Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

BÀI TIỂU LUẬN MÔN: CHỦ NGHĨA HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.06 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: CHỦ NGHĨA HIỆN ĐẠI TRONG VĂN
HỌC PHƯƠNG TÂY VÀ NHỮNG ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ

GVGD: PGS.TS. NGUYỄN HỮU HIẾU
HVTH: NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT
LỚP : LÝ LUẬN VĂN HỌC
NIÊN KHÓA: (2016 -2018)

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 06 năm 2017

2


I.Mở đầu
Nền văn học của chúng ta đang càng ngày càng đổi mới, song hành giữa văn
chương thì yếu tố huyền thoại hóa trong văn học, đặc biệt là trong văn xuôi đương đại.
Một trào lưu không chỉ trong văn học thế giới mà cả trong văn học Việt Nam hiện đại.
Tìm hiểu yếu tố huyền thoại hóa trong văn chương không chỉ là tìm hiểu về cội nguồn
xưa cũ mà đó còn là những cảm quan của nhà văn, sự sáng tạo không ngừng nghỉ của
một quá trình dài phát triển và bị che lấp bởi cái nhìn khoa học, tìm đến những yếu tố
huyền thoại là tìm đến bề sâu của tâm tưởng, diễn tả những khắc khoải của con người
về những vấn đề mà chủ nghĩa duy lý không thể lý giải được.Tìm đến yếu tố huyền
thoại là tìm đến những tính chất mê lộ, mê cung mà tác giả gửi gấm không chỉ thể
hiện qua không gian, thời gian mà còn thể hiện qua yếu tố hình tượng hóa nhân vật.
Thông qua những tác phẩm văn xuôi đương đại ở Việt Nam, dường như yếu tố huyền


thoại đã được tái sinh, để làm được điều đó, mỗi nhà văn phải vận dụng tư duy sáng
tạo của mình vào từng tác phẩm văn học. Phạm Thị Hoài là một trong số những nhà
văn nổi bật bên cạnh một số nhà văn đương đại hiện nay như Hồ Anh Thái, Nhật
Chiêu, Nguyễn Ngọc Thuần đã vận dụng các yếu tố huyền thoại cùng với sự sáng tạo
không ngừng của chính mình để làm nên những tác phẩm nổi bật.“Thiên Sứ” là một
trong những tác phẩm như vậy và bài tiểu luận này sẽ đi sâu vào khảo sát yếu tố huyền
thoại hóa hình tượng nhân vật và huyền thoại hóa thế giới hiện thực (không gian
huyền thoại) trong tác phẩm này để thấy được sự ảnh hưởng của trào lưu huyền thoại
trong tác phẩm văn xuôi văn học đương đại Việt Nam lúc bấy giờ.

II .Khái quát lý thuyết
Vào khoảng thế kỉ thứ 14, trào lưu đưa yếu tố huyền thoại hóa vào văn học đã
xuất hiện, nhưng do cái nhìn khoa học đã che đậy đi trào lưu này, mãi cho đến cuối thế
kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, trào lưu này mới được bùng nổ và nhân rộng, yếu tố huyền
thoại đi sâu vào tác phẩm văn xuôi một cách tự nhiên để thể hiện cảm quan sâu lắng
của nhà văn. Trào lưu này đã trở thành tâm điểm khoa học của thế kỉ. Vào thời kì này,
chủ nghĩa duy lý dường như không thể lý giải được những hiện thực bề sâu, không
thâu tóm được những vấn đề bản nguyên của nhân loại, những vấn đề mang tính nhân
loại, con người trong thời kì này dường như hoài nghi về năng lực của chủ nghĩa duy
lý, đây là một trong những nguyên nhân khiến huyền thoại trở nên tái sinh. Sự xuất
hiện của yếu tố huyền thoại trong văn viết nói chung và trong văn xuôi nói riêng thật
sự là một điều vô cùng kì lạ. Từ sau năm 1975, yếu tố huyền thoại bắt đầu xuất hiện
trong nhiều lĩnh vực: âm nhạc, điện ảnh mà đặc biệt là văn học, thậm chí là hình thành
một trào lưu truyện ngắn huyền thoại rất phổ biến. Nhắc đến huyền thoại là sẽ không
tránh khỏi sự liên quan giữa huyền thoại với lịch sử, huyền thoại với triết học sơ khai,
huyền thoại với tôn giáo và tín ngưỡng, các yếu tố này đan cài nhau, hòa lẫn vào nhau
tạo nên một huyền thoại kì ảo mà con người không thể giải thích được. Đi sâu tìm
hiểu yếu tố huyền thoại trong tác phẩm văn xuôi đương đại là quay trở về tìm hiểu
những cổ mẫu folklore của dân tộc, là sự kế thừa và tiếp thu thành tựu văn học thế
giới, những tác phẩm hàm chứa yếu tố huyền thoại là một quá trình tiếp thu, sáng tạo,

