Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

CÁC TRƯỜNG PHÁI PHÊ BÌNH VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.39 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
LỚP CAO HỌC – CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VĂN HỌC – KHOÁ 2016 – 01

CÁC TRƯỜNG PHÁI PHÊ BÌNH VĂN HỌC
PHƯƠNG TÂY

Giảng viên giảng dạy: PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân
Sinh viên thực hiện: Bùi Trọng Thùy Linh

TP. HCM, ngày 01 tháng 10 năm 2017


MỤC LỤC

1. Tiêu điểm của các trường phái phê bình ....................................................................... 1
1.1. Phê bình nữ quyền.................................................................................................. 1
1.2. Phê bình đồng tính ................................................................................................. 1
1.3. Phê bình hậu thực dân ............................................................................................ 2
1.4. Phê bình giải cấu trúc ............................................................................................. 2
1.5. Phê bình sinh thái ................................................................................................... 3
2. Vận dụng một trường phái phê bình, nghiên cứu một hiện tượng văn học mà bạn cho là
phù hợp ................................................................................................................................ 4
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 11


1. Tiêu điểm của các trường phái phê bình
1.1. Phê bình nữ quyền


Phê bình nữ quyền quan tâm đến con người trong mối quan hệ bất bình đẳng giới.
Trước một thời đại mà mọi hệ quy chiếu đều đặt vào quyền lực của nam giới, các nhà đấu
tranh cho nữ quyền đã đứng lên lật lại vị trí đứng cho nữ giới trong xã hội. Lý thuyết về
quyền lực của nữ giới đã bênh vực cho quyền lợi và những khát vọng của người phụ nữ.
Phê bình nữ quyền là đọc các tác phẩm văn học bằng cái nhìn mang tính nữ để từ đó khám
phá ra những bất bình đẳng trong quan hệ giữa các giới và đồng cảm hơn cho thân phận
của người phụ nữ.
Về mặt lý thuyết, phê bình nữ quyền chủ trương xác lập một nền mỹ học và lý luận
phê bình văn học và sáng tác văn học cho nữ giới. Phê bình nữ quyền trong quá trình tiếp
cận các sáng tác sẽ tìm ra những đặc điểm trong lối viết của các tác giả, những đặc điểm
chung – riêng nhằm khái quát hóa một quy luật cho việc tiếp cận các tác phẩm sau này dễ
dàng và có quy chuẩn. Bên cạnh đó, từ hệ thống lý luận cho phê bình nữ quyền, các tác giả
tạo ra một chu trình ngược lại hỗ trợ cho quá trình sáng tác, tạo nên một xu hướng văn học
nữ đáng chú ý.
1.2. Phê bình đồng tính
Phê bình đồng tính quan tâm đến con người của giới tính, nhìn nhận lại giá trị giới
tính và phái tính thực sự của con người. Dưới lăng kính của phê bình đồng tính, những giới
tính khác (như les, gay…) bên ngoài sự đối lập nhị nguyên vốn có của giới tính được thừa
nhận. Tức là, con người ở giới tính thứ ba được chấp nhận như là một điều tự nhiên. Bởi
vì phê bình đồng tính để cho hiện trạng giới tính thực sự của con người lên tiếng nên cũng
đồng thời phản đối lại với những định kiến và rào cản mà xã hội áp đặt lên giới khác. Việc
con người có một giới tính khác so với quy chuẩn xã hội đã được kiến tạo cũng không phải
là một điều phi tự nhiên. Sự xuất hiện của phê bình đồng tính bên cạnh hiện tượng đồng
tính kêu gọi việc đem mọi thứ trở về với trạng thái tự nhiên của chính nó. Việc phân biệt
nam và nữ đã giết chết đi cái thực sự gọi là phái tính và giới tính. Con người không cần
phải sống trong một cái khung bó hẹp nào mà được quyền bộc lộ bản thân họ, không
phương hại đến xã hội.
1



