Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

So sánh sự khác biệt giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.17 KB, 22 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Triết học là một hệ thống tri thức lí luận chung nhất của con người về
thế giới về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học có một vai trò hết sức to lớn trong xã hội.
Trước hết, triết học đặt ra và giải quyết những vấn đề thế giới quan, đó là toàn
bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung quanh, về
bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Bên cạnh đó, triết học còn có chức năng phương pháp luận, là hệ thống các
quan diểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người, tìm tòi xây dựng, lựa chọn và
vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn. Sau cùng, triết học không
những có vai trò to lớn đối với khoa học mà còn đối với việc rèn luyện năng lực tư
duy của con người. Như Ăng-ghen đã từng nói: “Một dân tộc muốn đứng trên
đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lí luận”, và để hoàn thiện
năng lực tư duy lí luận thì không có một cách nào khác hơn là nghiêm cứu toàn bộ
triết học thời trước.
Bước đi đầu tiên của lịch sử triết học thế giới là triết học cổ đại. Những
học thuyết triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào thế kỉ thứ XIII – VI
trước công nguyên. Ở phương Đông thể hiện rõ nét ở Ấn Độ, Trung Quốc. Ở
phương Tây, thể hiện rõ nét ở Hy Lạp và La Mã cổ đại. Nghiên cứu và so sánh sự
khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây thời cổ đại sẽ cho
ta một cái nhìn khái quát và biện chứng về những đóng góp có giá trị đối với tri
thức nhân loại trong buổi đầu hình thành ý thức xã hội. Đồng thời giúp ta thâu tóm
tri thức, trí tuệ của mỗi thời đại lịch sử được kết tinh trong triết học.

2



Thông qua những sự khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học
phương Tây thời cổ đại sẽ cho ta một cái nhìn toàn diện, đúng đắn về ý nghĩa,
ảnh hưởng, nắm được sợi dây liên hệ giữa quá khứ và hiện tại. Bên cạnh đó,
giúp tránh tư tưởng đề cao triết học phương Đông, hạ thấp triết học phương
Tây thời cổ đại và ngược lại. Xuất phát từ những lí do nêu trên nên em đã chọn đề
tài: “So sánh sự khác biệt giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây”
làm đề tài cho bài tiểu luận của mình.

2. Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ những đặc điểm của hai nến triết học phương Đông và
phương Tây, từ đó thấy được những nét đặc sắc riêng của mỗi nền
triết học, chúng bổ sung cho nhau và đều đóng góp vào sự phát triển của lịch
sử nhân loại.
- So sánh sự khác nhau giữa hai nền triết học, từ đó có cái nhìn khái
quát và biện chứng về những đóng góp có giá trị đối với tri thức nhân loại
trong những buổi đầu hình thành ý thức xã hội, giúp chống tư tưởng đề cao
nền triết học này, hạ thấp nền triết học kia.

3. Đối tượng nghiên cứu:
Đặc điểm của triết học phương Đông và triết học phương Tây thời cổ
đại.

3


CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG
VỀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY
Thời xa xưa, con người đã muốn khám phá về thế giới và bản thân
mình. Khi khoa học còn chưa phát triển và trí tuệ con người còn hạn chế,