tương tác nhiều chiều.Yếu tố huyền thoại trong các tác phẩm văn xuôi không đâu xa lạ
mà được thoát thai từ những yếu tố truyền thống, cổ mẫu, đến với hiện đại bằng
1


những biểu tượng siêu mẫu, dựa trên những tiền đề của huyền thoại dân gian, từ đó
tạo nên những huyền thoại hiện đại trong tác phẩm văn học mà ở một góc độ nào đó
được gọi là truyện giả huyền thoại, giả cổ tích mà ông E.M.Meletinsky gọi là “phản
huyền thoại”, “ huyền thoại lộn trái”. Đến với vấn đề huyền thoại trong tác phẩm
đương đại lúc bấy giờ ta sẽ được nhìn thấy những huyền thoại dân gian xưa của dân
tộc như: huyền thoại Thánh Gióng, huyền thoại Tấm Cám, Sơn Tinh Thủy Tinh, huyền
thoại mẹ Âu Cơ,…được các nhà văn tái sinh lại một cách kì diệu, thêm thắt sự sáng
tạo riêng của mỗi cá nhân từ những yếu tố, những motif hóa kiếp, hiển linh, luân hồi,
ở hiền gặp lành, thử thách và đền đáp,…
Huyền thoại của thời buổi đương đại là một hiện tượng siêu ngôn ngữ, huyền
thoại phát sinh nhiều ý nghĩa,thể hiện chiều sâu tâm tưởng, trí tuệ của tác giả.Ngoài
ra, huyền thoại còn thể hiện sự sâu thẳm trong tín ngưỡng dân gian, sự tín ngưỡng tôn
giáo cũng như triết học sơ khai và chiều dài lịch sử văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức
của chúng ta và bắt đầu có diện mạo mới từ sự tái sinh của huyền thoại.Huyền thoại ở
đây tôi muốn nói đến là sử dụng tư duy huyền thoại để sáng tạo ra một huyền thoại
mới, mỗi nhà văn của chúng ta tự vô thức hay hữu thức đều có một thế giới huyền
thoại riêng, dù là có ý thức hay không có ý thức mỗi nhà văn đều có một chân trời mới
huyền bí và kì ảo, những người theo khuynh hướng này tạo cho thế giới văn học một
chân trời mới đa dạng, tự do bay bổng và phong phú hơn, ở thể loại này ta có thể thấy
một số tên tuổi nổi tiếng như: Nguyễn Đức Nam, Hoàng Ngọc Thư, Phạm Thị Hoài,
Nhật Chiêu, Ngô Tự Lập,..Các nhà văn đã chuyển tải vô thức tập thể thành vô thức
chung cùng với sự sáng tạo của chính mình, các yếu tố kì ảo, huyền bí đã thể hiện
được chiều sâu cuộc sống nằm ẩn trong chiều sâu tư tưởng của tác giả, đến với những
tác phẩm huyền thoại này, ta dường như không thể lý giải được những điều đang diễn
ra trong cuộc sống. Trong hoàn cảnh mà con người đã rất sáng suốt thì vẫn có những

điều không thể nào lý giải được, những khắc khoải trong tâm tưởng con người, những
mê lộ, mê cung tỏng tác phẩm là những mê lộ, mê cung trong cuộc sống. Những trạng
thái lưỡng lự, phân vân, bất lực về trí thức của con người trong hành trình tìm kiếm
mọi thứ trong cuộc đời, sự bất lực của con người trong nhận thức về thế giới, hoài
nghi về trí thức, huyền thoại là sự lựa chọn có khả năng lý giải những vấn đề vĩnh
hằng, bản thể nhưng không thiếu tính lịch sử. Mỗi hình tượng được tạo ra là một sự
tạo mới ý nghĩa cho hình tượng, đôi khi con người không thể giải thích được thực tại,
lí trí không thể dùng để giải thích mọi điều về cuộc sống, thì huyền thoại nhận lãnh
nhiệm vụ ấy một cách xuất sắc và hoàn hảo. Ngoài ra, các yếu tố kì ảo còn được dùng
để bộc lộ những điều sâu kín nhất, những khát khao đời nhất, người nhất của con
người hiện đại.
Motif là yếu tố không thể không nhắc đến khi nhắc đến huyền thoại, những
motif có thể chú ý như motif hóa kiếp, motif tội ác và trừng phạt, các motif này góp
phần tạo thêm yếu tố kì ảo của tác phẩm cũng như sự cân bằng, hài hòa cho cuộc sống
hiện đại hôm nay. Sự hấp dẫn của tác phẩm có yếu tố huyền thoại còn hấp dẫn ở chỗ
tư duy sáng tạo của các nhà văn hết sức tự do, biểu tượng được tạo ra vô cùng đa
nghĩa cần sự giải mã mới có thể hiểu hết được.
Có thể nói, huyền thoại trong tác phẩm văn xuôi đương đại là một dòng chảy
trong nền văn học hiện đại Việt Nam, có mặt trong nhiều tác phẩm, được nhiều tác giả
chú ý đến, một tác phẩm được sáng tạo có yếu tố huyền thoại là sự kết tinh giữa
những truyền thống huyền thoại dân tộc, sự sáng tạo tinh tế, sâu sắc và ảnh hưởng
2


mạnh mẽ của nền văn học phương Tây lúc bấy giờ.