Trong văn học, phê bình đồng tính tập trung đi tìm yếu tố phái tính và giới tính trong
tác phẩm, phân tích những tác động xã hội và tâm lý để hình thành bản thể người đồng tính
và quá trình xác định bản thể của chính họ. Về mặt diễn ngôn, phê bình đồng tính đi vào
hệ thống hóa những cách biểu đạt và thể hiện, đặc biệt là khác thác hệ thống các yếu tố
tượng trưng và sự thể hiện một cách kín đáo. Hơn hết, phê bình đồng tính cũng đặc biệt
chú trọng khảo sát các hiện tượng bị áp đặt về giới từ trong quá khứ cho đến hiện tại.
1.3. Phê bình hậu thực dân
Nhiệm vụ của phê bình hậu thực dân chính là đi tìm những dấu vết của chính sách
thực dân áp đặt lên đất thuộc địa. Hậu thực dân là giai đoạn mà người ta nhìn thấy những
hậu quả mà chế độ thực dân đã thực thi với các nước thuộc địa. Tuy nhiên, phê bình hậu
thực dân không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những hệ lụy đó mà còn tìm những cái biến
đổi và nảy sinh trong quá trình tương tác giữa thực dân và thuộc địa. Phê bình hậu thực dân
chỉ ra sự lai ghép, hiện tượng chuyển vùng/di dân để mô tả và chứng minh cho một nền
văn hóa mới gọi là “đa văn hóa” được hình thành. Song song với đó là hàng loạt các đặc
tính tương tự trong văn học hậu thuộc địa mà các nhà nghiên cứu luôn nhấn mạnh: tính bắt
chước, nước đôi, cái khác,… Những ảnh hưởng của thực dân lên các nước thuộc địa về
mặt tinh thần chính là tính đề kháng và tuân phục. Các nhà phê bình đặt ra các câu hỏi liệu
rằng có sự phản kháng của các nước nhược tiểu đối với các nước thống trị không hay chỉ
là tuân phục, từ đó khai thác các ý nghĩa về sự thoát ly và Chủ nghĩa quốc gia.
1.4. Phê bình giải cấu trúc
Phê bình giải cấu trúc tra vấn về tính liên, đi tìm các tương quan trong và ngoài văn
bản. Phê bình giải cấu trúc đã mở ra một bước chuyển mới khi phản ứng lại với phê bình
Hình thức. Nếu trường phái Hình thức chú trọng đi tìm tính văn chương trong văn bản thì
giải cấu trúc chỉ ra những quy luật khiến một diễn ngôn trở thành một diễn ngôn văn
chương. Phê bình giải cấu trúc đã phá bỏ mọi rào cản và khuôn khổ nội tại của cả văn bản
lẫn ngôn từ, cho thấy một biên độ rộng mở hơn của văn bản. Trong quan niệm của các nhà
giải cấu trúc, văn bản không là một thực thể tĩnh tại và ổn định mà là vô giới hạn. Ý nghĩa
của văn bản có thể vượt ra bên ngoài không gian của chính nó, không mang một ý nghĩa
cố định mà chuyển đổi từ hình thái này sang hình thái khác. Bản thân văn bản là một sự
2