công cụ để nhận thức thế giới của họ lúc đầu là huyền thoại và thần thoại, tức
là giải tích các hiện tượng tự nhiên bằng các yếu tố thần thoại. Nhưng từ khi
xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời thay thế xã hội nguyên thủy, sự giải thích thế
giới bằng huyền thoại, thần thoại không còn đáp ứng nhu cầu hiểu biết ngày
càng cao của con người. Một công cụ nhận thức mới của loài người xuất hiện,
đó là triết học.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỉ VIII – VI trước Công nguyên gắn
liền với sự ra đời của các nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy
Lạp. Đó là kết quả của sự tách biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay,
cùng với sự phát triển ở trình độ cao (trình độ hệ thống hoá, khái quát hoá,
trừu tượng hoá) của tư duy nhân loại.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về triết học. “Triết” theo nghĩa chữ
Hán là trí - sự hiểu biết của con người, là truy tìm bản chất của đối tượng
trong quá trình nhận thức thế giới. “Triết” theo nghĩa tiếng Ấn Độ là
“Darshna”, là sự suy ngẫm con đường đến chân lí, là sự hiểu biết nói chung
“Triết học” theo tiếng Hy Lạp là “Philosophya” - sự ham mê hiểu biết cộng
với sự thông thái. Như vậy, dù là Trung Quốc, Ấn Độ hay Hy Lạp, dù ở
phương Đông hay phương Tây, triết học thời cổ đại đều có nghĩa là sự hiểu
biết chung, sự nhận thức chung của con người về thế giới.
4


Do nghiên cứu những qui luật chung nhất của thế giới nên triết học với
tư cách là một khoa học đề cập tới nhiều vấn đề. Trong những vấn đề ấy, nổi lên
vấn đề cơ bản là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vấn đề cơ bản của
triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi giữa tư duy với tồn tại, giữa ý
thức với vật chất, giữa tinh thần và tự nhiên thì cái nào có trước cái nào có
sau; và cái nào có vai trò quyết định đối với cái nào? Mặt thứ hai trả lời câu
hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Trong lịch sử triết học, có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm trí đối

lập nhau khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Đây chính là tiêu chuẩn để
phân biệt lập trường tư tưởng của các nhà triết học, hình thành nên các trường
phái triết học khác nhau. Đi sâu giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, các
nhà triết học phương Đông và phương Tây có nhiều quan điểm không giống nhau.
Điều này đã một phần tạo nên sự khác biệt giữa triết học phương Đông và phương
Tây nói chung và thời cổ đại nói riêng.
Dù lịch sử triết học là quá trình hình thành, biến đổi, tác động và ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các trào lưu, tư tưởng triết học nhưng nó có tính quy
luật. Sự hình thành và phát triển triết học có những đặc điểm chung như sau:
-

Thứ nhất, tư tưởng triết học là một hình thái ý thức xã hội được hình
thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - xã hội trong một giai đoạn lịch sử xã
hội nhất định là sự phản ánh của tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại
xã hội. Như vậy, sự phát triển của lịch sử triết học gắn liền với điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội, gắn với sự biến đổi, thay thế nhau giữa các chế độ xã
hội… Điều này hình thành nên tính giai cấp trong triết học. Từ đó, tạo nên sự
khác nhau giữa các trào lưu, tư tưởng triết học, giữa triết học phương Đông và
phương Tây.

5


-

Thứ hai, lịch sử triết học là quá trình thống nhất và đấu tranh của hai
trường phái triết học duy vật và duy tâm, hai phương pháp biện chứng và siêu

-


hình.
Thứ ba, lịch sử triết học luôn gắn bó chặt chẽ không thể tách rời với các
thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội cùng với các thành tựu khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội cùng sự thâm nhập tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các trào lưu, tư tưởng triết học cùng sự tác động của các hình thái ý
thức xã hội khác như: Tôn giáo, chính trị, nghệ thuật, văn hoá,…
Thứ tư, chiến tranh là một tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự biến
đổi của tư tưởng triết học.
* Tóm lại:
Triết học là một khoa học bao gồm hệ thống tri thức lí luận chung nhất
về thế giới của con người và vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự qui
định của tồn tại xã hội. Đồng thời, triết học là một yếu tố của kiến trúc thượng
tầng, là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, chịu sự qui định của cơ sở hạ tầng. Đây
cũng là nét chung của triết học mọi thời đại cũng như triết học phương Đông
và triết học phương Tây cổ đại.
Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hoá, bối cảnh
lịch sử, khác nhau nên triết học phương Đông và phương Tây cổ đại có những
nét đặc thù, riêng biệt, tạo nên thiên hướng riêng của nó. Dựa vào phần khái
quát chung làm cơ sở nền tảng, sự khác nhau giữa triết học phương Đông và
triết học phương Tây thời cổ đại được phân tích cụ thể ở mục tiếp theo.