III. Phân tích yếu tố huyền thoại trong tác phẩm “Thiên Sứ” của
Phạm Thị Hoài
1. Đôi nét về tác giả
Phạm Thị Hoài sinh 1960 tại Hải Dương, hiện tại bà sinh sống và làm việc tại

Berlin, Đức. Bà là một nhà văn hiện đại, một nhà biên soạn và dịch giả có tầm cỡ lớn
đối với văn học Việt Nam và thế giới.
Nhận định: Ở Việt Nam, cách viết của Phạm Thị Hoài khiến đọc giả và những
nhà phê bình hết lời ca ngợi và cũng lắm kẻ chê bai. Những viên chức văn hóa của
Việt Nam phản đối cái nhìn phê phán của bà về nước Việt Nam hiện tại, bà đã vi phạm
bởi sự thiếu tôn trọng truyền thống và phạm phải những điều cấm kỵ của xã hội […]
Mặc dù bị công kích trên diễn đàn công khai, Phạm Thị Hoài chưa bao giờ là bị cáo về
sự bất đồng quan điểm chính trị. Thay vào đó, những kẻ phỉ báng đã buộc tội bà là có
cái nhìn bi quan quá đáng về Việt Nam, bà đã sỉ nhục "sứ mệnh thiêng liêng của một
nhà văn", thậm chí bà còn viết "dung tục" nữa. Nhưng, ngay cả những nhà phê bình
mạnh mẽ nhất cũng thừa nhận rằng bà là một nhà văn có con mắt u ám trong việc mổ
xẻ chi tiết, chua cay và hài hước, song lại có thính giác tốt về nhịp điệu của tiếng Việt.
-Tác phẩm chính:
+Thiên sứ (1988), Mê Lộ (1989), Man Nương (1995), Marie Sến (1996),
nhiều tiểu luận và truyện ngắn được xuất hiện trên nhiều tạp chí văn chương ở Hoa
Kỳ, Úc, Thụy Sĩ và Đức.
+Biên soạn Trần Dần – Ghi: 1954-1960, tuyển tập các bài báo của Trần Dần.
+Dịch những tác phẩm của Franz Kafka, Bertolt Brecht, Friedrich Dürrenmatt,
Thomas Bernhard sang tiếng Việt.
+Năm 2001, sáng lập nên tạp chí Talawas và blog Pro&Contra. Cuối 2014, hai
trang này chính thức chia tay bạn đọc.

2. Yếu tố huyền thoại trong tác phẩm “Thiên Sứ”
“Thiên sứ” là tác phẩm đầu tay của Phạm Thị Hoài, xuất bản tại Hà Nội, năm
1988. Cốt truyện không có một nội dung tuyến tính cố định. Câu chuyện là những
mảnh ghép rời rạc của những mẫu chuyện về gia đình, bé Hon, chị Hằng, tuổi mới lớn
của Hoài, quyển sách đầu tiên Hoài đọc và những con người khác xung quanh cô bé
Hoài. Thông qua những gì quan sát được bên khung cửa sổ, nhân vật cô bé Hoài, cũng
như tác giả đã cho thấy những suy nghiệm và thế giới quan của mình về đời sống và
các mối quan hệ giữa con người với nhau trong hiện tại. Phạm Thị Hoài đã không

miêu tả cuộc sống bằng cách tả chân, mô phỏng hay sao chép nó mà đã huyền thoại
hóa những con người, những khung cảnh để mang lại một không khí huyền thoại đặc