đối thoại không ngừng, đa thanh chứ không đơn thanh. Văn bản ở trong mỗi thời đại còn
có thể mang những giá trị và ý nghĩa khác nhau vì thế mà có thể được tiếp nhận không chỉ
trên chiều đồng đại mà cả lịch đại. Sự rộng mở đến vô cùng của giải cấu trúc gợi ra một
hiện tượng mới là liên văn bản, cùng nhau chia sẻ những “mã” chung từ văn bản này đến
văn bản khác.
Dựa trên những lý thuyết của mình, phê bình giải cấu trúc không dừng lại ở việc
khai thác văn chương dựa trên diễn ngôn bởi mọi diễn ngôn đều là hư cấu. Giải cấu trúc đi
tìm những vết mờ trong văn bản, cho thấy những điều mà ngay cả người viết cũng không
nhận ra, nắm bắt văn chương dựa trên sự di động không ngừng của nó.
1.5. Phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái đi tìm tính tự nhiên, yếu tố thiên nhiên trong văn học. Một nền
văn học chân – thiện – mỹ là văn học gắn liền với Tự nhiên và Tự nhiên đó cũng có quan
hệ với con người. Nhà văn chính là một nhà sinh vật viết về thế giới tự nhiên (bao gồm
động vật, thực vật và các sinh vật khác). Cách nhà văn miêu tả chính là tấm gương phản
chiếu nhãn quan của chính mình đối với môi trường. Thông qua tác phẩm của mình, nhà
văn góp phần vào sự nghiệp giúp con người thêm yêu thương môi trường và có những hoạt
động tích cực trong việc bảo vệ môi trường Tự nhiên. Nhiệm vụ của người đọc khi tiếp cận
với văn học này, không có gì khác ngoài việc nhận biết sự tồn tại của Tự nhiên trong nó và
hiểu được thông điệp của tác giả. Từ hiện tượng văn học đó, các nhà phê bình và nghiên
cứu văn học cũng không thể bỏ qua yếu tố Tự nhiên tồn tại trong lòng văn học. Để phê
bình tính tự nhiên trong văn học, nhà nghiên cứu cần đi tìm những quan niệm nghệ thuật
về Tự nhiên có trong tác phẩm tồn tại thông qua con mắt nhà văn, phân tích mối quan hệ
qua lại giữa các yếu tố Con người, Văn hóa với Tự nhiên. Đồng thời, dưới lăng kính sinh
thái, các nhà nghiên cứu văn học và sinh thái nói chung sẽ khảo sát và đánh giá lại ý nghĩa
cũng như giá trị của văn học đối với môi trường.
Tuy nhiên, môi trường hiện nay không còn được đối xử như là chính nó mà bị xem
như là một công cụ được con người khai thác triệt để nhằm phục vụ cho đời sống vật chất
cá nhân của mình. Thiện nhiên ngày càng kiệt quệ và héo mòn. Con người ngày nay không

3


còn giữ quan niệm sống hòa mình với Tự nhiên mà muốn làm chủ Tự nhiên. Sự lớn mạnh
của đô thị cũng khiến cho mối tương giao giữa con người và Tự nhiên bị đứt gãy. Do đó,
việc soát xét lại vấn đề sinh thái trong văn học như một hồi chuông cảnh báo con người
nhìn nhận lại những hành động và lối sống của mình.
2. Vận dụng một trường phái phê bình, nghiên cứu một hiện tượng văn học mà bạn
cho là phù hợp
Đồng tính không còn là vấn đề riêng của xã hội học, tâm lý học, sinh học con người
mà đã đi vào văn học, trở thành một khía cạnh mà nghệ thuật quan tâm. Đồng tính đã mở
rộng biên độ xâm nhập của nó, lan tỏa và có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống. Với
riêng văn học, các tác phẩm đồng tính ban đầu xuất phát trên tinh thần tự phát, về sau dần
trở thành một dòng văn học tự giác được xem là đi ngược lại với văn học chính thống. Các
tác giả đã có ý thức hơn trong việc sử dụng các biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật được sáng
tạo dựa trên đời sống của cộng đồng người đồng tính, chủ đích sử dụng chúng phục vụ cho
dụng ý nghệ thuật của mình. Tác phẩm “Người cô độc” của Christopher Isherwood xuất
bản lần đầu vào năm 1964, là bức tranh một ngày của một người đồng tính ở tuổi trung
niên sau cái chết của người yêu. Tiểu thuyết là tất cả, bao gồm nỗi đau mất mát của con
người, sự trần trụi của xã hội, những triết lý về hiện sinh. Ở bài viết này, người viết tập
trung làm sáng tỏ tác phẩm dưới góc nhìn của phê bình đồng tính. Sau đây là hệ thống câu
hỏi có thể được đặt ra trong quá trình tiếp cận:
1.

Những áp lực của xã hội đối với nhân vật?

2.

Biểu hiện của sự trình diễn giới trong tác phẩm?


3.

Có hay không sự kỳ thị/ bệnh sợ đồng tính trong tác phẩm?

4.

Nhân vật có trả lời được câu hỏi “Tôi là ai?”?

5.