6


CHƯƠNG II
NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU
GIỮA TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
2.1. Mối quan hệ giữa con người và vũ trụ
Nếu như triết học phương Tây cổ đại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi

con người là chủ thể còn thế giới quan là khách thể mà con người cần nghiên
cứu, chinh phục thì triết học phương Đông thời cổ đại lại nhấn mạnh mặt
thống nhất trong mối quan hệ giữa con người và vũ trụ.
Chúng ta có thể lí giải cho sự khác biệt này bởi con người phương Đông sống
gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, được thiên nhiên ưu đãi, nguồn sống nông nghiệp
dồi dào, đã hoà quyện con người với thiên nhiên và với vụ trụ. Chính điều này đã
được khái quát thành tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”, trong đó con người được
xem như là một “tiểu vũ trụ”. Hơn thế các nền văn minh của phương Đông chủ yếu
được hình thành ở lưu vực các con sông. Nền văn minh Ấn Độ được hình thành
trên lưu vực sông Ấn và sông Hằng, nền văn minh Trung Hoa được xây dựng trên
sự hợp lưu của hai sông Hoàng Hà và Trường Giang. Do vậy nền văn minh phương
Đông chủ yếu dựa trên sự phát triển nông nghiệp của một chế đọ nhà nước quân
chủ lập quyền.
“Thiên nhiên hợp nhất” là tư tưởng xuyên suốt nhiều trường phái, học thuyết ở
Trung Quốc. Đạo gia cho rằng; con người và vũ trụ không ở ngoài nhau mà cùng
hoà hợp, liên thông thành một khối. Lão tử nói: “Người phỏng theo đất, đất phỏng
theo trời, trời phỏng theo đạo, đạo phỏng theo tự nhiên”. Trời, đất, người liên thông
với nhau bằng một đạo.

7


Những điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của từng con
người và văn hoá Trung Quốc. Có lẽ vì thế mà khoa học tự nhiên và chủ
nghĩa duy vật trong triết học Trung Quốc phát triển không mạnh.
“Thiên nhiên hợp nhất” lại được thể hiện theo cách khác ở Ấn Độ.
Trong kinh thánh Vêđa, để cắt nghĩa các hiện tượng tự nhiên mà con người
kông thể lí giải, người Ấn Độ đã xây dựng hệ thống các vị thần. Thần linh và
con người có nhiều mối quan hệ với nhau, có tính cách như nhau, các vị thần
cũng mang tính người. Triết học Ấn Độ khẳng định tính hợp nhất của con

người và vũ trụ. Vạn vật trong thế giới đồng nhất thể, con người và vũ trụ có
chung bản chất.
Như vậy, triết học phương Đông lấy con người mà đặc biệt là phương
diện tâm linh làm đối tượng chủ yếu để nghiên cứu. Những triết học lớn thời
đó đều xoay quanh những vấn đề liên quan tới số phận, đạo đức của con
người.
Trái lại, triết học phương Tây thời cổ đại lại tách con ngưòi ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể còn thế giới khách quan là khách thể mà con người cần
nghiên cứu, chinh phục. Với tư tưởng quan tâm tới bản nguyên thế giới thì các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại đã giải thích sự xuất hiện của thế giới khách quan theo
nhiều cách khác nhau. Các nhà duy vật giải thích bằng sự xuất hiện của một dạng
vật chất cụ thể như: nước, lửa, không khí…
Đại diện đầu tiên là Talet, ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản
nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi vật đều sinh ra từ nước và khi phá huy,
nó cũng trỏ thành nước. Đại diện thứ hai là Amximen, ông cho rằng: “Không khí
và bản chất, là nguồn gốc của mọi sự việc, vì nó giữ vai trò rất quan trọng trong
đời sống.” Đại diện thứ ba tiếp tục đứng trên quan điểm duy vật là Heraclit, ông đã
dựa
8