3


trưng cho tác phẩm, đồng thời thể hiện những cảm nhận và đem lại ý nghĩa mới cho
những huyền thoại truyền thống. Để xây dựng thủ pháp huyền thoại trong tác phẩm,
Phạm Thị Hoài đã sử dụng những phương thức sau đây: nhại lại huyền thoại, tái tạo
các motif và huyền thoại hóa hiện thực.
Phạm Thị Hoài đã nhại lại truyền thuyết Thánh Gióng và Sơn Tinh Thủy Tinh
trong kho tàng văn học dân gian người Việt ta. Sự nhại lại các yếu tố của văn học
truyền miệng trong bối cảnh văn học hiện đại là một hiện tượng hết sức thú vị. Không
dừng lại ở đó, Phạm Thị Hoài đã thổi vào hệ thống thi pháp huyền thoại đó một tư
tưởng và quan điểm mới, khác với mục đích xây dựng truyện truyền thuyết của tập thể
sáng tác dân gian trước đây.
Câu chuyện về bé Hon là một sự bắt chước và tái sáng tạo từ truyền thuyết
Thánh Gióng, câu chuyện kể về một cậu bé được sinh ra và lớn lên bất thường nhưng
lại trở thành vị anh hùng của dân tộc. Tuy nhiên, có nhiều điểm tương đồng và khác
biệt giữa hai cậu chuyện, bởi dựa trên cơ sở các tình tiết căn bản thì hai câu chuyện
khá giống nhau nhưng chất liệu tạo nên các tình tiết đó lại hầu như khác nhau.
Về chi tiết sự sinh nở thần kỳ, Thánh Gióng được sinh ra bởi vì người mẹ vô
tình ướm chân mình vào dấu chân của người khổng lồ, sau một khoảng thời gian thì
hoài thai một đứa trẻ, đặt tên là Gióng. Trong khi đó, ở chương “Bé Hon”, vì bộ đồ lót
của người mẹ bị “ướt sương và loang lỗ tựa vết chàm” trong một lần phơi đồ qua đêm
mà có mang bé Hon. Sau khi sinh, hai đứa trẻ đều có những biến chuyển kỳ lạ. Gióng
đến ba tuổi vẫn không nói, không cười, không biết đi. Khi đất nước có giặc, Gióng
bỗng ngồi bật dậy đòi gặp sứ giả, rồi ăn nhiều, lớn nhanh như thổi. Trong khi đó, bé
Hon lại không khóc mà chỉ cười và ban phát môi hôn bất tận cho tất cả mọi người. Cả
Gióng và bé Hon đều lập được những kỳ tích trong cuộc đời của mình. Gióng đánh

đuổi được giặc Ân ra khỏi bờ cõi. Bé Hon nhờ ban phát những nụ hôn đầy mùi sữa mà
khiến cho gia đình Hoài trở nên hạnh phúc, hiền lành và thánh thiện hơn. Kết thúc
cuộc đời, Gióng hoàn thành sứ mệnh đánh giặc bay về trời và trở thành một vị Thánh
bất tử. Trong khi đó, bé Hon bị từ chối sứ mệnh trao yêu thương từ người cha giận dữ.
Sau đó, cái chết đến bất ngờ, bé Hon ra đi như thể tan biến vào hư không.
Cũng như bao truyện truyền thuyết được ra đời với chức năng giải thích đời
sống con người trong thế giới hỗn mang. Truyền thuyết Thánh Gióng được tạo nên lý
4


giải cuộc xâm lược của giặc Ân và sức mạnh đánh đuổi quân xâm lược của dân tộc ta
từ ngàn xưa. Tuy nhiên, câu chuyện bé Hon dù được nhại lại nhưng không còn mang
cái ý nghĩa muôn thuở ấy nữa mà ít nhiều phản ánh đời sống hiện đại. Trong xã hội đã
bước vào ngưỡng cửa hiện đại hóa như thời đại mà tác giả đang sống, song song với
việc chất lượng cuộc sống được nâng cao là sự đi xuống của đời sống tinh thần và
những giá trị nhân văn. Vì thế, bi kịch về cuộc đời của bé Hon như minh chứng cho sự
mất dần đi tình người. Con người bị che lấp đi bởi những toan tính đời thường đến nỗi
không còn đủ tinh tế và nhạy cảm để nhìn thấy và đón nhận những tình cảm đẹp đẽ
đang bày ra trước mắt họ. Sự cố gắng của thiên sứ trong sứ mệnh đem lại những điều
thiêng liêng ấy cho loài người dường như trở thành một nỗ lực vô vọng. Căn bệnh vô
cảm của con người trở thành một căn bệnh nan y, vô phương cứu chữa.
Không dừng lại ở đó, sự ra đi của thiên sứ như một quy luật của ngàn đời về
sự vô thường của đời sống. Cuộc đời là sự vận động và di chuyển không ngừng. Trong
mỗi một sát na qua đi, con người cũng đã khác đi so với chính họ ở một giây trước đó.
Vì vậy, sự ra đi của bé Hon dường như cũng không nằm ngoài cái vòng vây luân hồi
vô thường ấy. Những tưởng rằng bé Hon sẽ là của gia đình Hoài, trở thành một thành
viên gắn bó thân thiết nhưng sự thật lại quá phũ phàng. Bé Hon chỉ đến như cái đẹp
“một đi không trở lại”. Bé Hon như là hiện thân của cái đẹp chân chính, vĩnh viễn
không bao giờ quay trở lại.
Bên cạnh Thánh Gióng, Phạm Thị Hoài còn nhại lại truyền thuyết Sơn Tinh