Nhân vật trong tác phẩm rơi vào trạng thái như thế nào? Bị cô lập hay có khả

năng sống hòa đồng với những người khác trong xã hội?
6.

Nhân vật có được xây dựng với những mặc cảm, tự ti hay không?

7.

Những khao khát nhục cảm được thể hiện như thế nào?
4


8.

Hiện tượng đồng tính trong tác phẩm được biểu đạt thông qua một hình thức

ẩn ngôn, che giấu hay công khai?
9.


Tác phẩm là sự tự thuật của tác giả hay sự phản tư, chất vấn về một hiện

tượng xã hội?
10.

Nhà văn có phải đang đi theo xu thế làm “nhiễu” đi những đối lập nhị nguyên

vốn có nhằm mở ra một lối thoát mới cho văn học, đồng thời cho việc nhìn nhận bản thể
con người?
“Người cô độc” không miêu tả trần trụi về đời sống và mối quan hệ của những người
đồng tính mà ngược lại là bức tranh về thế giới tinh thần, những góc khuất đầy trăn trở và
đau đớn trong suy nghĩ của họ. Yếu tố đồng tính mà Isherwood thể hiện bàng bạc trong
toàn bộ tác phẩm, được thể hiện một cách tinh tế và đầy triết lý trên hai phương diện chính
là xã hội và thế giới nội tâm của người đồng tính.
Xã hội trong tương quan với người đồng tính chính là cái nhìn kỳ thị và thái độ xa
lánh. Con người trong xã hội luôn hướng về người đồng tính dưới góc nhìn không mấy
thiện cảm. Những đứa trẻ hàng xóm luôn bày ra những trò phá bĩnh George, khiến ông
không thể kiềm chế bản thân mà bộc lộ ra những mặt xấu tính trong con người mình, tưởng
chừng như là sự mô tả về đời sống thường ngày của ông với sự ngợm ngịch ngây thơ của
lũ trẻ hàng xóm nhưng điều đó không hẳn là như thế. Hành động của những đứa trẻ như là
sự mô phỏng cách con người trong xã hội đối xử với người đồng tính. Họ xem người đồng
tính như những con quái vật, xem sự khác biệt của đồng tính là khuyết điểm để trêu chọc
và phá phách. Tuy rằng nhìn nhận hiện tượng đồng tính dưới con mắt đùa cợt, chế giễu
nhưng những con người ấy lại không có can đảm đối diện với người đồng tính. Cũng như
những đứa trẻ chọc phá George, họ “nhìn ông lạ lẫm và dè chừng”1. Xã hội luôn ngăn ra
những khoảng cách nhằm tách bạch họ với thế giới con người mà họ cho là bình thường,
cách li và xa lánh người đồng tính. Họ có thể có những hành động khiếm nhã nhưng lại
không dám đối diện với một người đồng tính bởi họ luôn cho đó là một cái gì ghê tởm, là

1


Christopher Isherwood, Người cô độc, NXB. Hội nhà văn, Người dịch Trần Nguyên, tr.21