trên quan điểm của duy vật để giải quyết vấn đề “cơ sở đầu tiên” của thế giới
từ một dạng vật chất cụ thể. Nhưng ông cho rằng mọi vật sinh ra từ lửa, là bản
nguyên của thế giới. Cũng có quan điểm cho rằng: bản nguyên đầu tiên của thế
giới là những phần nhỏ bé, siêu cảm giác, không thấy được qua đất, nước, không
khí, lửa; chúng gọi là mầm sống, hạt giống của muôn vật.
Tuy rằng, trong triết học phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc cũng chứa
những tư tưởng triết học duy vật sơ khai, chất phác về bản nguyên của thế giới,
nhưng các nhà triết học phương Đông vẫn luôn xem xét sự phát sinh, phát triển của
vũ trụ, của thế giới khách quan trong sự gắn kết với con người. Ngược lại, triết học

phương Tây lại đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới, vấn đề con người được bàn
tới chỉ nhằm mục đích giải thích thế giới. Do vậy, vấn đề bản thể luận của triết học
phương Tây được thể hiện rất đậm nét, trong khi vấn đề bản thể luận của triết học
phương Đông lại thể hiện một cách mờ nhạt hơn.

2.2. Mặt xã hội và mặt sinh vật của con người
Trong khi triết học phương Đông chú trọng vào việc giải thích mối
quan hệ giữa người với người và đời sống tâm linh của con người, hầu như rất
ít quan tâm tới mặt sinh vật. Trái lại, triết học phương Tây lại chủ yếu
quan tâm tới khía cạnh sinh vật, về nguồn gốc xuất hiện của sinh vật, hầu như ít
quan tâm tới mặt xã hội của con người. Những mặt hạn chế của hai nền triết học cổ
đại này sau đã được khắc phục bởi triết học Mac-Lênin. Triết học Trung Quốc cổ
đại khi nghiên cứu đã lấy con người làm gốc, lấy triết lí nhân sinh làm nội dung.
Theo Khổng Tử, cái mà con người nên biết và có thể biết là bản thân con người.
Yêu mến con người, thờ phụng con người là bổn phận của con người. Còn theo
Mạnh Tử, bản tính con người ta là thiện, nó được thể hiện ở bốn đức: Nhân, nghĩa,
lễ,

trí.
9


Chúng ta có thể nói rằng: triết học ở đây đề cao long nhân ái, đạo đức, và sức
mạnh của đạo đức. Cũng đề cao đạo đức nhưng triết học Ấn Độ lại thông qua
những tư tưởng giải thoát con người.
Trong khi đó, triết học phương Tây cổ đại lại ít quan tâm đến sức mạnh
đạo đức, mà chủ yếu quan tâm nghiên cứu khía cạnh sinh vật, nguồn gốc xuất hiện
của con người. Như vậy, các nhà triết học phương Đông cổ đại nghiêng về nghiên
cứu nội tâm, hướng nội thì các nhà triết học phương Tây cổ đại lại đi sâu vào
phương

diện lí trí. Do vậy phải thường xuyên trau dồi lí trí, tiép thu những quy luật của tự
nhiên và quy luật của con người.

