Tấn Anh (2003)[3] cho biết, tuổi phối giống lần đầu
của trâu Việt Nam trung bình là 36 tháng tuổi (biến động từ 24 – 48 tháng);
trâu Murrah là 36,2 tháng tuổi (Cao Xuân Thìn 1987)[39]. Nguyễn Đức Thạc
(2006)[35] cũng cho biết, trâu Việt Nam có thể cho phối giống vào lúc 2 tuổi
và đẻ lúc 3 tuổi.

1.1.4.2. Tuổi đẻ lứa đầu
Tuổi đẻ lứa đầu của trâu chủ yếu phụ thuộc vào tuổi thành thục (cả về
tính và thể vóc), đồng thời phụ thuộc vào việc phát hiện động dục và kỹ thuật
phối giống. Tuổi đẻ lứa đầu là một trong những chỉ tiêu đánh giá khả năng
sinh sản của gia súc cái. Tuổi đẻ lứa đầu phụ thuộc vào yếu tố di truyền,
ngoại cảnh, như: giống, cá thể, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, khí hậu và
khả năng sinh trưởng và phát dục của trâu cái... Do vậy, tuổi đẻ lứa đầu
của trâu cái biến động trong phạm vị khá rộng. Nguyễn Tấn Anh (2003)[3]
cho biết, tuổi đẻ lứa đầu của trâu Việt Nam trung bình là 47 tháng tuổi (biến
động từ 36-72 tháng). Mai Thị Thơm và Mai Văn Sánh (2004)[41] cho biết,
trâu cái ở Mê Linh – Vĩnh Phúc có tuổi đẻ lứa đầu muộn: chỉ có 3,76% trâu cái
có tuổi đẻ lứa đầu dưới 3 năm tuổi;


16,91% trâu đẻ lứa đầu ở 3-4 năm tuổi; 47,05% trâu đẻ lứa đầu ở 4-5 năm tuổi
và 32,35% trâu đẻ lứa đầu ở lúc trên 5 năm tuổi. Nguyễn Văn Thanh (2000)[36]
cũng cho biết, trâu cái ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có tuổi đẻ lứa
đầu từ 36 tháng trở lên, trong đó phần lớn trâu đẻ lứa đầu ở 48-60 tháng tuổi
(53,56%). Theo Đinh Văn Cải và cs (2013)[9], trâu cái của 3 tỉnh (Bình
Phước, Nghệ An và Thái Nguyên) có tuổi đẻ lần đầu trung bình là 45,34
tháng. Trong điều kiện khí hậu Việt Nam cộng với chế độ chăm sóc, nuôi
dưỡng không tốt có thể làm kéo dài tuổi thành thục về tính của trâu, do đó dẫn
tới tuổi đẻ lứa đầu của trâu muộn.
1.1.4.3. Khoảng cách lứa đẻ
Khoảng cách lứa đẻ là khoảng thời gian giữa hai lần đẻ liên tiếp, là chỉ
tiêu phản ảnh tình trạng sinh sản của trâu cái. Khoảng cách lứa đẻ chủ yếu là
do thời gian động dục và có chửa lại sau khi đẻ quyết định. Trâu cái có
khoảng cách lứa đẻ càng ngắn thì khả năng sinh sản càng cao và ngược lại.
Khoảng cách lứa đẻ chịu ảnh hưởng của yếu tố di truyền và ngoại cảnh.
Ngoài ra, kỹ thuật phát hiện động dục trở lại sau khi đẻ và phối giống giữ vai