5


xấu xa. Ngoài tất thảy mọi nỗi sợ vô hình khác, xã hội còn sợ chính những người như
George. Họ buông những lời tàn độc và cách gọi xấu xa – “Pê đê” khi nhìn thấy George.
Một nhóm những người khác không tỏ thái độ kỳ thị một cách trực tiếp đối với
người đồng tính nhưng họ lại có chút e dè và cảm thấy xấu hổ nếu việc họ có mối quan hệ
thân tình với người đồng tính được người khác biết. Bà Strunk luôn đối với George với
một thái độ áy náy pha lẫn chút đồng tình. Bà Strunk đại diện cho nhóm người có hiểu biết
trong xã hội. Vì vậy bà đã có thái độ thông cảm với người đồng tính, chấp nhận họ là chính
họ chứ không xem họ như một căn bệnh xã hội. Thế nhưng, có lẽ sự thông cảm và chấp
nhận đó không đủ để cứu vớt họ trong cái xã hội mà người ta luôn có xu hướng xem thường
những người như George. Gia đình bà Strunk rất nhiệt tình trong cách hành xử với George
nhưng ông bà lại muốn giấu diếm sự qua lại với những người khác. Bà Strunk đã không
ngại mời George sang thăm nhà vì thấy ông cô đơn khi sống một mình. Nhưng khi George
muốn cùng ông bà Strunk dùng tiệc gia đình với những người khác, bà Strunk có ý từ chối.
Những áo lực xã hội không chỉ đặt nặng lên người đồng tính mà còn chính những người
xung quanh họ. Những người tiếp xúc với họ đều bị ảnh hưởng bởi những cái nhìn không
tốt, bị cho là những người không chín chắn. Định kiến xã hội như thế quá khắc nghiệt đối
với họ, khiến cho họ không chỉ lạc lõng trong chính bản ngã của mình mà còn lạc lõng
ngay trong thế giới thực tại.
Những áp lực của xã hội đặt lên người đồng tính tàn khốc hơn khi đối tượng là
những con người có chức phận cấp cao hơn. Họ chống lại người đồng tính bằng những
hoạt động cụ thể. Những nhà báo đã viết những bài viết kêu gọi sự chống lại lệch lạc giới
tính. Họ xem đồng tính như một căn bệnh hoặc coi họ là những người mang trong mình
những mầm bệnh nguy hiểm và kêu gọi những người khác lánh xa. Không dừng lại ở đó,
họ dường như còn mong muốn dùng những hình phạt cổ hũ, lạc hậu chỉ với mong muốn

tiêu diệt hoàn toàn đồng tính. “Những bộ luật hiện hành chống lại chúng là còn quá nhân
từ”2.

2

Sđd, tr.30

6


Những sức ép từ phía xã hội đẩy người đồng tính đi vào ngõ cụt. “Họ lạc lõng, bị
tước đi mãi mãi những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống, họ đáng thương, không đáng
trách”3. Người đồng tính trở thành những “kẻ ngoại đạo” bị tổn thương về mặt tinh thần.
Họ bị xa lánh bởi xã hội đến nỗi phải tránh né cộng đồng để trở thành những người đứng
bên lề. Họ không có lỗi. Quy luật kiến tạo của xã hội đã khiến căn tính giới của họ đi ngược
lại với bản thể được quy định của họ. Việc họ sống như là chính không phải là điều sai trái.
Thế nhưng những định kiến xã hội đã khiến họ trở thành người mang tội.
Diễn ngôn của tác giả khi nói về người đồng tính trong mối tương quan với xã hội
có tính chất vấn và phản tư. Isherwood đã mượn suy nghĩ của nhân vật George để nói lên
quan điểm của mình. Ông phản đối lại cách nhìn của xã hội về người đồng tính khi cho
rằng họ là “thiểu số”. Xã hội coi người đồng tính là một cộng đồng thiểu số vì họ là những
con người đi ngược lại với những gì được cho là chính thống của xã hội, hơn nữa, bị phớt
lờ và bị đẩy ra ngoài rìa. Tuy nhiên, Isherwood lại không nghĩ thế. Một cộng đồng được
xem là thiểu số chỉ khi họ là những mầm mống gây nguy hiểm. Trong khi đó người đồng
tính gây hại, họ chỉ là những cá thể đang sống đúng với bản tính vốn có của mình. Quan
điểm của tác giả nhầm phản đối lại những cách nghĩ cho rằng người đồng tính là cái gì xấu
xa, chống lại những hành động muốn loại trừ người đồng tính hoặc giễu cợt, dùng những
hình ảnh của người đồng tính với mục đích cười cợt mua vui.
Người đồng tính trong tác phẩm của George không chỉ chịu áp lực từ phía xã hội
mà còn từ chính trong thế giới tinh thần của mình. Yếu tố đồng tính trong “Người cô độc”

không thể hiện qua những ngọt ngào, trọn vẹn của tình yêu mà thông qua những mất mát.
George đã mất đi người mình yêu thương nhất. Nỗi đau to lớn đó đã đẩy George đứng vào
tâm thế của một người trung niên cô độc. George đã mất đi Jim. Việc mất đi một người
bản thân hết mực yêu thương, khiến George hờn giận và đổ hết mọi tội lỗi lên thế giới. Nó
khiến ông không muốn gần gũi với cộng động xung quanh và dần trở nên cô đơn. Tuy
nhiên, thực chất trong con người George dường như luôn cảm thấy một sự cách biệt với
mọi người xung quanh. Ông biết mình khác biệt. Vì vậy George luôn chìm đắm trong một
3