2.3. Về tư tưởng nhận thức luận
Trong khi các nhà triết học phương Đông cổ đại có những phương thức tư
duy triết học là nhận thức trực quan, trực giác, thì các nhà triết học phương
Tây cổ đại lại đề cao vai trò của nhận thức lí tính, phát triển các tư tưởng
thành lí thuyết với các chứng minh rõ rang, mạch lạc. Ở Ấn Độ cổ đại, các trường
phái triết học đề cao nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh khi nghiên cứu thế
giới, như phái Vaisesika, Lokayata, kinh Uparishop..
Ở Trung Quốc cổ đại, Lão Tử và Trang tử đề cao tư duy trừu tượng và coi
khinh nghiên cứu sự vật hiện tượng cụ thể. Cho dù các nhà triết học phương Đông
cổ đại đã có sự sang tạo phương thức tư duy trực quan, nhưng do thiếu luận chứng
và phân tích, lại dùng phương pháp tư duy giác ngộ bằng trực giác nên đã làm cho
các khái niệm thiếu logic, khoa học. Trái lại, các nhà triết học phương Tây lại
không đặt mình vào giữa đối tượng để suy nghiệm, mà tách con người ra khỏi đối
tượng nhận thức để đảm bảo được tính khách quan. Mặc dù vẫn có quan điểm như
10


Epiquga
nhưng ông đã thừa nhận tác động của vật chất vào các giác quan của con người.
Hầu hết các triết gia Hy Lạp đã đưa ra quan điểm về nhận thức luận đúng đắn, đó
là nhận thức một quá trình kinh nghiệm đến nhận thức lí tính. Vì thế, logic học đã
được phát triển ở phương Tây cổ đại.
Cái mạnh của phương Tây là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công nghệ
phát triển... và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng.
Phương Tây đi gần mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm,
quy luật... của toàm thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức độ bản
chất cao hơn... cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá , cách ly hoá, làm mất đi

tính tổng thể.
Triết học phương Đông ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến
sự hiểu biết, vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng. Trực giác giữ được
cái tổng thể mà tư duy phân tích, mổ xẻ đạt đến. Nhưng nó có tiềm tàng nhược
điểm là không phổ biến rộng được. Trực giác mỗi người mỗi khác. Và không phải
lúc nào trực giác cũng đúng. Thực ra 2 biện pháp kết hợp lẫn nhau, nhưng ở đây
nói về thiên hướng.
Triết học phương Tây có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức
cho khách quan còn triết học phương Đông lại cho rằng người nhận thức và đối
tượng nhận thức cùng hoà hợp vào nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu.) thì nhận
thức sẽ dễ dàng.
Phương tiện nhận thức của triết học phương Tây là khái niệm, mệnh đề, biểu
thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong triết học phương
Đông lại là ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn... để không bị lưới giả về nghĩa
do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của triết học phương Đông chính là sự đa
nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các phân tích khác nhau.
11


Triết học phương Đông biến đổi tuần tự thay đổi dần về lượng, dù thay đổi
bao nhiêu vẫn giữa lấy phần gốc phần lõi làm nền, không rời xa gốc đã có.
Triết học phương Tây thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến
hoá càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ
định hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Trong phép biện chứng giải thích quy luật của sự vận động - phát triển cũng
có nét khác biệt. Phương Đông nghiêng về thống nhất hay vận động vòng tròn,
tuần hoàn. Phương tây nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát triển theo hướng
đi lên.
Một nét nữa của triết học Tây - Đông là theo thống kê thì triết học phương
Tây thiện về hướng ngoại, chủ động, tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu

chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tư
duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể...
Khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại là hướng nội, bị động, trực giác
huyền bí, hoà hợp, quân bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng
hợp, minh triết, tôn giáo, tâm lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ...
2.4. Cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật:
Ở triết học phương Đông cổ đại, các trào lưu, học thuyết thường đan
xen yếu tố duy vật và duy tâm. Chính vì thế mà cuộc đấu tranh giữa duy vật và duy
tâm không gay gắt như ở phương Tây. Ở Trung Quốc cổ đại với trường phái nho
giáo mà đại diện là Khổng Tử. Trong quan niệm của ông, bên cạnh các yếu tố duy
tâm là các yếu tố duy vật. Ông đưa ra thuyết “Thiên mệnh”, và coi việc hiểu biết
mệnh trời là một hiểu biết tất yếu cần có để trở thành một con người hoàn thiện.
Song ông lại phê phán sung bái, mê tín. Trong phật giáo, sự đan xen giữa yếu tố
duy vật và duy tâm cũng thể hiện rất rõ nét.