Thủy Tinh thông qua chương chị Hằng kén chồng. Mị Nương và Hằng đều là những
người con gái xinh đẹp, vừa đến tuổi lấy chồng. Tuy nhiên ở chi tiết kén rễ, vua cha là
người kén rễ lại không thể lựa chọn được ai trong hai chàng trai tài trí là Sơn Tinh và
Thủy Tinh. Trong khi đó, Hằng là người trực tiếp quyết định việc chọn chồng của
mình trong số 299 người cầu hôn đang nháo loạn trước cửa. Trong truyền thuyết, vua
cha đặt ra thử thách rõ ràng, đó là những báu vật hiếm có mà khó có thể dễ dàng tìm
thấy được. Để cưới được Mị Nương, hai chàng trai phải tìm cho ra các loại báu vật đó
làm sính lễ. Và quan trọng là ai đến trước sẽ lấy được Mị Nương. Trong “Thiên Sứ”,
khi những người đàn ông cố gắng thể hiện sự giàu có và địa vị của mình thông qua tài
sản mà họ có, Hằng chỉ thử thách họ bằng cách yêu cầu họ tìm được mình và nói đúng
tâm nguyện của Hằng. Kết quả của cả hai câu chuyện, Sơn Tinh đem lễ vật đến trước
5


và rước Mị Nương đi. Thủy Tinh đến sau, đem lòng tức giận mà dâng nước đánh Sơn
Tinh hòng cướp lại Mị Nương. Trong truyện của Phạm Thị Hoài không có chi tiết
tranh giành mà chỉ có một người được chị Hằng tuyển chọn, đó là chàng nhân viên
ngoại giao đoán được mong ước muốn có một đứa con của Hằng.
Sơn Tinh Thủy Tinh là một câu chuyện có tính trang trọng và lịch sử nhằm
giải thích hiện tượng mưa lũ vào mỗi năm trên đất nước Việt Nam. Dựa vào hệ thống
huyền thoại truyền thống, Phạm Thị Hoài đã tái hiện lại cuộc chạy đua chinh phục đàn
bà của những người ông thế kỷ XX. Chương “Lễ cầu hôn” được viết bằng một giọng
cười cợt không nhằm mục đích mang lại tiếng cười giải trí mà là mục đích châm biếm
sâu cay cái xã sự tha hóa của con người, phê phán tình trạng xã hội bị xô lệch, trở nên
nhốn nháo, mất thăng bằng. Những tưởng sẽ hạnh phúc nhưng người đàn ông mà cuối
cùng mà Hằng chọn cũng chẳng phải Sơn Tinh mà là người đàn ông đã bị biến chất đi
như những người trong số 299 người đàn ông kia. Kết thúc của Hằng dường như là
kết cục bi thảm của một nàng Mị Nương tân thời, nàng Mị Nương thế kỷ XX.
Việc xây dựng hình tượng nhân vật Hoài trong tác phẩm cũng là nhại lại từ
một điển tích trong tiểu thuyết “Cái trống thiếc” của nhà văn Gunther Grass. Câu

chuyện kể về một câu bé vô tình ngã vào cái trống và trở nên dị tật, bị mắc kẹt ở cái
tuổi lên bảy trong mọi sự quan sát và phản ứng với thế giới xung quanh. Điều này
cũng được chú thích ngày ở lời đề từ tác phẩm “Thiên sứ”: “Cuốn sách bắt đầu từ một
điển tích của nhà văn G.G…”.
“Cái trống thiếc” trong “Thiên sứ” đã trở thành câu chuyện của cô bé Hoài và
là một “huyền tích” riêng cho tác phẩm của Phạm Thị Hoài. Cô bé Hoài trong câu
chuyện sau khi vô tình đặt chân vào tủ sách gia đình (“vườn cấm của papa”) đã vô
tình đọc một quyển sách “suy đồi”, một cuốn sách mà như Hoài nhận định rằng đã
không mở ra cho cô bé con đường đến với thế giới văn chương rộng mở mà ngược lại
khiến cô bé cảm thấy mình “đã lãnh trọn tội tổ tông” và “không bao giờ còn trinh
trắng nữa”. Từ đây, những chi tiết kỳ lạ bắt đầu xuất hiện. Hoài quyết định thực hiện
một lễ rửa tội, trút kinh nguyệt một lần cho mãi mãi. Sau lễ rửa tội năm tiếng đồng hồ
ấy, Hoài dường như đã “vắt bỏ cạn kiệt, tẩy sạch mỏi khả năng thành một người đàn
bà như những người đàn bà, một kẻ trưởng thành như tất cả những kẻ trưởng thành
trên thế gian”. Từ đó Hoài mắc chứng “đình tăng trưởng” và mãi mãi là cô bé ở tuổi
6