Sđđ, tr.24

7


thế giới riêng không thể cho người khác bước vào. Ông cũng không thể bước vào thế giới
của những người bình thường vì nó xa lạ với thế giới của ông. George là một giảng viên,
thế nhưng ông cũng không thể trò chuyện gần gũi với các sinh viên của mình. Ông luôn
nhìn vào mắt họ nhằm đoán biết tâm ý của họ. Ngay cả đối với Kenny, một câu sinh viên
muốn thân thiết với George hơn nhưng ông cũng không thể dễ dàng bộc lộ con người thật
của mình. George không tìm thấy sự đồng cảm từ những người xung quanh, nhưng hơn hết
có lẽ là bởi vì điều làm nên con người George là điều cấm kỵ mà cách tốt nhất là che giấu
nó đi mà không phải là phô bày nó. “Tôi thèm khát ghê gớm được nói với cậu. Nhưng tôi
không thể. Hoàn toàn không thể. Bởi vì, cậu không nhận thấy sao, điều tôi biết là thứ làm
nên con người tôi”4. Như vậy, sự cô độc của George không đơn thuần xuất phát từ nỗi đau
mất đi Jim mà là nỗi cô độc của mọi người đồng tính, của những con người bị cho là khác
biệt và biết mình khác biệt.
Nhân vật George còn đặc biệt mang tâm thế của một người không được sống thật
với bản thân mình mà là nạn nhân của hiện tượng trình diễn giới. Nhân vật được đặt trong
tâm thế sắm vai một người khác mà xã hội mong muốn chứ không phải chính mình. George
hằng ngày phải đeo một chiếc mặt nạ của một quý ông. Mỗi sáng ông thường tốn khá nhiều

thời gian để chuẩn bị, từ trang phục, đến phong thái, cung cách cư xử, để sao cho phù hợp
với hình ảnh mà người ta đã từng biết về một người đàn ông trung niên được gọi là George.
‘Hắn phải mặc quần áo vào, vì hắn đang sắp phải ra ngoài, bước vào thế giới của những
con người khác ngoài kia, mà những người này cần được nhìn nhận về hắn như những gì
hắn đã gầy dựng. Hành vi của hắn cần phải nằm trong sự thỏa đáng với họ”5. Người đồng
tính, để che giấu bản thân mình, họ phải giả vờ thực hiện những hành vi đúng với giới tính
sinh học đã được quy định. Mỗi cá nhân trong xã hội nhìn chung đều có những vai khác
nhau trong những môi trường khác nhau. Nhưng người đồng tính luôn có một vai diễn khá
đòi hỏi một nỗ lực to lớn nhằm trình diễn một giới tính không thực sự là của họ.

4
5

Sđd, tr.125
Sđd, tr.15

8


Đời sống nội tâm của người đồng tính thực sự phức tạp không chỉ vì họ có cuộc đời
hai mặt mà còn vì chính bản thân họ không thể định vị được mình. Những người như
George là những con người bị lệch pha giữa bản thể luận và kiến tạo luận. Bản thể luận đã
được quy định ngay từ trước khi họ được sinh ra. Con người bị tước đi quyền được lựa
chọn giới tính sinh học của mình. Trong khi đó ý thức giới được kiến tạo bởi quá trình
được xã hội hóa của con người, dựa trên các yếu tố lịch sử và văn hóa. Giới tính được lý
giải dựa trên thuyết kiến tạo luận như thế phụ thuộc vào quy định của một cộng đồng và
lối sống của cá nhân. Có những người định hình một sự hợp nhất giữa giới tính sinh học
và căn tính giới của họ. Nhưng không phải ai cũng may mắn có được điều đó. Những người
lệch pha bị trật ra khỏi đường ray của những đối lập nhị nguyên vốn có trong vũ trụ và tự
nhiên. Họ bị đẩy vào một “thế giới thứ ba” nơi mà ở đó họ thấy mình như một cá thể bị