12


Còn ở Triết học Ấn Độ, các quan niệm tự nhiên về các vị thần dần mờ nhạt,
thay vào đó là những nguyên lí trừu tượng, duy nhất, tối cao được coi là nguồn gốc
của vũ trụ, đó là thần sang tạo tối cao. Tuy nhiên trong thời kì này cũng xuất hiện
một làn song đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm. Không như ở phương Đông,
triết học phương Tây cổ đại lại có những cuộc đấy tranh gay gắt. Ở đây, mỗi nhà
triết học, mỗi trường phái lại có một ý kiến riêng biệt về bản nguyên của thế giới,
về mầm mống ban đầu của thế giới.

2.5. Sự đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình:
Trong triết học phương Đông, yếu tố bịên chứng và siêu hình
cùng tồn tại với nhau, đan xen nhau, không có sự đấu tranh gay gắt. Điều này trái
ngược với triết học phương Tây.

Với triết học Trung Hoa cổ đại, ta xem xét đại diện là Lão Tử. Ông cho
rằng trời không phải căn cứ của đạo mà trái lại, đạo có trước thần linh, hiện
tượng trong vũ trụ ông gọi là đạo thường. Ở đây, tư tưởng biện chứng được
thể hiện rõ nét. Ông cũng chỉ ra rằng, bất cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất
của hai mặt đối lập, vừa xung khắc lại vừa dựa vào nhau, và lien hệ, rang
buộc bao hàm lẫn nhau. Ở phương Tây, Hêraclit là người có đóng góp to lớn trong
lịch sử phát triển biện chứng. Đối lập với ông là phép biện chứng phủ định của
trường phái Êlê với chủ nghĩa vạn vật bất biến, không sinh thành, không diệt
vong.
Có nhiều quan điểm đối lập nhau khau và khác nhau rất nhiều về thế giới.
Quan điểm biện chứng về thế giới của các nhà triết học phương Tây cổ đại có
ý nghĩa to lớn đối với lịch sử triết học. tuy nhiên, nó mới chỉ là quan điểm mang
tính tự phát.

13


2.6. Các bước phát triển nhảy vọt về chất:
Ở triết học phương Tây, mỗi giai đoạn lịch sử bên cạnh những tư tưởng
triết học cũ, luôn xuất hiện những trường phái triết học mới với quan điểm có
tính phát triển nhảy vọt, tính cách mạng. Trong khi đó, triết học phương Đông
cổ đại ít có những bước nhảy mang tính cách mạng. Triết học phương Đông có
phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, đi sâu vào từng chi tiết, từng tư tưởng
trên cơ sở cái cũ, có cải tiến về phương diện nào đó như: Nho tiền tần, Hán nho,
Tống nho vẫn trên cơ sở nhân – lễ – chính danh, nhưng có cải biên về một phương
diện nào đó ví như Lễ thời tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến
thành tam cương ngũ thường, đời Tống biến thành chữ Lý... Điều đó thể hiện ở
chỗ, những nhà tư tương ở giai đoạn lịch sử sau thường cho mình là học trò, là
người kế tục sự nghiệp của những nhà sáng lập ở giai đoạn trước. Họ tự giới hạn
mình trong khuôn khổ ủng hộ, bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn

thiện và phát triển nó hơn là vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra
thức triết học mới. Do đó nó không mâu thuẫn với các học thuyết đã được đặt nền
móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn dẫn đến cuộc đấu tranh trong các
trường phát không gay gắt và cũng không triệt để. Những tư tưởng mới mà họ đưa
ra chỉ là để giải thích sâu hơn hoặc nhằm bảo vệ những ý tưởng của nhũng vị tiền
bối. Vì vậy ở giai đoạn sau ít thấy những trường phái triết học mới xuất hiện,
điều đó cho chúng ta thấy tính bảo thủ, trì trệ, kiệm tiến của triết học phương
Đông cổ đại. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến quá kéo dài và bảo
thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên nhau.
Ngược lại, ở phương Tây lại có những trường phái triết học mới, thể
hiện sự đột phá về tư tưởng. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường
phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại như thời cố
14