mười bốn để không hòa mình vào cuộc sống mà vốn dĩ mình phải sống trong nó mà
chỉ đóng vai trò như người đứng bên lề và quan sát. Thế nhưng, ở tuổi hai mươi chín,
Hoài từ một con vịt xấu xí đã hóa thành nàng thiên nga lộng lẫy và trưởng thành như
chị Hằng. Đó cũng là lúc Hoài bắt gặp chàng trai của đời mình sau suốt mười lăm chờ
đợi bên bậu cửa sổ.
Ngoài việc nhại lại các huyền thoại, Phạm Thị Hoài cũng tái tạo lại các motif.
Sự ra đời của bé Hon là sự sáng tạo kết hợp của truyện cổ Đông và Tây. Sự ra đời của
bé Hon trước hết bắt nguồn từ motif “sinh nở thần kỳ” trong các truyện cổ và truyền
thuyết như Thánh Gióng, Sọ Dừa, Nàng út ống tre. Bé Hon cũng tương tự, được sinh
ra khi áo quần của người mẹ vô tình bị đẫm sương, loang lổ vết chàm. “Một hôm, cả
dây quần áo nhà phơi bị quên đêm qua ngoài trời. Điều kỳ lạ là chỉ riêng bộ đồ lót của
mẹ đẫm sương và loang lổ vết từa tựa như chàm…Không lâu sau mẹ mang thai” 1. Tuy

nhiên, đến ngày bé Hon được sinh ra thì lại được Phạm Thị Hoài miêu tả mang chất
phương Tây. Mười ba nữa hộ sinh đứng xung quanh giường bé Hon được ví như mười
ba bà mụ. Ở Châu Âu, phía sau sự ra đời của các cháu bé đều ẩn chứa một câu chuyện
về các bà mụ đỡ đầu hay còn gọi là “tiên đỡ đầu”. Theo đó, mỗi đứa bé ra đời đều có
một bà tiên đỡ đầu luôn bên cạnh, âm thầm theo dõi sự lớn lên của đứa bé. Khi đứa trẻ
có khó khăn, bà tiên đều hiện ra để bằng cách nào đó giúp đỡ cho các đứa trẻ của
mình. Đặc biệt hơn, một cách rất dễ nhận ra, Bé Hon là sự sáng tạo lại motif thiên sứ,
motif về các vị thần hay Chúa cứu thế. Họ là những biểu tượng cho những điều thiêng
liêng và màu nhiệm. Sự xuất hiện của họ bao giờ cũng chớp nhoáng nhưng bất kể khi
nào có sự xuất hiện của họ là có sự xuất hiện của phép màu, của những kỳ tích. Bé
Hon là hiện thân của điều màu nhiệm ấy. Cô bé đến rồi đi chóng vánh. Cô bé không
được sinh ra với nhiệm vụ sống và tu dưỡng làm người có ích, không chịu những khổ
cực, cay đắng của thân phận người. Cô bé được sinh ra dưới một hào quang của niềm
hạnh phúc và sống vô tư trong khoảng thời gian ngắn ngủi của mình. Bé Hon luôn
tươi cười với đôi môi rạo rực những cái hôn, bởi sứ mệnh của thiên thần bé Hon là
ban phát những nụ hôn ngây thơ và hạnh phúc, đem lại niềm vui cho tất cả mọi người.
Huyền thoại về Chúa và thiên sứ trong văn học truyền thống lý giải những thế
lực siêu nhiên, những đấng tối cao bên cạnh loài người. Nó cho thấy niềm tin của con
1

Phạm Thị Hoài (1995), Thiên sứ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội

7


người vào những thế lực vô hạn. Trong khi đó, nhân vật bé Hon như là hiện thân của
những điểm sáng le lói trong cái xã hội nhiễu nhương bấy giờ. Giữa muôn vàn những
điều xấu xa, xảo trá, giữa biển người vô tình, những con người như bé Hon là những
dòng nước mát cân bằng lại mặt đen tối của xã hội. Thế nhưng, cái đẹp thường không
tồn tại lâu, những con người tốt thường thiệt thòi, hoặc vì một lý do gì đó, họ không