phân mảnh và xé lẻ. Họ là những con người của sự phi nhất quán của cái bên trong và cái
bên ngoài, một hiện tượng mà người ta chưa thể định nghĩa được. Chính vì thế, bản thân
họ cũng không thể xác định bản thể của mình. Họ là ai? Họ là gì? Họ nên sống như thế
nào? “Tôi như một quyển sách cậu phải đọc. Quyển sách không thể tự đọc cho cậu nghe.
Nó thậm chí không biết nó là cái gì. Tôi thậm chí không biết tôi là ai”6.
Sự lạc lõng của cá thể con người được Isherwood trình bày bằng một diễn ngôn hồi
cố. Nỗi đau đớn của George không thể hiện thông qua không khí buồn ảm đạm hay những
ngôn từ đậm chất u buồn mà bằng những khoảng ký ức về Jim. Thông qua những khoảng
ký ức đó, nhân vật George xuất hiện như một người đàn ông trung niên cô đơn, nặng trĩu
với một tình yêu bị mất. Một ngày của George ngay từ khi thức dậy luôn ẩn hiện đâu đó
hình bóng của Jim và những kỷ niệm về đời sống trước đây giữa George và chàng trai này.
Trong ngôi nhà quá đỗi chật hẹp đó, không nơi nào là không ghi dấu những va chạm, những
sinh hoạt đời thường của Jim và George “(…), trong thịnh nộ lẫn trong ý tình – hình dung
những gì mà họ đã khắc dấu vô hình vào trong từng khoảng không, từng ngõ ngách của
căn nhà”7. Tuy nhiên, cũng chính bởi không gian đầy ắp kỷ niệm đó mà khi sống trong nó

6
7

Sđd, tr.125
Sđd, tr.16

9


George đã không khỏi đau khổ tột cùng khi trong một khoảnh khắc tỉnh thức ông nhận ra
rằng Jim thực sự đã chết. “(…), khi George đặt chân tới nấc cuối cùng của bậc thang, ông
lại có cảm giác bất chợt như thấy mình đang ở trên một tấm răng cưa lởm chởm, tàn độc
và vỡ vụn ra từng mảnh – cho dù những dấu vất đã phai nhạt và chìm vào trong đổ nát”8.
Khi dùng bữa sáng của hiện tại, George nhớ về bữa sáng mà ông có cùng Jim. Họ

đã ăn cùng nhau và bản về những chuyện được ông gọi là học thuyết và hàn lâm như chuyện
cái chết là có hay không. George cũng nhớ lại kỷ niệm tươi đẹp khi lần đầu tiên họ đặt chân
đến ngôi nhà này. Dù nó là căn nhà khuất sau những bóng cây nhưng họ đã rất yêu mến
nơi này và xem nó như ốc đảo của riêng mình.
Việc gợi lại những ký ức quá viên mãn đó đã tạo nên một sự đối chiếu ngầm với
hiện tại nhầm phô bày sự cô độc của George. “Jim đã chết”, George giờ đây chỉ còn lại ba
phần con người. Hiện tại đối với ông là một sự đau thương, bởi nó luôn gợi nhớ về quá
khứ. George giờ đây sống không còn đúng nghĩa là một con người. Mỗi sáng ông đều loay
hoay để có có thể thức dậy. Hành động ngồi dậy dường như là một nỗ lực mà vất vả lắm
mới có thể thực hiện được. Nỗi đau đã bóp nát sự sống trong George. Ông dường như đang
sống là một cái xác không hồn. Sự hiện hữu của ông không còn đúng nghĩa là chính ông
nữa, bởi tâm hồn của George cũng đã chết cùng sự ra đi của Jim. Cái ông đang phải đối
mặt bây giờ chỉ là một thân xác dư thừa và rệu rã.

8

Sđd, tr.16

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

11



×