đại bên cạnh trường phái Talét, Hêraclit... đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng
Pháp, CNDV ở Anh, Hà lan, triết học cổ điển Đức... Ở Hy Lạp, triết học đã đi sâu
và bàn đến vấn đề con người, đặc biệt về thuyết nguyên tử của Đemocrit đã tạo ra
bước nhảy vọt về chất trong lịch sử triết học. Đặc điểm này còn được thể hiện qua
quan điểm mới của Hêraclit và nhận thức luận của Empedoclo. Và hơn nữa cuộc
đấu tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn. Chính
những điều đó đã tạo ra những bước phát triển nhảy vọt về chất của triết học
phương Tây cổ đại.

2.7. Việc được nhìn nhận như một khoa học độc lập:
Những tư tưởng triết học phương Đông cổ đại ít khi tồn tại dưới dạng
triết học thuần tuý mà thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn dấu đằng sau những
vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật Ngược lại, triết học phương
Tây cổ đại là một hệ thống các tư tưởng được trình bày trực tiếp, rõ ràng, triết học
được coi là một khoa học độc lập. Với triết học Trung Hoa, khổng Tử thể hiện tư

tưởng triết học về con người, về xã hội thông qua một số chính sách, bài học về trị
quốc. Ở Ấn Độ, triết học mang đậm máu sắc tôn giáo, triết học và tôn giáo luôn
hoà
nhập với nhau, rất khó phân biệt rõ rang. Triết học phương là một hệ thống triết
học thuần tuý, ngay từ khi ra đời đã chứa đựng các khoa học khác. Xen lẫn trong
các học thuyết Hy Lạp cổ đại là những định luật toán học, vệt lí, hay thiên văn học.
Với các nhà triết học điển hình như Talet, Pitago, Democrit..đều là nhũng nhà khoa
học tự nhiên.

15


2.8. Việc sử dụng hệ thống thuật ngữ của triết học :
Trong triết học phương Đông cổ đại, thường dung châm ngôn, ngụ
ngôn, ẩn ngữ có tính hình tượng để diễn đạt quan điểm, càng đi sâu vào suy
nghĩ thì càng thấy sự sâu sắc của triết học phương Đông cổ đại. Còn triết học
phương Tây cổ đại thì các tư tưởng triết học được diễn đạt, lập luận với ngôn ngữ
và phong cách tư duy mạch lạc, khoa học, có tính hệ.
-

Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”, “vật
chất”; còn phương Đông lại cùng “thái cực”, “đạo sắc, hình, vạn pháp,…” hay ngũ
hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ... Để nói về bản chất của vũ trụ, đặc biệt mối
quan hệ giữa con người với vũ trụ, phương Đông dùng phạm trù khách thể - chủ
thể, con người - tự nhiên, vật chất – ý thức, tồn tại – tư duy, còn phương Đông lại
dùng Tâm vật, năng – sơ, lí – khí, hình - thần”. Trong đó hình thần là những phạm
trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.