thể bên cạnh ta, thuộc về ta mãi mãi được. Sự xuất hiện và ra đi của bé Hon vừa bí ẩn,
vừa thần kỳ. Đến như một làn gió và ra đi như làn sương mỏng, tan vào hư không. Nó
không thể không khiến ta nghĩ đến sự hóa kiếp của những đấng tối cao, sự lẩn khuất
bóng dáng của Thượng Đế trong đời sống thực tại của con người.
Quang lùn là hình ảnh tái sáng tạo từ motif những con quỷ lùn. Phạm Thị
Hoài ví von Quang lùn như là chú lùn trong truyện cổ phương Tây trong Nàng Bạch
Tuyết và bảy chú lùn. Tuy nhiên, với tính cách và “căn bệnh ý chí”, hình ảnh liên
tưởng ấy như một sự mỉa mai. Anh ta cao một mét hai mươi lăm, cũng như cô bé
Hoài, anh ta mắc chứng “đình tăng trưởng”. Không chỉ thân người, gương mặt hắn
vẫn còn giữ những nét ngây ngô, mũm mĩm của những đứa trẻ. Quang lùn là một con
người vì đồng tiền, vì con đường công danh sự nghiệp mà sẵn sàng bỏ bảy năm cô
đơn để phấn đấu. Hắn ta là con người dễ dàng hi sinh vì những thứ liên quan đến vật
chất, tiền tài và địa vị. Dù giữ đúng lời hứa về tình yêu và kết hôn, vì có lẽ hắn ta đã
yêu thật nhưng bởi “bệnh ý chí” của mình Quang lùn có thể xem là những con người
khôn lanh và có toan tính.
Quang lùn đại diện cho những con người có những tiêu chuẩn, có mực thước
trong xã hội. Hắn đặt ra những mục tiêu và hoàn thành những mục tiêu của mình
nhưng lại quá tham vọng và toan tính. Xã hội hiện đại là một xã hội mà con người ta
sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có thể có được những thứ mà họ đang cần ngay trước
mắt. Quang lùn đại diện cho mô hình con người lập dị trong một xã hội điên đảo, tan
tác. Đó là một xã hội mà mọi giá trị bị đảo lộn, người ta không còn phân biệt được
thật – giả, trắng – đen, tốt – xấu, chỉ có những con người mờ mắt chạy theo những giá
trị vật chất.
Phạm Thị Hoài đã làm nên sự lạ hóa cho tác phẩm của mình bằng việc huyền
thoại hóa hiện thực. Cô bé Hoài trong tác phẩm chính là hình ảnh của một nguyên
mẫu trong đời thực, chính là tác giả. Trong tác phẩm, Phạm Thị Hoài đã thêm vào
8


nhân vật của mình những yếu tố “nghịch dị”, kỳ lạ từ hình dáng bên ngoài cho đến thế

giới tâm hồn. Hoài cao “một mét hai mươi nhăm, ba mươi kilô, đuôi sam”. Hoài
không chấp nhận đám đông và hạ bệ những tư tưởng gần như đã trở thành những niềm
tin cơ sở. Nhân vật Hoài được xây dựng như một kiểu “nhân vật hóa thân”, trở nên cô
độc và xa lạ đối với môi trường xung quanh khi bị biến thành một con người mang cái
lốt của một đứa trẻ mười bốn tuổi mãi mãi.
Không chỉ huyền thoái một cá thể, không gian và bối cảnh của câu chuyện
cũng dường như được tắm trong màu sắc huyền thoại. Không gian của tác phầm bao
gồm không gian hiện thực, không gian tâm linh và không gian huyền thoại. Tất cả
nhìn chung đã tạo nên một không gian mang không khí huyền thoại cho tác phẩm.
Không gian trong tác phẩm là sự hòa trộn giữa không gian hữu hình và không
gian tâm linh. Không gian thực trong “Thiên sứ” là xã hội Việt Nam đang chuyển
mình từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Xã hội ấy hiện lên với hình
ảnh của những lỗ thủng trên “mái nhà thiếu giấy dầu và những chân ghế long”, máy
nước công cộng cho “lễ rửa tội” hay tinh thần thời đại qua tủ sách gia đình với Ruồi
trâu, Thép đã tôi thế đấy. Không gian thực ở đây chính là không gian văn hóa của xã
hội lúc bấy giờ. Song song với đó là không gian tâm linh của khung cửa sổ với “bốn
trăm ô vuông nâu và một khung chữ nhật biến ảo, xoay như xoay rubic”. Đó là không
gian chiêm nghiệm, không gian nội tại trong chính con người Hoài, nơi Hoài quan sát
và suy ngẫm về cuộc sống. Ở tại khung cửa đó, Hoài nhìn nhận cuộc sống dưới con
mắt sắc bén của chính mình. Cô bé Hoài ghi nhận lại hết tất cả những biến cố và theo
dõi sự thay đổi của nó qua ngày tháng. Cô chứng kiến biết bao loại người, nhận định
và phân chia họ theo Homo A hay Homo Z. Phía trước căn phòng còn là con đường
của thế giới xung quanh, con đường dẫn vào nhà máy bia rượu. Khung cửa sổ chính là
thế giới nội tại, là không gian bên trong của Hoài nhưng nó là chính là sự phóng chiếu
từ thế giới tâm hồn ra thế giới bên ngoài của nhân vật.
Bên cạnh hai loại không gian trên, tác phẩm còn chứa đựng không gian mang
không khí huyền thoại. Phạm Thị Hoài đã xóa đi các đường biên phân cách giữa thực
và ảo để tạo nên không gian huyền bí trộn lẫn giữa thực và ảo. Hiện tượng mà ta bắt
gặp vì thế vừa là nó nhưng cũng lại vừa không phải là chính nó. Chương “Lễ cầu hôn”
là một kiểu đánh mờ đường biên như thế khi Phạm Thị Hoài miêu tả cuộc gặp gỡ giữa