trò quan trọng. Việc không phát hiện kịp thời động dục trở lại sau đẻ và chậm
phối giống hoặc phối giống nhưng không thụ thai là những nguyên nhân chủ
yếu kéo dài khoảng cách giữa hai lứa đẻ. Vì vậy, để rút ngắn thời gian chửa
lại sau khi đẻ thì cần phải nuôi dưỡng chăm sóc tốt để con vật sớm động dục
trở lại, đồng thời phải theo dõi phát hiện động dục kịp thời và dẫn tinh với tỷ
lệ thụ thai cao.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng, trâu cái nội có khoảng cách lứa đẻ khá
thưa. Mai Thị Thơm và Mai Văn Sánh (2004)[41] cho biết, trâu cái ở Mê
Linh – Vĩnh Phúc có khoảng cách lứa đẻ chủ yếu là 2 năm 1 lứa (43,19%) và
3 năm 1 lứa (36,09%). Nguyễn Văn Thanh (2000)[36] cũng cho biết, trâu cái
ở miền núi phía Bắc Việt Nam có khoảng cách giữa 2 lứa đẻ trung bình từ 1221 tháng, trong đó khoảng lứa đẻ từ 15-18 tháng chiếm tỷ lệ cao nhất
(38,54%), trong khi đó Đinh Văn Cải và cs (2013)[9] cho biết, khoảng cách
lứa đẻ trung bình ở trâu của các tỉnh Bình Phước, Nghệ An và Thái Nguyên
20,45 tháng.


1.1.4.4. Thời gian phục hồi tử cung sau khi đẻ
Tử cung của gia súc cái có khả năng co giãn rất lớn. Trong thời gian
mang thai khối lượng và kích thước của tử cung được tăng lên gấp hàng chục
lần so với bình thường. Sau khi đẻ, tử cung lại có khả năng co rút trở lại kích
thước và khối lượng gần như lúc không có chửa, để rồi lại bắt đầu một chu kì
sinh sản mới. Thời gian hồi phục của tử cung sau khi đẻ có ảnh hưởng quyết
định đến thời gian động dục lại sau khi đẻ và thời gian phối giống có chửa sau
khi đẻ, do đó ảnh hưởng đến khoảng cách giữa hai lứa đẻ và năng suất sinh
sản của trâu cái.
Thời gian phục hồi tử cung sau đẻ là khoảng thời gian để tử cung hàn
gắn các vết thương trong quá trình đẻ, vết thương tách núm nhau và đào thải
các hỗn dịch còn lại sau khi đẻ ra ngoài, cùng với sự co rút của cơ tử cung trở
lại kích thước ban đầu, đồng thời khôi phục lại chức năng của tử cung.
Theo Đinh Văn Cải, Nguyễn Ngọc Tấn (2007)[6], kích thước tử cung

của trâu sau khi đẻ được phục hồi trở lại gần như bình thường vào khoảng
ngày thứ 30, nhưng cần thêm khoảng 15 ngày nữa thì trương lực tử cung mới
được hồi phục hoàn toàn. Như vậy, quá trình hồi phục tử cung của trâu sau đẻ
cần khoảng 45 ngày và đây gọi là giai đoạn chờ phối chủ động. Vì thế, không
nên phối giống cho trâu trước 45 ngày sau khi đẻ.
Sự hồi phục của tử cung sau khi đẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: cá
thể, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, quá trình đẻ, sự can thiệp khi đẻ và sự hộ
lý chăm sóc sau khi đẻ....
1.1.4.5. Thời gian động dục lại sau khi đẻ
Sau đẻ, khi tử cung hay cơ quan sinh dục cái đã phục hồi hoàn toàn thì
gia súc bắt đầu vào một chu kì sinh sản mới bằng hiện tượng động dục. Động
dục lại sau đẻ là chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng sinh sản của gia súc cái
nói chung và trâu cái nói riêng. Thời gian động dục lại sau đẻ càng ngắn phản
ánh khả năng sinh sản của gia súc cái càng cao và ngược lại.
Trong điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc hợp lý và tình trạng sức khỏe
bình thường thì thời gian động dục lại sau khi đẻ cũng đồng thời là thời gian
phục hồi của tử cung sau khi đẻ, hay nói cách khác thời gian động dục lại sau


×