-


Về tính chất, sự biến đổi của thế giới: Phương Tây dùng thuật ngữ “biện chứng”
siêu hình, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu tranh cái động là chính, thì phương
Đông dùng bằng thuật ngữ động - tĩnh, biến dịch, vô thường, vô ngã và lấy cái
thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc là vì phương Đông triết học được xây dựng trên
quan điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì phương Tây
dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ”, “quy luật”, còn phương Đông dùng thuật ngữ
“đạo”, “lý”, “mệnh”, “thần” cũng xuất phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất
nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy luật, tính soắn ốc của vũ trụ như thái
cực đến lưỡng nghi... Có nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp
khổng lồ các xoắn ốc...
16


17


Tiểu kết
Triết học phương Đông

Triết học phương Tây
Vật chất - Máy móc - Mạnh mẽ, quyết

Tinh thần - Đời người - Tĩnh lặng cảm

liệt, Sức động, quan tâm thực thể độc

nhận các mối quan hệ

lập

Thiên về tôn giáo, mỹ thuật, nghệ thuật Thiên về khoa học công nghệ
Sử dụng tình cảm, quan tâm đạo đức Sử dụng trí tuệ, tư tưởng, quan tâm sự

Con người, đạo học
Dùng trực giác, tổng thể vẫn loanh

vật/hiện tượng - Vũ trụ, học thuyết
Dùng lý trí, mất dần tổng thể, ngày

quanh những lối cũ, bề ngòai
Quan tâm phần ngọn: nhân sinh quan,

càng phong phú, cụ thể
Quan tâm phần gốc: thế giới quan,

cách sống, lối sống

bản thể luận, nhận thức luận
Ảnh hưởng tới: giải thích/lý luận về

Ảnh hưởng tới: kinh nghiệm/hoàn thiện
cá nhân, ổn định xã hội

thế giới, thực hành kỹ nghệ, tự do cá
nhân, cách mạng xã hội

18


KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu và trình bày như ở trên, ta thấy rằng giữa hai nền
triết học có những đặc điểm khác xa nhau, mỗi nền triết học lại có những
nét đặc sắc riêng, nhưng chúng lại bổ sung cho nhau và đều có những
đóng góp to lớn và lịch sử phát triển triết học của nhân loại.
Ở phương Đông, ta tìm thấy sự sâu sắc, ý vị, tinh thần, đạo đức,
tính nhân đạo, màu sắc đời sống. Trong khi đó, tinh thần khoa học của triết học
phương Tây cổ đại lại làm cho triết học có tính logic và trở thành khoa học của các
ngành khoa học. Sự khác biệt này do nhiều nguyên nhân chi phối song nguyên
nhân chủ yếu chính là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội. Bởi lẽ
triết
học là một hình thái ý thức xã hội va chịu sự qui định của tồn tại xã hội.
Việc nghiên cứu triết học phương Đông và triết học phương Tây cổ đại
có ý nghĩa hết sức to lớn. Bởi lẽ, thông qua hoạt động nghiên cứu triết học,
chúng ta đã thấy được sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học của nhận loại
thời cổ đại, nắm bắt được quá trình hình thành và phát triển của những
phương pháp nhận thức khoa học. Từ đó, cho ta biện pháp hữu hiệu để nghiên
cứu, đánh giá một học thuyết triết học trong triết học cổ đại nói riêng và trong
lịch sử triết học nói chung, đồng thời, góp phần hình thành và phát triển
phương thức tư duy khoa học.
Việc chỉ ra sự khác nhau giữa triết học phương Đông và phương Tây cổ
đại đã giúp ta có cách đánh giá thoả đáng vị trí hai nền triết học này trong lịch
sử. Triết học phương Đông cổ đại ra đời từ rất sớm và là cái nôi của triết học
nhân loại. Triết học phương Tây cổ đại ra đời muộn hơn nhưng “đã có mồng
mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này” (Ph.Ăngghen).
Tuy nhiên, cả hai đều tồn tại những hạn chế nhất định. Điều này được khắc phục
19


dần trong những học thuyết triết học sau này. Và phái khi triết học Mác-Lênin ra
đời thì triết học mới thực sự là một công cụ nhận thức và cải tạo thế giới.


20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Bộ GD & ĐT, Giáo trình triết học, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội

2.

Lão Tử đạo đức kinh, 1984, NXB Văn Hóa.

21


22



×