9


Hằng và nhà thơ PH. “Họ gặp nhau giữa một ngã ba vào giờ cao điểm, nhà thơ và ả
Hằng, sững lại giữa giấc mộng lạc giữa ban ngày của họ và gây một cảnh tắc nghẽn xe
cộ chưa từng thấy trong lịch sử giao thông công cộng của thành phố. Toàn bộ lực
lượng cảnh sát giao thông được huy động tới, ba tiếng đồng hồ sau đường mới thông,
và họ vẫn đứng sững, mắt không rời mắt, cuộc trò chuyện vô tận của hai cây cọ” 2. Hay
khi miêu tả căn gác xép mà chị Hằng đưa Hoài đến: “Một căn gác xép tranh tối tranh
sáng chật hẹp mù mịt hương khói và sặc sụa đủ thứ mùi mà khứu giác tôi đành đầu
hàng không định nghĩa nổi. Chủ nhà, đàn ông chẳng ra đàn ông, đàn bà chả ra đàn bà,
ngồi bất động ở một nơi nào đó, thỉnh thoảng ban vào khung cảnh địa ngục bình dân
ấy vài lời nhát gừng, giọng trầm đục và độc đoán” 3. Những cách miêu tả góp phần làm
cho không gian truyện trở nên lạ lẫm, kì quái thế nhưng người đọc lại không hề nhận
ra nó bởi ngay từ đầu câu chuyện đã được tác giả xây dựng thấm đẫm tinh thần huyền
thoại. Những yếu tố kỳ ảo, dị thường hay quái lạ được Phạm Thị Hoài kể với một
giọng như không, một thái độ được bình thường hóa, kể chuyện huyền thoại như là
một câu chuyện thật. Đây là lý do mà các đường viền hiện thực đã bị xóa mờ đi.
Việc tạo nên những huyền tích cho riêng tác phẩm của mình hoặc tái tạo lại
trên cơ sở những giai thoại đã có, Phạm Thị Hoài đi đến cái đích cuối cùng là phản
ánh thực trạng xã hội thời kỳ “mở cửa”. Xã hội lúc bấy giờ hiện lên với những cảnh
nhiễu nhương, hỗn độn. Con người lớn lên từ trong xã hội ấy vì thế mà không nhận
thấy trắng – đen, phải – trái, xuất hiện bao kẻ chạy theo thị hiếu, đua tranh lối sống vật
chất, địa vị. Nhân vật Hoài được miêu tả với những dị dạng trong ngoại hình lẫn tính
cách như một mã ký hiệu cho các vấn đề về văn hóa, nhân cách, tri thức,… của con
người trong xã hội. Song song với Hoài là nhân vật bé Hon, việc xây dựng nhân vật
này như một cách phản ứng lại với thực trạng nan giải cấp bách lúc bấy giờ của xã
hội. Phạm Thị Hoài thông qua tác phẩm của mình muốn nói rằng, để thay đổi được xã
hội, con người cần phải tự nhận thức được mình, từ đó thay đổi hoàn thiện chính
mình. Với mục đích truyền tải thông điệp đó, Phạm Thị Hoài đã sáng tạo chi tiết Hoài

“hóa thân” thành thiên nga xinh đẹp vào tuổi hai mươi chính. Chi tiết ấy như một
bước ngoặc đánh dấu quá trình tự nhận thức thành công của con người trong xã hội.

2
3

Phạm Thị Hoài (1995), Thiên sứ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr. 86
Phạm Thị Hoài (1995), Thiên sứ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr. 54

10


11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Sách & Tạp chí
1. Thái Thị Hòa An (2013), Dấu ấn phương thức huyền thoại hóa của Franz Kafka
trong sáng tác của Phạm Thị Hoài, tạp chí Khoa học Văn hóa và Du lịch, số 13 (67).
2. Phạm Thị Hoài (1995), Thiên sứ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
 Điện tử
1. Chu Xuân Diên, Để góp phần nghiên cứu huyền thoại và thi pháp huyền thoại
trong sáng tác văn học, ngày đăng 17/4/2009, ngày truy cập 22/6/2017
/>option=com_content&view=article&id=337:-gop-phn-nghien-cu-huyn-thoi-va-thiphap-huyn-thoi-trong-sang-tac-vn-hc&catid=94:ly-lun-va-phe-binh-vnhc&Itemid=135
2. Thụy Khuê, Sóng từ trường Phạm Thị Hoài, Thiên sứ, ngày đăng 8/1991, ngày
truy cập 22/6/2017
/>3. Trần Thị Mai Nhân, Tìm hiểu phương thức “huyền thoại hóa” trong một số tiểu
thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, ngày đăng 27/2/2009, ngày truy cập 22/6/2017
/>option=com_content&view=article&id=264:tim-hiu-phng-thc-huyn-thoi-hoa-trongmt-s-tiu-thuyt-vit-nam-thi-k-i-mi&catid=63:vn-hc-vit-nam&Itemid=106




×